Trang chủ Quan Điểm

Quan Điểm

Kể điều bạn biết, nói điều bạn nghĩ

Trần Thanh Vân, con “sói bạc” Trưởng ban Nội chính Thành ủy Đà Nẵng! (Phần 3)

Lê Hồng Hà

4-7-2018

Tiếp theo phần 1phần 2

Về phần ông Mai Đăng Hiếu (Đảng viên sinh hoạt tại Chi bộ Văn phòng 2, thuộc Đảng bộ Sở Nội vụ, nguyên Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ Sở Ngoại vụ, Phó giám đốc Sở Ngoại vụ kiêm Phó trưởng Văn phòng đại diện TP Đà Nẵng tại Tokyo – Nhật Bản) không chấp nhận việc mình bị cách chức Phó GĐ sở Ngoại vụ một cách “oan ức”, kèm theo điều tiếng. Ông cho rằng “tôi không tham ô, không hối lộ, không làm sai”.

Niềm tin về lịch sử

Hồ Bạch Thảo

3-10-2021

Trong 20 năm tham gia viết về lịch sử; càng viết, niềm tin về lịch sử càng được củng cố. Tuy cũng gọi là niềm tin, nhưng niềm tin lịch sử khác với niềm tin tôn giáo. Niềm tin tôn giáo, như Đức Mẹ hiện hình, Bồ tát Mục Kiền Liên dùng tuệ nhãn thấy mẹ bị đày nơi địa ngục; là niềm tin siêu nhiên, không cần chứng minh. Riêng lịch sử là một bộ môn khoa học xã hội, cần phải được chứng minh.

Lùm xùm việc phạt báo “lề phải” mới đây

Nguyễn Đăng Quang

28-7-2018

Nhà báo trẻ Minh Hải của Việt Nam Thời báo (VNTB) có yêu cầu tôi cho biết quan điểm về việc Bộ Thông tin-Truyền thông vừa qua đã xuống tay phạt nặng báo điện tử Tuổi trẻ Online (TTO) và VietnamNet (VNN). Tôi đã trả lời 2 câu hỏi của nhà báo Minh Hải qua email, nay xin được chia xẻ cùng các bạn đọc xa gần.

Ở đâu mà dân chủ và quyền con người bị chà đạp như ở Việt Nam?

Nguyễn Tiến Trung

3-11-2019

“Tiến sĩ” Cao Đức Thái, cựu Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quyền con người, vừa có bài viết với tựa đề là “Ở đâu mà dân chủ và quyền con người được đảm bảo hơn Việt Nam?“. Bài viết ca ngợi đảng Cộng sản Việt Nam đã bảo đảm quyền con người rất tốt.

“Đảng vừa chiến thắng nhân dân” vẻ vang!

Kông Kông

14-6-2018

Hình ảnh biểu tình ở Lăng Cha Cả, Sàigon ngày 10/6/2018

Chỉ mấy ngày sau 12/6/2018, ngày luật An Ninh Mạng (ANM) được bấm nút thông qua, là ngày người VN bị tước đoạt quyền nói, quyền viết, quyền bày tỏ chính kiến thì sự căm phẫn đã trào dâng trên cả nước. Không những thế mà thế giới cũng lên án.

Kỷ Niệm 75 Năm Ngày Nhật Đầu Hàng: Tội Ác Của Nhật, Tỉnh Thức Của Thế Giới và Việt Nam (Phần II)

Đỗ Kim Thêm

1-9-2020

Tiếp theo phần 1: Nguyên Nhân và Ảnh Hưởng

Tóm lược: Sau 75 năm, trong mối bang giao đối với các nước Á Đông, Nhật cố làm tăng tầm quan trọng địa chính trị, nhưng vẫn chưa làm sáng tỏ về các tội ác trong chiến tranh và sự thật lịch sử vẫn còn là một gánh nặng.

Lạnh kinh hoàng ở Texas và tiểu các bang khác, sao bảo trái đất nóng lên?

Jackhammer Nguyễn

22-1-2021

Đó là thắc mắc của những người dân thường, không thuộc giới khoa học, cũng như của một số chính trị gia, dù họ có kiến thức khoa học, hiểu rõ nguyên nhân, nhưng vì lợi ích chính trị, nên họ nói rằng thời tiết lạnh khắp nơi, nên không có hiện tượng “biến đổi khí hậu”, hay “hâm nóng toàn cầu”.

Ngày 10/6/2019: Kỷ niệm một năm ngày cả nước rầm rộ xuống đường

Cảnh sát cơ động Bình Thuận cởi bỏ quân phục, chịu thua dân.
CSCĐ Bình Thuận bỏ của chạy lấy người. Ảnh trên mạng

 BTV Tiếng Dân

10-6-2019

Hôm nay vừa tròn một năm, ngày cả nước rầm rộ xuống đường biểu tình chống dự luật Đặc khu và luật An Ninh mạng. Một số nhà quan sát nhận định, mặc dù không có tổ chức hay cá nhân nào đứng ra lãnh đạo, nhưng đây là cuộc biểu tình có đông người dân tham gia nhất kể từ khi chiến tranh kết thúc tháng 4/1975.

Vấn đề của Đảng Cộng Sản Việt Nam (Phần 1)

Tạ Dzu

28-4-2018

“Bốn chữ tự nhiên kinh tế mâu thuẫn lẫn nhau, vì kinh tế bao giờ cũng bao hàm một thủ đoạn nhân vi, trái ngược với hai chữ tự nhiên” – (Lý Đông A, Nền Triết Học Chính Thống)

Năm 2013, Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), ông Nguyễn Phú Trọng, trong lần tham dự bàn về dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã phát biểu rằng “…Đổi mới chỉ là giai đoạn, còn xây dựng Chủ nghĩa Xã hội (CNXH) còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa”.

Ông Trời con xưng… con

Lò Văn Củi

27-2-2018

Ông Hai Xích lô khai cuộc:

– Bữa qua nói chuyện về ông trời con và thiên lôi, chú Tám nói y như rằng hén, trời con và thiên lôi ở xứ ta, cần xé dựng hổng đủ.

Anh Năm Ba gác… dụi mắt hỏi:

– Như trời đêm đầy sao hen, mới xuất hiện “sao” nào nữa hả ông Hai?

Công an điều tra thuộc phe nhóm nào?

Kông Kông

20-10-2019

Sự kiện đột tử của Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Lê Hải An ngay tại canteen trụ sợ Bộ, trên lầu 8, “ngã và rơi” xuống đường chết tại chỗ, đang được báo chí nhà nước cũng như mạng xã hội đưa tin tràn ngập.

Merrick Garland vs. Donald Trump (Kỳ 4)

Minh Phạm

11-6-2021

Tiếp theo kỳ 1kỳ 2kỳ 3

Vấn đề sẽ phải được giải quyết rốt ráo! Như tôi đã nói trong phiên điều trần chuẩn nhận chức vụ, nay các mưu đồ chính trị hoặc hành vi ám muội khác sẽ không có chỗ đứng trong các quyết định của Bộ Tư pháp“.

Phong trào tranh đấu ở Hồng Kông vs Việt Nam

Trương Nhân Tuấn

13-8-2029

Dân Hồng Kông thực sự chưa bao giờ được sống trong một chế độ “dân chủ”. Trước khi trả lại cho Trung Quốc, dân Hồng Kông được cai trị bởi một viên chức (gọi là thống đốc), là người của nữ hoàng Anh gởi đến. Tức Hồng Kông là “thuộc địa” của Anh và Anh cai trị với nền “hành chánh thuộc địa”.

“Chúng tôi không thể ủng hộ Donald Trump”

Lời Người Dịch: Bài viết dưới đây của Ban Biên tập báo Orlando Sentinel. Đây là một trong những tờ báo lớn nhất ở thành phố Orlando và khu vực Central Florida. Tờ báo này có một lịch sử ủng hộ các ứng viên tổng thống đảng Cộng hòa.

***

Ứng cử viên Tổng thống 2020 chúng tôi ủng hộ: Không phải là Donald Trump

BBT Orlando Sentinel

Dịch giả: Mai V. Phạm

18-6-2019

Donald Trump đang ở Orlando để tuyên bố khởi động chiến dịch tái tranh cử tổng thống. Chúng tôi muốn đại diện tờ báo tuyên bố sự ủng hộ cho ứng viên tổng thống vào năm 2020, hoặc, ít nhất, người mà chúng tôi không thể ủng hộ: Donald Trump.

Bệnh ghiền họp…

Trương Minh Ẩn

29-5-2018

Lâu ngày mới gặp lại anh bạn, tay bắt mặt mừng, hỏi thăm công việc làm ăn. Anh bạn trả lời, “cũng tàm tạm, sống được qua ngày như hầu hết bà con làm ăn chân chính, chứ khó có khấm khá, nói chi tới giàu sang”. Tôi đồng ý với anh bạn cả hai tay hai chân, bởi thực tế là vậy, thời buổi bây giờ hiếm có người làm ăn chân chính mà trở nên giàu có. Chợt nhớ, có một thời anh từng cộng tác với nhà nước, nghe nói làm công trình lớn cũng nhiều, chắc chắn sẽ khá chứ. Anh nói, đã nghỉ rồi, hứa tuyệt giao luôn với nhà nước, không mó vô một thứ gì nữa cả, và khá cũng không có dễ với nhà nước này đâu.

Trung Cộng cản trở hoà bình trên bán đảo Triều Tiên?

Vũ Ngọc Yên

24-5-2018

Vào ngày 10.05.2018 trên các đài truyền hình, Tổng Thống Mỹ Donald Trump xuất hiện, niềm nở thông báo, Ngoại trưởng Mike Pompeo đã hoàn thành công vụ ở Bắc Hàn, đưa ba tù nhân Mỹ về nước và tỏ vẻ vui mừng trước tin tên ông có trong danh sách những ứng viên tranh giải Nobel Hoà bình.

Luật sư, luật xiếc gì thế này…

Nguyễn Huy Cường

19-7-2023

Trích báo chí, tôi đánh số thành 02 phần:

1. Luật sư liệt kê: Bị cáo Tô Anh Dũng đại diện cho Chính phủ Việt Nam trực tiếp giải quyết hậu quả vụ việc 39 công dân tử vong ở Anh năm 2019. Năm 2021, ông Dũng tham gia thực hiện công tác ngoại giao vaccine ở châu Âu.

Người đàn ông chết sau khi uống thuốc chloroquine để ngăn chặn virus corona

NBC

Tác giả: Erika Edwards Vaughn Hillyard

Dịch giả: Trúc Lam

23-3-2020

Một người đàn ông và vợ ông nghĩ rằng thành phần của thuốc được sử dụng để điều trị cá bị bệnh, có thể ngăn ngừa bệnh.

Sau cuộc gặp Mỹ – Trung ở Alaska

Tác giả: Ngụy Kinh Sinh

Dịch giả: Lê Minh Nguyên

26-3-2021

Bốn nhân vật chính tại đối thoại Mỹ – Trung. Từ trái qua: Vương Nghị và Dương Khiết Trì phía TQ; Antony Blinken và Jake Sullivan phía Mỹ

Giờ đây, mọi người đều rất lo lắng về tình hình mới và khuôn mẫu mới nào sẽ xuất hiện sau cuộc gặp Alaska giữa Trung Quốc và Mỹ. Vì vậy, chúng ta hãy bắt đầu với những gì xảy ra ở cuộc họp này.

Công an thành Hồ vừa lập được hai “chiến công vang dội”

Khoa Duy

16-8-2018

Ngày 15/8/2018, công an thành Hồ đã lập được hai “chiến công vang dội”: cướp đất và đánh, bắt giữ trái phép người dân. CA thành Hồ nói riêng, CA cả nước nói chung, rất xứng đáng bị người dân nguyền rủa là “chó săn cắn cổ nhân dân”.

Vượt biển do nhà nước tổ chức và những cái chết tang thương

Nguyễn Tuấn Khoa

27-10-2019

Những ngày qua thế giới đang xót thương cho 39 người xấu số trong một nỗ lực thoát nghèo với một cuộc đào thoát khỏi đất nước nhược tiểu. Thế giới cũng đang dồn sự căm phẫn lên lũ buôn người của đất nước Trung Cộng hiếu chiến. Đọc lại “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức, tôi nhớ lại những cái chết tang thương giống như vậy trong cuộc vượt biển do nhà cầm quyền Việt Nam tổ chức dưới cái tên Đi Bán Chính Thức.

Phải chăng có người nghe được?

Nguyễn Đình Cống

26-1-2021

Đoàn Chủ tịch ở đại hội 13. Ảnh: NLĐ

Tháng 2 năm 2016, sau ĐH 12 của ĐCSVN, tôi viết bài báo “Những điều trái khoáy ở các đại hội”, trong đó có đoạn về chủ tịch đoàn như sau:

Phan Châu Trinh: từ “thuyết tự trị” đến “chế độ tự trị”

Mai Thái Lĩnh  

3-5-2019

Trong số các di cảo của Phan Châu Trinh, có hai văn bản đáng chú ý: bản thảo chưa hoàn thành có tên là Liên hiệp Pháp-Việt hậu chi Tân Việt Nam (Nước Việt Nam mới sau Liên hiệp Pháp-Việt, tạm gọi là Tân Việt Nam) và bài thơ dài 500 câu Tỉnh quốc hồn ca II (1). Trong cả hai tài liệu đều có thuật ngữ “tự trị”. Nhưng nếu xem xét kỹ nội dung, ta thấy khái niệm này có sự thay đổi, hay nói đúng hơn là có sự phát triển theo thời gian.

Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ (Phần 30)

Hồ Bạch Thảo

8-5-2020

30. Lý Anh Tông [1138-1175]

Niên hiệu: Thiệu Minh:1138-1139, Đại Định: 1140-1162; Chính Long Bảo Ứng: 1163-1173, Thiên Cảm Chí Bảo: 1174-1175

Vua Anh Tông lên ngôi lúc mới 2 tuổi, trị vì chưa được bao lâu, vào năm 1140 có người thầy bói tên là Thân Lợi tự xưng là con riêng của Vua Lý Nhân Tông, mang đồ đảng đến vùng Thái Nguyên, Bắc Kạn, xúi giục dân chúng nổi dậy:

Tháng 10 năm Đại Định năm thứ 1 [1140]. Người thầy bói Thân Lợi tự xưng là con của Nhân Tông đem đồ đảng theo đường thủy đến châu Thái Nguyên [Thái Nguyên, Bắc Kạn], từ châu Tây Nông [Phú Bình, Thái Nguyên] kéo ra, qua châu Lục Lệnh, vào chiếm châu Thượng Nguyên và châu Hạ Nông [Bạch Thông, Bắc Kạn], thu nạp những kẻ trốn tránh, chiêu mộ thổ binh, có đến hơn 800 người, cùng mưu làm loạn”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Theo Tống Sử, cũng vào thời gian này có người tên là Triệu Trí tự xưng là Bình vương nhận là con vợ kế của Vua Lý Nhân Tông [Càn Đức] đến Quảng Tây xin triều cống và mượn quân, nhưng Vua Tống từ khước:

Năm Tống Thiệu Hưng thứ 9 [1139] ban chiếu cho Soái ty Quảng Tây không cho Triệu Trí vào cống. Trước đó có con vợ kế của Càn Đức chạy vào nước Đại Lý, đổi họ tên là Triệu Trí, tự xưng là Bình vương. Nghe tin Dương Hoán chết, Đại Lý cho về để tranh quyền với Thiên Tộ [Anh Tông]; y xin được vào triều cống, cùng mượn quân, nhưng Thiên tử không cho”. Tống Sử, quyển 488, Giao Chỉ.

(九年,詔廣西帥司毋受趙智之入貢。初,乾德有側室子奔大理,變姓名爲趙智之,自稱平王。聞陽煥死,大理遣歸,與天祚爭立,求入貢,欲假兵納之,帝不許。)

Năm sau tại châu Thái Nguyên, Thân Lợi cũng tự xưng là Bình vương, lập vợ làm Hoàng hậu; như vậy có khả năng Thân Lợi và Triệu Trí là một người, y từ nước ngoài lén vào nội địa gây loạn. Nhận thư cáo cấp, triều đình sai Gián nghị đại phu Vũ Nhị mang quân thủy bộ noi theo thượng nguồn sông Cầu tiến đánh, quân Nhị bị đại bại tại vùng Bắc Kạn. Thân Lợi tiếp tục xua quân về kinh sư, bị Thái úy Đỗ Anh Vũ đánh bại tại Bắc Ninh. Đến tháng 10 năm Đại Định thứ 2 [1141], bọn Thân Lợi bị Thái phó Tô Hiến Thành bắt tại Lạng Sơn, đóng cũi mang về kinh sư xử chém:

“Mùa xuân tháng giêng năm Đại Định thứ 2 [1141]. Thân Lợi tiếm xưng là Bình Vương, lập vợ cả, vợ lẽ, làm hoàng hậu và phu nhân, con làm vương hầu, cho đồ đảng quan tước theo thứ bậc khác nhau. khi ấy đồ đảng của Thân Lợi chỉ hơn nghìn người, đi đến đâu nói phao là Lợi giỏi binh thuật để hiếp chế người miền biên giới. Người các khe động dọc biên giới đều khiếp sợ, không dám chống lại.

Tháng 2, quan coi biên giới dâng thư cáo cấp. Xuống chiếu cho Gián nghị đại phu Lưu Vũ Nhĩ đem quân do đường bộ tiến đi, Thái phó là Hứa Viêm đem quân ngược đường thủy để tiến đánh. Khi ấy Vũ Nhĩ sai tướng tiên phong là Thị vệ đô Tô Tiệm và Chủ đô trại Tuyên Minh là Trần Thiềm đem quân đi trước, đóng ở sông Bác Đà, gặp thủy quân của Lợi cùng giao chiến. Tiệm thua, bị Lợi giết, Lợi trở về giữ châu Thượng Nguyên, đắp đồn ải ở huyện Bác Nhự để chống quan quân. Vũ Nhĩ đánh nhổ được ải Bác Nhự, tiến đến Bồ Đinh [Bắc Kạn], gặp thủy quân của Lợi, đánh lớn, Vũ Nhĩ thua trận, tướng sĩ chết đến quá nửa, phải rút về.

Mùa hạ, tháng 4, ngày Mậu Thìn, Vũ Nhĩ về đến Kinh sư. Ngày Tân Mùi, Lợi ra chiếm châu Tây Nông, sai người ở các châu Thượng Nguyên Tuyên Hóa [Định Hóa, Thái Nguyên], Cảm Hóa [Ngân Sơn, Bắc Kạn], Vĩnh Thông [Phú Lương, Thái Nguyên] đánh lấy phủ Phú Lương. Lợi chiếm giữ phủ trị, ngày đêm hợp bè đảng mưu cướp kinh sư. Ngày Kỷ Mão, vua sai thái úy Đỗ Anh Vũ đem quân đi đánh Lợi.

Tháng 5, ngày Tân Mão, quân của Lợi kéo về cướp kinh sư, đóng ở Quảng Dịch, gặp quân của Anh Vũ, đánh lớn. Quân của Lợi thua, chết không kể xiết. Anh Vũ sai chém lầy đầu bêu lên ở cạnh đường suốt từ quan Bình Lỗ đến sông Nam Hán.

Bắt được thủ lĩnh châu Vạn Nhai [Võ Nhai, Thái Nguyên] là Dương Mục, thủ lĩnh động Kim Kê là Chu Ái, đóng củi giải về Kinh sư. Lợi chỉ chạy thoát một mình về châu Lục Lệnh. Ngày Nhâm Ngọ, giải bọn Mục và Ái về trói giam ở huyện phủ của chúng. Xuống chiếu cho Anh Vũ chiêu tập bọn tàn tốt của Lợi ở cửa quan Bình Lỗ.

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, lại sai Anh Vũ đi đánh châu Lục Lệnh, bắt được bọn bè đảng của Lợi hơn 2.000 người. Lợi trốn sang châu Lạng, Thái phó Tô Hiến Thành bắt được Lợi, giao cho Anh Vũ đóng củi giải về kinh sư. Sai Lý Nghĩa Lâm chiêu tập vỗ yên dư đảng của Lợi. Xuống chiếu cho quan Đình úy xét tội Lợi. Án xét xong, vua ngự điện Thiên khánh xử tội Lợi và bọn đồng mưu 20 người đều xử trảm, những kẻ còn lại đều theo tội nặng nhẹ mà xử, tha cho những kẻ vì ép buộc mà phải theo. Các quan dâng biểu mừng”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Năm sau [1142], triều đình tha tội lưu đày cho đồng đảng Thân Lợi: “Tháng 12 năm Đại Định thứ 3 [1142]. Xuống chiếu tha tội lưu cho các bè đảng của Thân Lợi”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Trong chiến dịch nêu trên, tướng Lưu Vũ Nhị bại trận; sau đó y 2 lần dâng ngọc quí vật lạ lên Vua, để tìm cách xóa tội:

Năm Đại Định thứ 2 [1141] Lưu Vũ Nhĩ dâng hươu trắng, lại dâng ngọc tân lang [ngọc cau]”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Mùa xuân, tháng 2 năm Đại Định thứ 3 [1142], Lưu Vũ Nhĩ dâng ngọc thiềm thừ [ngọc cóc]”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Lại có vụ nổi loạn tại vùng biên giới do Đàm Hữu Lượng, người Trung Quốc, chủ mưu; viên trấn thủ Ung châu [Nam Ninh, Quảng Tây] hợp tác với quan quân ta, dẹp được:

Hữu Lượng trốn sang châu Tư Lang nước ta, nói dối là vâng sứ mạng nhà Tống đi chiêu dụ dân chúng ở biên thùy. Dân các khê động ở duyên biên theo về với hắn nhiều lắm. Hắn bèn chiếm giữ đất Thông Nông, đem đồ đảng cướp bóc Quảng Nguyên. Gặp lúc ấy kinh lược súy ty tỉnh Quảng Tây nhà Tống đưa thư sang bảo ta đánh giúp để bắt Hữu Lượng. Nhà vua xuống chiếu cho bọn Dương Tự Minh, Nguyễn ữ Mai và Lý Nghĩa Vinh đi đánh. Lại sai Thái sư Mâu Du Đô đem quân kế tiếp tiến lên. Tự Minh đánh phá được Thông Nông, Hữu Lượng thua chạy. Ta bắt được đồ đảng nó là lũ Bá Đại 21 người, trao trả cho nhà Tống. Nhà cầm quyền ở Ung Châu (Tống) làm ra cáo sắc giả để đón Hữu Lượng về. Hữu Lượng liền cùng với đồ đảng hơn 20 người, đem dâng ấn đồng và địa đồ. Khi đến trại Dương Sơn, viên tri châu Ung Châu là Triệu Nguyên bắt lấy đưa đến suý ty chém chết”. Cương Mục, Chính Biên, quyển 4.

Triều đình tiếp tục mang quân đi đánh dẹp, bình định các nơi; xin liệt kê như sau:

Tháng giêng năm Đại Định thứ 15 [1154], Người Sơn Lão [bộ tộc Lão tại miền núi] ở Chàng Long làm phản. Tháng 2 xuống chiếu cho Đỗ Anh Vũ đi đánh người Sơn Lão ở Chàng Long, hàng phục được”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Ngày Đinh Mùi tháng 11, năm Đại Định thứ 15 [1154], vua thân đi đánh Nông Khải Lai. Ngày Canh Tuất, xuất phát từ Kinh sư. Ngày Giáp Dần thắng trận. Ngày Bính Thìn, đem quân về. Ngày Kỷ Mùi, về đến Kinh”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Mùa hạ, tháng 5, năm Đại Định thứ 20 [1159] Ngưu Hống và Ai Lao làm phản. Sai Tô Hiến Thành đi đánh, bắt được người và trâu ngựa voi, vàng bạc châu báu rất nhiều. Phong Hiến Thành làm Thái uý”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Một vụ dâm loạn xảy ra trong chốn cung đình, ảnh hưởng lớn đến sự ổn định cùa đất nước. Bấy giờ Lê Thái hậu, mẹ vua còn trẻ, bà phải lòng em ruột của Đỗ Thái hậu tên là Đỗ Anh Vũ. Cậy có chị làm Thái hậu, nên Anh Vũ thường ra vào nơi cung cấm; lúc Vua Anh Tông mới lên ngôi, còn thơ dại, Lê Thái hậu ban cho Anh Vũ chức Cung điện lệnh:

Năm Đại Định năm thứ 1[1140]; lấy Đỗ Anh Vũ làm Cung điện lệnh tri nội ngoại sư. Anh Vũ là em của Đỗ thái hậu, nên Lê thái hậu trao cho chức này”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4

Được Thái hậu yêu, Anh Vũ tác oai lũng đoạn trong triều. Một số quan Đại thần trong đó có Vũ Đái, Nguyễn Dương bất bình; nhắm lúc Vua đã hơi lớn, bèn tâu vua xin bắt Đỗ Anh Vũ, được Vua chấp thuận. Nguyễn Dương muốn giết Anh Vũ để trừ hậu hoạn, nhưng Vũ Đái nhận hối lộ của Thái hậu tìm cách ngăn cản; Nguyễn Dương tức giận chửi Vũ Đái rồi tự tử. Đỗ Anh Vũ bị xử lưu đày, Thái hậu tìm cách mở hội lớn, xá tội nhân, trong đó có Anh Vũ. Rồi Anh Vũ được phục chức Thái úy phụ chính như cũ, tìm cách phục thù, giết đến mấy chục quan Đại thần và thuộc cấp, những người trước đây đã tố cáo y:

Năm Đại Định thứ 11 [1150]. Khi trước vua còn trẻ thơ, chính sự không cứ việc lớn, việc nhỏ đều uỷ cho Đỗ Anh Vũ cả. Anh Vũ sai vợ là Tô Thị ra vào cung cấm hầu hạ Đỗ Thái hậu, do đó mà Anh Vũ tư thông với Lê Thái hậu, nhân thế lại càng kiêu rông, ở triều đình thì khoát tay lớn tiếng, sai bảo quan lại thì hất hàm ra hiệu, mọi người đều liếc nhau nhưng không ai dám nói. Điện tiền đô chỉ huy sứ là Vũ Đái, Hoả đầu đô Quảng Vũ là Lương Thượng Cá, Hoả đầu đô Ngọc Giai là Đồng Lợi, Nội thị là Đỗ Ất, cùng với bọn Trí Minh Vương, Bảo Ninh hầu, Phò mã lang Dương Tự Minh cùng mưu bắt giam Anh Vũ. Bàn tính xong, bọn Đái đem quân lính đến ngoài cửa Việt Thành hô to rằng:

‘Anh Vũ ra vào cấm đình, làm nhiều đều ô uế, tiếng xấu đồn ra ngoài, không tội gì to bằng. Bọn thần xin sớm trừ đi, khỏi để mối lo về sau’.

Bèn có chiếu sai cấm quân đến bắt Anh Vũ trói giam ở hành lang Tả Hưng Thánh, giao cho Đình uý tra xét. Thái hậu sai người mang cơm rượu cho Anh Vũ, ngầm để vàng vào trong đồ đựng món ăn để đút cho Vũ Đái và các người canh giữ. Hoả đầu ở đô Tả Hưng Thánh là Nguyễn Dương nói:

‘Các ông tham của đút, tôi với các ông tất không thoát khỏi tay Anh Vũ đâu, chi bằng cứ giết trước đi cho khỏi tai hoạ về sau’.

Bèn cầm giáo định đâm. Đô Tả Hưng Thánh là Đàm Dĩ Mông ôm Dương, cướp lấy giáo, ngăn rằng:

‘Điện tiền bảo Anh Vũ tội đáng chết, nhưng còn phải đợi mệnh lệnh của vua, không nên tự tiện’

Dương giận, chửi:

‘Điện tiền Vũ cứt chứ chẳng phải Đái! (chữ Cát Đái phương ngôn nói là cứt đái). Sao tham của đút mà không tiếc đến mạng mình!’.

Nói xong, tự biết không khỏi chết, bèn nhảy xuống giếng tự tử. Bấy giờ vua xét án của Anh Vũ, đày Anh Vũ làm Cảo điền nhi (1). Thái hậu lo buồn, cố nghĩ làm thế nào để phục hồi chức nhiệm cho Anh Vũ, mới nhiều lần mở hội lớn để xá cho tội nhân, mong Anh Vũ được dự vào đấy. Anh Vũ được mấy lần xá tội, lại làm Thái uý phụ chính như cũ, càng được yêu dùng hơn, do đấy chuyên làm oai, làm phúc, sinh sát mà lòng báo thù lúc nào cũng tỏ rõ, còn sợ rằng bọn quân lại đi bắt bớ phần nhiều không được như ý, mới dâng hơn một trăm người thủ hạ để làm đô Phụng quốc vệ, người nào phạm tội đều giao cho đô Phụng quốc vệ đi bắt. Anh Vũ mật tâu với vua rằng:

‘Trước kia bọn Vũ Đái tự tiện đem cấm quân xông vào cung đình, tội ấy không gì to bằng, nếu không sớm trừng trị, sợ một ngày kia sinh biến, không thể lường được’.

Vua chẳng biết gì cả, bèn chuẩn tâu. Anh Vũ sai đô Phụng quốc về đi bắt bọn Vũ Đái giam vào ngục để trị tội. Hạ chiếu giáng Trí Minh Vương xuống tước hầu, Bảo Ninh hầu xuống tước minh tự, Bảo Thắng hầu xuống tước phụng chức, Nội thị là bọn Đỗ Ất 5 người bị “cưỡi ngựa gỗ” (2), bọn Hoả đầu đô Ngọc Giai là Đồng lợi 8 người bị chém ở chợ Tây Giai, bọn Điện tiền đô chỉ huy Vũ Đái 20 người chém bêu đầu ở các bến sông, bọn Phò mã lang Dương Tự Minh 30 người bị tội lưu ở nơi xa độc, những người dự mưu đều bị tội đồ làm điền hoành, khao giáp, quả như lời nói của Nguyễn Dương”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Mặt khác Đỗ Anh Vũ tìm cách nịnh hót Vua, bằng cách dâng những vật lạ:

Mùa hạ, tháng 4 năm Đại Định thứ 12 [1151], Đỗ Anh Vũ dâng cây cau một gốc 28 nhánh. Tháng 5, Đỗ Anh Vũ dâng hươu trắng”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Vào năm 1156 viên Sứ thần Nguyễn Quốc đi sứ Trung Quốc, thấy nước này cho đặt thùng thư tại sân đình để nhận lời tâu cáo của dân chúng, khi trở về nước bèn tâu cho thực hiện. Nhà Vua chấp nhận, lúc mở thùng trong đó có thư nặc danh tố cáo Đỗ Anh Vũ làm loạn. Anh Vũ nghi Quốc là tác giả thư, bèn tìm cách bắt đi đày; lúc Quốc được Vua gọi về thì bị Anh Vũ đầu độc chết. Sau sự kiện này, vào tháng 8 Đỗ Anh Vũ mất; nhà Vua bắt đầu trọng dụng Tô Hiến Thành, tình hình trong nước trở nên sáng sủa hơn:

“Mùa xuân, tháng 2 năm Đại Định thứ 19 [1158], Nguyễn Quốc sang sứ nước Tống về, dâng tâu rằng:

‘Thần sang nước Tống thấy ở giữa sân vua có cái hòm bằng đồng để nhận các chương tấu của bốn phương, thần xin bắt chước mà làm như thế để bề trên rõ được tình người dưới’.

Vua y theo, cho đặt cái hòm ở giữa sân để ai có trình bày việc gì thì bỏ thư vào hòm ấy. Bấy giờ có người ngầm bỏ thư nặc danh nói là Anh Vũ làm loạn, tìm xét không biết là ai. Anh Vũ vu cho Quốc làm, đày Quốc đến trại đầu ở Thanh Hóa. Không bao lâu, vua gọi Quốc về. Anh Vũ lại đưa cho Quốc rượu có thuốc độc, Quốc tự nghĩ không khỏi bị hại, bèn uống thuốc độc chết.

Mùa thu, tháng 8, Đỗ Anh Vũ chết”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Vào năm 1126 nước Tống gặp thảm họa gọi là Mối Nhục Thời Tĩnh Khang [靖康之恥Tĩnh Khang Chi Sỉ]; quân nước Kim từ phương bắc, hai mặt tấn công, bắt sống Vua, đánh tan thủ phủ Khai Phong [Hà Nam]; đám tàn dư phải rút về phương nam gọi là Nam Tống. Nam Tống thế lực suy yếu trở nên hòa hoãn với Đại Việt. Khi Vua Thần Tông lên ngôi; triều đình dâng biểu báo tin sang Trung Quốc, Vua Tống phong nhà Vua tước Giao Chỉ Quận vương:

Năm Thiệu Minh thứ 2 [1139]. Nhà tống phong vua làm Giao Chỉ Quận Vương”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Tiếp đến cứ 4 hoặc 5 năm, triều đình ta sai Sứ thần sang cống, cống vật chủ yếu là voi thuần:

Tục Tư Trị Thông Giám, quyển 127, Tống Cao Tông năm Thiệu Hưng thứ 16 [1146]

Tháng 6 [7/1146], tháng này An Nam hiến 10 voi thuần”.

(是月,安南献驯象十。)

 “Tục Tư Trị Thông Giám, Quyển 128, năm Thiệu Hưng thứ 20 [1150]

Tháng 2 [3/1150], tháng này An Nam tiến 10 voi thuần”.

(是月,安南进驯象十。)

Tục Tư Trị Thông Giám, Quyển 130, năm Thiệu Hưng thứ 25 [1155]

Ngày Giáp Thân tháng 4 [10/5/1155], An Nam đến cống. chiếu Soái thần Quảng Tây sai Sứ thần quen việc thân cận với trên, bạn tống đến hành tại”.

(甲申,安南入贡,诏广西帅臣差熟事近上使臣伴送赴行在。)

Vào năm 1156, triều đình nước ta sai Sứ đến mừng thanh bình, đưa đồ cống kỳ này rất hậu hỷ:

Tục Tư Trị Thông Giám, quyển 131.Ngày Canh Dần tháng 8 năm Thiệu Hưng thứ 26 [7/9/1156], Nam bình vương Lý Thiên Tộ [Anh Tông] sai Thứ sử châu Thái Bình Lý Quốc, Hữu vũ đại phu Lý Nghĩa, Vũ dực lang Quách Ứng Ngũ đến mừng thanh bình. Hiến đồ vật bằng vàng 1.136 lượng. minh châu 100, trầm hương 1.000 cân, thủy vũ 500; lăng [lụa trơn], quyên [lụa thô] các màu 5.000 tấm, 10 ngựa, 9 voi. Chiếu sai Thượng thư Tả tư lang trung Uông Ứng Thần đãi quốc yến tại vườn Ngọc Tân. Thăng Quốc làm Đoàn luyện sứ châu Thái Bình, Nghĩa chức Tả vũ đại phu, Ứng Ngũ chức Vũ kinh lang; ban y phục, dây đai, đồ vật, tiền, có sai biệt”.

Ngày Ất Vị tháng 8 [12/9/1156], Tĩnh hải quân tiết độ sứ, Kiểm hiệu thái úy, Nam bình vương Lý Thiên Tộ làm Kiểm hiệu thái sư, công hiệu thêm 2 chữ “Qui Nhân”; ban y phục, dây đai, yên ngựa, tiền”.

(庚寅,南平王李天祚,遣太平州刺史李國以右武大夫李義、武翼郎郭應五來賀升平,獻黃金器千一百三十六兩,明珠百,沈香千斤,翠羽五百隻,雜色綾絹五千匹,馬十,象九。詔尚書左司郎中汪應辰燕國於玉津園。遷國為太平州團練使,義左武大夫,應五武經郎,加賜襲衣、金帶、器、幣有差

乙未,靜海軍節度使、檢校太尉、南平王李天祚為檢校太師,功號加「歸仁」二字,賜襲衣、金帶、鞍馬、器、幣。)

Riêng Tống Sử xác nhận năm Thiệu Hưng thứ 25 [1155] Vua Tống đặc cách phong Vua Anh Tông [Thiên Tộ] tước Nam bình vương, có lẽ muốn cảm ơn hậu đãi này, nên năm sau [1156] triều đình ta sai Sứ thần Lý Quốc tiến cống trọng hậu như vậy. Cũng cần lưu ý rằng sau khi nhà Lý mất, nhà Trần ra lệnh đổi họ Lý thành Nguyễn, nên Sứ thần Lý Quốc Tống Sử chép dưới đây, Toàn Thư đã chép là Nguyễn Quốc, tức vị quan từng đề nghị lập thùng thư tại triều, rồi bị Đỗ Anh Vũ hãm hại vào năm 1158 :

Năm thứ 25 [1155] chiếu ban cho Sứ giả An Nam lưu tại quán dịch Hoài Viễn, ban yến, biểu lộ đặc cách; tiến phong Thiên Tộ Nam bình vương, ban cho lễ phục, dây đai vàng, yên ngựa. Năm thứ 26 [1156] mệnh Hữu ty lang trung Uông Ứng Thần ban yến sứ giả An Nam tại vườn Ngọc Tân; vào tháng 8 Thiên Tộ sai bọn Lý Quốc mang kim châu, trầm thuỷ hương, thuý vũ, ngựa tốt, voi thuần đến cống; chiếu gia phong Thiên Tộ Kiểm hiệu thái sư, tặng thực ấp”.Tống Sử, quyển 488, Giao Chỉ.

(二十五年,詔館安南使者于懷遠驛,賜宴,以彰異數。進封天祚南平王,賜襲衣、金帶、鞍馬。二十六年,命右司郎中汪應辰宴安南使者于玉津園。八月,天祚遣李國等以金珠、沉水香、翠羽、良馬、馴象來貢。詔加天祚檢校太師,增食邑)

Sau đó An Nam lại cống voi thuần như cũ; có lẽ quen ăn với lễ cống hậu hỷ vào năm 1156, nên Vua Tống ra chỉ dụ bảo An Nam đừng cống voi:

Tục Tư Trị Thông Giám, quyển 133, ngày Canh Ngọ tháng chạp, năm Thiệu Hưng thứ 30 [24/1/1161], An Nam tiến voi thuần. Vua bảo các quan Đại thần rằng:

Man di dâng sản vật địa phương cùng đồ cống; nhưng Trẫm không muốn nhận thú lạ làm mệt nhọc người xa xôi; hãy ra lệnh cho Soái thần ban dụ lần sau đừng đem voi thuần đến cống”.

(安南進馴象,邊吏以聞,帝謂大臣曰:「蠻夷貢方物及其職,但朕不欲以異獸勞遠人。可令帥臣諭今後不必以馴象入獻。」)

Sử nước ta cũng xác nhận rằng trong lễ cống năm 1161, Vua Tống ngõ ý không muốn cống voi thuần:

Năm Đại Định thứ 22 [1161]. Mùa xuân, sai đem voi thuần sang biếu nhà Tống. Vua Tống bảo các đại thần rằng:

‘Trẫm không chuộng thú vật lạ, làm khó nhọc người xa, nên sai suý thần bảo họ từ nay về sau bất tất phải mang vật ấy tiến cống“. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Các triều đại Trung Quốc trước kia thường gọi nước ta là Giao Chỉ, hoặc Giao Châu, hoặc An Nam Đô Hộ, vết tích của một thời nội thuộc; năm 1164 chính thức đổi thành An Nam, hàm ý công nhận nước ta độc lập; phong Vua Anh Tông làm An Nam quốc vương:

Năm Chính Long Bảo Ứng năm thứ 2] [1164], Nhà Tống phong vua làm An Nam Quốc Vương, đổi Giao Chỉ làm An Nam Quốc”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Sử Trung Quốc cũng đánh giá cao sự kiện này, Nguyên Sử Loại Biên nhận xét rằng trước kia gọi xứ ta là Giao Chỉ hoặc An Nam Đô hộ phủ; đến đời Lý Anh Tông mới chính thức gọi là nước An Nam:

An Nam, trước đây, gọi là Giao Chỉ; Đường Cao Tông đặt làm An Nam Đô hộ phủ. Tên gọi là An Nam bắt đầu từ đấy. Tống Hiếu Tông phong Thiên Tộ [Lý Anh Tông] là An Nam quốc vương, An Nam gọi là “nước” bắt đầu từ đó”.

Toàn Thư chép vào năm 1168, cả 2 Sứ bộ Mông Cổ và Tống đều đến thăm nước ta; vì 2 nước này cừu địch nên triều đình ngầm tiếp đãi riêng. Toàn Thư chú thích lầm rằng Thát Đát tức Mông Cổ; đây có thể chỉ nước Kim, vì lúc này nước Mông Cổ chưa thành lập:

Ngày Mậu Tý, mùa thu tháng 8 năm Chính Long Bảo Ứng thứ 6 [1168], sứ nhà Tống sang, sứ Thát Đạt (tức là sứ của nhà Nguyên), cũng sang. Đều thưởng hậu để dụ, ngầm lấy lễ tiếp đãi cả hai sứ, không cho họ gặp nhau”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4

Về việc giao thiệp với các nước tại phương nam, thời vua Thần Tông năm 1128,

Chân Lạp mang quân đến cướp phá hương Đỗ Gia tại huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh; dưới thời Anh Tông lại một lần nữa đến cướp phá vùng núi Vụ Thấp [ Vũ Quang, Hương Khê, Hà Tĩnh], cũng sát với huyện Hương Sơn:

Tháng 9, năm Đại Định 11 [1150], người Chân Lạp cướp châu Nghệ An, đến núi Vụ Thấp gặp nắng nóng ẩm thấp, phần nhiều chết vì lam chướng bèn tự tan vỡ”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4

Riêng nước Chiêm Thành có Ung Minh Tạ Diệp đến triều đình xin làm Vua, nhà Vua xuống chiếu sai tướng Lý Mông mang quân đưa về nước; bị Vua Chiêm chống lại, Tạ Diệp và Lý Mông đều chết:

Năm Đại Định thứ 13 [1152] người nước Chiêm Thành là Ung Minh Ta Điệp đến cửa khuyết xin mệnh cho làm vua nước ấy. Xuống chiếu cho Thượng chế Lý Mông đem hơn 5.000 người ở phủ Thanh Hoá và châu Nghệ An sang Chiêm Thành lập Ung Minh Ta Điệp làm vua. Mông đến Chiêm Thành bị vua nước ấy là Chế Bì La Bút chống cự, bọn Ung Minh Ta Điệp và Lý Mông đều chết”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4

Sự việc nêu trên chưa giải quyết xong, hai năm sau Vua Chiêm Thành dâng con gái, vua lại nhận. Sử thần Lê Văn Hưu chê hành động này, cho rằng nhà Vua xử sự không đúng, khiến cho các nước nhỏ lân bang không phục:

Mùa đông, tháng 10 năm Đại Định thứ 15 [1154], vua nước Chiêm Thành là Chế Bì La Bút dâng con gái, vua nhận”.

Lê Văn Hưu nói:

‘Các bậc đế vương đối với người Di Địch, nếu họ chịu phục thì lấy đức mà vỗ yên, nếu làm phản thì lấy uy mà tỏ cho biết. Anh Tông sai Lý Mông đem hơn 5 nghìn người để giúp lập Ung Minh Ta Điệp làm Vua nước Chiêm Thành mà bị Chế Bì la Bút giết, đáng lẻ phải đem quân hỏi tội, chọn lập một người khác để thay làm vua nước ấy, thì mới có thể gia uy với cõi xa, mà vua sau phải nhớ đức. Nay lại nhận con gái của họ mà không hỏi tội, có thể gọi là lầm lỗi. Về sau Chiêm Thành và Chân Lạp liền năm vào cướp một lộ Nghệ An, mối hại không kể xiết, thực là do Anh Tông khơi mối vậy”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4

Sau đó vào các năm 1155, 1164; nước Chiêm Thành lại tiếp tục sai Sứ sang cống:

Tháng 11 năm Đại Định thứ 16 [1155], nước Chiêm Thành sang cống”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4

Mùa xuân, tháng 3, năm Chính Long Bảo Ứng thứ 2 [1164], nước Chiêm Thành sang cống”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Vào năm 1166, Chiêm Thành mang quân đến cướp phá vùng biển nước ta, nhà Vua sai Thái úy Tô Hiến Thành đi đánh; Chiêm Thành lại sai Sứ mang trân châu đến tiến cống, nên triều đình ra lệnh cho rút quân về, từ đấy Chiêm Thành giữ lễ phiên thần:

Mùa xuân, tháng 3, năm Chính Long Bảo Ứng thứ 4 [1166], sứ Chiêm Thành đi đến miền Ô Lý [Quảng Trị, Thừa Thiên], dùng quân phong thủy (ma thuật của thầy tăng) mà vượt biển, cướp bóc nhân dân ven biển nước ta rồi về”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Mùa thu, tháng 7, năm Chính Long Bảo Ứng thứ 5 [1167, sai Thái uý Tô Hiến Thành đi đánh Chiêm Thành.

Mùa đông, tháng 10, Chiêm Thành sai sứ sang dâng trân châu và sản vật địa phương để xin hoà. Xuống chiếu cho Tô Hiến Thành đem quân về. Từ đấy nước Chiêm Thành giữ lễ phiên thần, dâng cống không thiếu”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Pháp luật lúc bấy giờ công nhận quyền tư hữu ruộng đất, nhưng không khuyến khích để hoang; những người túng thiếu bán đợ [bán tạm] trong 20 năm có quyền chuộc, riêng ruộng bỏ hoang quá 1 năm không được lấy về:

Tháng 12, năm Đại Định thứ 3 [1142], xuống chiếu rằng những người cầm đợ ruộng thục trong vòng 20 năm thì cho phép chuộc lại; việc tranh chấp ruộng đất thì trong vòng 5 năm hay 10 năm còn được tâu kiện; ai có ruộng đất bỏ hoang bị người khác cấy cày trồng trọt trong vòng một năm thì được kiện mà nhận, quá hạn ấy thì cấm. Làm trái thì xử 80 trượng. Nếu tranh nhau ruộng ao mà lấy đồ binh khí nhọn sắc đánh chết hay làm bị thương người thì đánh 80 trượng, xử tội đồ, đem ruộng ao ấy trả lại người chết hay bị thương.

 Xuống chiếu rằng những người bán đoạn ruộng hoang hay ruộng thục đã có văn khế rồi thì không được chuộc lại nữa, ai làm trái bị phạt đánh 80 trượng”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Pháp luật bảo vệ trâu cày, chỉ được xin phép làm thịt lúc có tế lễ:

Mùa xuân, tháng 2, năm Đại Định thứ 4 [1143], xuống chiếu thiên hạ từ nay về sau cứ ba nhà làm một bảo, không được mổ riêng bò trâu, nếu có việc cúng tế phải tâu xin được chỉ rồi mới cho mổ, kẻ làm trái thì trị tội nặng, láng giềng không cáo giác cũng xử cùng tội”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Nhắm cổ võ nghề nông, vào đầu năm vua thường tham gia cày ruộng tịch điền:

Mùa xuân, tháng 2, năm Đại Định thứ 9 [1148], vua ngự đến hành cung ly Nhân cày ruộng tịch điền rồi đến hành cung Ứng Phong Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Căn cứ vào cống phẩm đưa biếu nhà Tống vào năm Thiệu Hưng thứ 26 [1156] với đồ vật bằng vàng 1.136 lượng. minh châu 100, trầm hương 1.000 cân, thủy vũ 500; lăng, quyên các màu 5.000 tấm; thấy được công nghệ khai thác vàng, ngọc minh châu, sản phẩm dệt quyên, lụa đã đi vào qui mô. Để bảo vệ ngành sản xuất ngọc trai, chiếu chỉ cấm người trong nước không được lưu hành trân châu giả:

Năm Chính Long Bảo Ứng thứ 1 [1163].Cấm người trong nước không được dùng trân châu giả”.

Bấy giờ Vân Đồn đã trở thành hải cảng quốc tế cho các nước châu Á đến giao dịch buôn bán:

Mùa xuân, tháng 2, năm Đại Định thứ 10 [1149], thuyền buôn ba nước Trảo Oa [Java], Lộ Lạc [La Hộc, Thái Lan], Xiêm La [Thái Lan] vào hải Đông [vùng Quảng Ninh], xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hoá quý, dâng tiến sản vật địa phương”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Riêng về học hành thi cử, bắt đầu tổ chức điện thí:

Mùa đông, tháng 10 năm Đại Định thứ 13 [1152], thi Điện”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Nhà Vua đến tuổi trưởng thành tỏ ra năng nỗ lo việc nước, năm Đại Định thứ 15 [1154] đích thân đi đánh Nông Khải Lai, năm Chính Long Báo Ứng [1172] đi tuần tra biên giới hải đảo, ra lệnh vẽ bản đồ:

Mùa xuân, tháng 2 năm Chính Long Bảo Ứng thứ 10 [1172], vua lại đi tuần các hải đảo ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật rồi về”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Tại địa phương dân chúng tổ chức 3 nhà thành một bảo, tuyển dân đinh vào quân ngũ; riêng miễn cho những gia đình có một con trai:

Tháng 2 năm Đại Định thứ 21 [1160, sai Tô Hiến Thành và Phi Công Tín tuyển dân đinh, người mạnh khỏe thì sung vào quân ngũ. Chọn các tướng hiệu, người nào thông thạo binh pháp, am tường võ nghệ thì chia cho cai quản”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Tháng 8 năm Đại Định thứ 7 [1146], xuống chiếu rằng các quan quản giáp và chủ đô, phàm sung bổ cấm quân, phải chọn những hộ nhiều người, không được lấy người cô độc, làm trái thì trị tội”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Triều đình ra lệnh quản lý trị an khắp nơi, đặc biệt lưu ý đến vùng biên giới như châu Quảng Nguyên [ Cao Bằng], ven biển, cửa biển:

Mùa đông, tháng 10 năm Đại Định thứ 3 [1142], sai thủ Lĩnh phủ Phú Lương là Dương Tự Minh đến châu Quảng Nguyên để chiêu tập người châu ấy”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Tháng 11 năm Đại Định thứ 22 [1161], Vua sai Tô Hiến thành làm Đô tướng, Đỗ An Di làm phó, đem 2 vạn quân đi tuần các nơi ven biển tây nam, để giữ yên miền biên giới. Vua thân đi tiễn đến cửa biển Thần Đầu ở Đại An (nay là cửa biển Thần Phù) mới trở về”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Mùa thu, tháng 8 năm Chính Long Bảo Ứng] thứ 1 [1163] lính trốn rủ nhau tụ họp thành bọn cướp bóc cư dân trên đường bộ. Vua sai Phu Công Tín đem 10 vạn quân đi đánh dẹp yên được”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Ở đời việc làm tốt khó theo, nhưng việc làm xấu thì rất dễ bắt chước; Thái hậu họ Lê mẹ Vua thông dâm với Đỗ Anh Vũ, hậu quả cháu đầu của bà là Long Xưởng thông dâm với cung phi của Vua, nên bị phế làm thường dân; nhà Vua quyết định lập con thơ Long Cán (3) làm Thái tử:

Mùa thu, tháng 9, năm Chính Long Bảo Ứng thứ 12 [1174], (Từ tháng 2 về sau là niên hiệu Thiên Cảm Chí Bảo năm thứ 1; Tống Thuần Hy năm thứ 1). Muà thu, tháng 9, Thái tử Long Xưởng có tội, phế làm thứ dân và bắt giam. Trước đó, Long Xưởng thông dâm với cung phi, vua không nỡ bắt tội chết, cho nên có mệnh này. Một hôm, vua gọi Tể tướng đến bảo rằng:

‘Thái tử là gốc lớn của nước, Long Xưởng đã làm điều trái đạo, trẫm muốn Long Trát nối giữ nghiệp lớn, nhưng nó còn nhỏ tuổi, sợ không đương nổi, nếu đợi lớn thì trẫm đã tuổi già suy yếu, biết làm thế nào?’.

Bấy giờ có nội nhân ẵm Long Trát [Cán] ra, thấy vua đội mũ, khóc đòi đội, vua chưa kịp tháo mũ đưa cho thì càng khóc to hơn. Vua bèn tháo mũ đội cho, Long Trát cả cười. Vua càng lấy làm lạ, ý lập Long Trát làm thái tử bèn quyết định”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Lúc Vua sắp mất giao cho Tô Hiến Thành thực hiện di chiếu; mặc dù Thái hậu muốn phế lập, nhưng Hiến Thành vẫn lấy công đạo chủ trì, nên mọi việc đều ỗn thỏa:

Mùa xuân, tháng giêng, năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 2 [1175], sách lập Long Trát làm Hoàng thái tử, ở đông cung. Phong Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chương quân quốc trọng sự, tước vương, giúp đỡ đông cung.

Mùa hạ, tháng tư, vua không khỏe, cố gượng sai Tô Hiến Thành ẵm thái tử mà quyền nhiếp chính sự.

Mùa thu, tháng 7, ngày Ất Tỵ, vua băng ở điện Thuỵ Quang. Trước đó, khi vua ốm nặng, hoàng hậu lại xin lập Long Xưởng, vua nói:

 “Làm con bất hiếu còn trị dân sao được”.

Di chiếu cho Tô Hiến Thành giúp rập thái tử, công việc quốc gia nhất nhất tuân theo phép cũ. Bấy giờ thái hậu muốn làm việc phế lập, sợ Hiến Thành không nghe, mới đem vàng bạc đút cho vợ là Nữ thị. Hiến Thành nói:

 ‘Ta là đại thần nhận mệnh tiên đế dặn lại giúp rập vua bé, nay lấy của đút mà làm việc phế lập thì còn mặt mũi nào trông thấy Tiên đế ở suối vàng?’

 Thái hậu lại gọi Hiến Thành đến dỗ dành trăm cách. Hiến Thành trả lời:

‘Làm việc bất nghĩa mà được giàu sang, kẻ trung thần nghĩa sĩ đâu có vui làm, huống chi lời của Tiên đế còn ở bên tai, điện hạ lại không nghe việc của Y Doãn, Hoắc Quang hay sao? Thần không dám vâng chiếu’.

Việc bèn thôi”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Sử thần Ngô Sĩ Liên có lời bàn như sau:

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: ‘Anh Tông nối ngôi tuổi còn thơ ấu, việc của Đỗ Anh Vũ làm gì mà biết được, đến khi tuổi ngoại hai mươi, sai bọn Hiến Thành đem quân đi tuần

nơi biên giới, lại thân đi xem khắp tình thế núi sông, muốn biết sự đau khổ của dân gian và đường đi xa gần, về mặt giữ dân giữ nước, quy mô đã thấy rõ. Lại đặt Xạ Đình, sai các quan võ hàng ngày luyện tập phép đánh trận, về mặt sửa binh giãng võ, mưu lược đã thấy rõ. Thái tử Long Xưởng có tội thì phế đi mà lập Long Trát làm thái tử, cho ở đông cung, để lòng người có chỗ gắn bó. đến khi ốm nặng, hoàng hậu xin lập lại Long Xưởng, thì lấy lễ nghĩa mà bác bẻ, không mê hoặc lời nói của đàn bà, lại cố gượng gọi Hiến Thành nhận di chiếu giúp thái tử quyền nhiếp chính sự, phó thác được người giỏi để phòng lo sau, rốt cuộc mưu phế lập của thái hậu không thể làm được, trên yên dưới thuận, không phải là sức của Anh Tông sao? Còn như Cao Tông không phải là người hiền thì ngay lúc bấy giờ đã biết trước thế nào được? Vua chỉ thuận theo lẽ phải mà làm thôi”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Thái tử Long Cán lên ngôi lúc mới 3 tuổi, miếu hiệu là Cao Tông, tôn xưng mẹ Đỗ thị là Hoàng thái hậu:

Thái tử Long Trát [Cán] lên ngôi trước linh cữu, bấy giờ mới lên 3 tuổi, tôn mẹ là Đỗ thị làm Chiêu Thiên Chí lý hoàng thái hậu. Cho Đỗ An Di (em trai hoàng thái hậu) làm thái sư đồng bình chương sự, Tô Hiến Thành làm thái uý”. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4.

Hai bộ sử Trung Quốc, Tục Tư Trị Thông Giám Tống Sử đều ghi sự kiện Vua Lý Anh Tông mất vào năm 1176, chép sau sử nước ta 1 năm; có lẽ vì đường sá xa xôi, nên tin đến trễ mất 1 năm:

Tục Tư Trị Thông Giám, quyển 145, Tống Hiếu Tông Thuần Hy năm thứ 3 [1176]. Ngày Quí Sửu tháng 5 [17/6/1176], Quốc vương An Nam Lý Thiên Tộ mất; con là Long Cán nối ngôi”.

(安南國王李天祚卒。子龍 榦 嗣。)

Tháng 2 năm Thuần Hy thứ nhất [1174] tiến phong Thiên Tộ An Nam Quốc vương, gia hiệu Thủ khiêm công thần; năm thứ 2 [1175] ban An Nam quốc ấn; năm thứ 3 [1176] ban cho nước An Nam lịch thư, cùng năm Thiên Tộ mất”. Tống Sử, quyển 488, Giao Chỉ.

 

(淳熙元年二月,進封天祚安南國王,加號守謙功臣。二年,賜安南國印。三年,賜安南國曆日。天祚卒。) Tống Sử, quyển 488, Giao Chỉ.

_____

Chú thích:

1. Cảo điền nhi: Theo Toàn Thư chú thích, Cảo điền nhi là người có tội, bị đày cày ruộng cho nhà nước, tại xứ Cảo Động, huyện Từ Liêm.

2. Theo Toàn Thư chú thích: Cưỡi ngựa gỗ (thượng mộc mã): thứ hình phạt thời cổ, đem tội nhân đóng đinh lên tấm ván, đem đi bêu chợ rồi đem ra pháp trường tùng xẻo.

3. Long Cán: Toàn Thư chép là Long Trát, nhưng Cương MụcTống Sử đều chép là Long Cán, nên sửa lại.

Rất thông cảm và quý trọng các vị, các bạn, nhưng…

Nguyễn Đình Cống

29-11-2021

Đó là các vị, các bạn đang ra sức bênh vực cho khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”.

Vẫn như ông Bình Vôi

Phạm Trần

23-5-2019

Tại sao ông Nguyễn Phú Trọng vắng mặt tại phiên họp khai mạc Quốc hội kỳ 7, và trong đoàn Quốc hội viếng lăng Hồ Chí Minh ngày 20/05/2019?

Chiến tranh ở Ukraine có thể kết thúc như thế nào

The New Yorker

Tác giả: Keith Gessen

Bùi Xuân Bách, dịch

29-9-2022

Trong những năm gần đây, một nhóm nhỏ các học giả đã tập trung vào lý thuyết về chấm dứt chiến tranh. Họ thấy có lý do để lo ngại về những kết quả có thể xảy ra ở Ukraine.

Hein Goemans lớn lên ở Amsterdam vào thập niên 1960 và 70, xung quanh là những câu chuyện và ký ức về Chiến tranh thế giới thứ hai. Cha ông là người Do Thái và đã trốn “dưới sàn nhà”, như ông nói, trong thời gian Đức Quốc xã chiếm đóng. Khi Goemans đến Hoa Kỳ để học chuyên ngành “quan hệ quốc tế”, ông nhớ lại, khi ông được hỏi trong một lớp học về trải nghiệm riêng tư nhất của ông trong việc hình thành các khái niệm về lĩnh vực này. Ông nói rằng đó là Chiến tranh thế giới thứ hai. Các sinh viên khác phản đối rằng, điều này không đủ riêng tư. Nhưng nó rất riêng tư đối với Goemans. Ông nhớ lại lần tham dự lễ kỷ niệm lần thứ 40 ngày giải phóng Amsterdam vào tháng 5 năm 1985. Nhiều người lính Canada tham gia cuộc giải phóng vẫn còn sống, và họ đã tái hiện quang cảnh quân đội Canada tiến vào giải phóng thành phố. Goemans nhớ mình đã nghĩ rằng, người dân Amsterdam sẽ quá xuề xòa khi tham dự lễ kỷ niệm, và xúc động rằng ông đã sai. “Toàn bộ thành phố chật cứng người hai bên đường”, ông ấy nói với tôi gần đây. “Tôi thực sự ngạc nhiên là mọi người đã cảm nhận sự kiện đó sâu sắc tới mức nào”.

Goemans, hiện đang giảng dạy môn khoa học chính trị tại Viện Đại học Rochester (Hoa Kỳ), đã viết luận văn của mình về lý thuyết chấm dứt chiến tranh – tức là nghiên cứu về cách các cuộc chiến tranh kết thúc. Goemans biết được đã có nhiều công trình về các cuộc chiến bắt đầu như thế nào, nhưng lại biết rất ít về cách chúng có thể kết thúc. Có lẽ, có những nguyên nhân lịch sử cho sự bỏ qua này: vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ và Liên Xô có nghĩa là một cuộc chiến tranh giữa họ có thể kết thúc nền văn minh nhân loại; không chỉ một số người sắp chết, mà là cái chết của tất cả mọi thứ. Do đó, việc nghiên cứu chiến tranh trong thời Chiến tranh Lạnh đã làm phát sinh vốn từ vựng phong phú về răn đe: Răn đe trực tiếp, răn đe mở rộng, răn đe bằng trừng phạt, răn đe bằng cách từ chối. Nhưng Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, và chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra. Goemans nhìn thấy một cơ hội cho sự can thiệp bằng trí tuệ.

Trong luận văn và trong cuốn sách tiếp theo của mình, “Chiến tranh và trừng phạt”, Goemans đã đưa ra lý thuyết về cách thức và lý do tại sao một số cuộc chiến kết thúc nhanh chóng và những cuộc chiến khác lại kéo dài một cách tàn bạo. Cuộc chiến trong tiêu đề là Chiến tranh thế giới thứ nhất; “Sự trừng phạt” là điều mà các nhà lãnh đạo ở Đức nói riêng, lo sợ đang chờ đợi họ, nếu họ mang về bất cứ điều gì ít hơn một chiến thắng. Khi cuốn sách của Goemans ra mắt vào năm 2000, đây là nghiên cứu toàn thời gian hiện đại đầu tiên dành hoàn toàn cho vấn đề chiến tranh kết thúc và nó đã giúp khởi động lĩnh vực này.

Goemans viết, thường chiến tranh được cho là kết thúc do một bên đầu hàng. Một tác giả đã nói vào năm 1944: “Cho đến khi kẻ bại trận bỏ cuộc, chiến tranh vẫn tiếp diễn”. Nhưng ghi chép thực nghiệm cho thấy điều này, cao nhất cũng chỉ là một lời giải thích không đầy đủ. Thường phải có hai bên để bắt đầu một cuộc chiến, ngay cả khi họ có những tội lỗi khác nhau, và thường cũng phải có hai bên để kết thúc nó; kẻ chiến bại có thể chấp nhận các điều khoản đã được đề xuất vào tuần trước, nhưng đâu có điều gì để ngăn người chiến thắng nghĩ thêm ra các điều khoản mới? Thí dụ kinh điển từ Chiến tranh thế giới thứ nhất là việc từ chối của những người Bolshevik, sau khi họ nắm chính quyền ở Nga, để tiếp tục cuộc chiến chống lại Đức; tuyên bố “không chiến tranh cũng không hòa bình”, họ chỉ đơn giản là rời khỏi các cuộc đàm phán tại Brest-Litovsk. Goemans viết: “Theo nghĩa đen, những kẻ thất bại đã bỏ cuộc”. Nhưng người Đức, thay vì chấp nhận điều này, tiếp tục tiến sâu hơn vào Nga. Chỉ sau khi những người Bolshevik đồng ý với những điều khoản, thậm chí còn khắc nghiệt hơn so với những điều khoản đã được đề xuất chỉ ba tuần trước đó, người Đức mới đồng ý rút lui khỏi cuộc chiến.

Các tài liệu lý thuyết gần đây đã thừa nhận tính hai mặt của chiến tranh, Goemans viết, nhưng ở đây, các khía cạnh quan trọng đã bị bỏ qua. Lý thuyết chiến tranh du nhập từ kinh tế học khái niệm “thương lượng” và các cuộc chiến tranh được cho là bắt đầu khi quá trình thương lượng – về một phần lãnh thổ, thường là – đổ vỡ. Nguyên nhân phổ biến nhất của sự đổ vỡ, theo các nhà lý thuyết chiến tranh (và một lần nữa vay mượn từ kinh tế học), là một số dạng bất cân xứng về thông tin. Nói một cách đơn giản, một hoặc cả hai bên đã đánh giá quá cao sức mạnh của mình so với đối thủ. Có nhiều lý do giải thích cho sự bất cân xứng về thông tin này, đặc biệt là khả năng chiến đấu trong chiến tranh của các quốc gia hầu như luôn là một bí mật được bảo vệ chặt chẽ. Trong mọi trường hợp, cách tốt nhất để tìm ra ai mạnh hơn là thực sự bắt đầu chiến cuộc. Sau đó, mọi thứ trở nên rõ ràng khá nhanh chóng. Nhiều cuộc chiến tranh đã kết thúc theo cách này, với việc các bên đánh giá lại sức mạnh tương đối của mình và chọn việc đi tới một thỏa thuận.

Nhưng có những loại chiến tranh khác, trong đó các yếu tố ngoài thông tin chiếm ưu thế. Những yếu tố này, một phần do chúng không đóng vai trò nổi bật trong kinh tế học, nên ít được hiểu rõ hơn. Một thực tế là các hợp đồng trong hệ thống quốc tế – trong trường hợp này là các thỏa thuận hòa bình – có rất ít hoặc không có cơ chế thực thi. Nếu một quốc gia thực sự muốn phá vỡ một thỏa thuận, thì không có tòa án trọng tài nào mà bên kia có thể kháng cáo. (Về lý thuyết, Liên Hiệp quốc có thể là tòa án này; trên thực tế thì không). Điều này dẫn đến vấn đề được gọi là “cam kết đáng tin cậy”: một lý do khiến các cuộc chiến tranh có thể không kết thúc nhanh chóng là do một hoặc cả hai bên không thể tin tưởng phía bên kia sẽ tôn trọng bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào mà họ đã đạt được. Trong cuốn sách “Chiến tranh kết thúc ra sao” năm 2009 của mình, Dan Reiter, đồng nghiệp của Goemans, đã sử dụng ví dụ về Vương quốc Anh vào cuối mùa xuân năm 1940, sau khi nước Pháp sụp đổ. Nước Anh đã thua trong cuộc chiến và không có gì chắc chắn rằng Hoa Kỳ sẽ tham gia kịp thời để cứu nó. Nhưng người Anh vẫn tiếp tục chiến đấu, bởi vì họ biết rằng không thể tin cậy được vào bất cứ một cuộc thương thảo nào với Đức Quốc xã. Như Winston Churchill đã đưa chuyện này ra nội các của mình, theo cách không thể bắt chước của ông ấy: “Nếu câu chuyện về hòn đảo dài này của chúng ta cuối cùng kết thúc, hãy để nó kết thúc chỉ khi mỗi người trong chúng ta nằm nghẹt thở trong máu của chính mình trên mặt đất”.

Theo Goemans, một yếu tố khác đã bị bỏ qua trong tài liệu là nền chính trị trong nước. Các quốc gia được coi là những chủ thể thống nhất với những lợi ích nhất định, điều này đã để lại những áp lực nội bộ đặt lên chính phủ của một quốc gia-nhà nước hiện đại. Goemans đã tạo ra một bộ dữ liệu về mọi nhà lãnh đạo của tất cả các quốc gia có chiến tranh trong khoảng thời gian từ năm 1816 đến 1995, và mã hóa mỗi người theo một hệ thống ba bên. Một số nhà lãnh đạo là nhà dân chủ; một số là nhà độc tài; và một số ở giữa. Theo Goemans, các nhà dân chủ có xu hướng phản ứng với thông tin do chiến tranh đưa lại và hành động phù hợp theo đó; trong trường hợp tồi tệ nhất, nếu họ thua trận nhưng đất nước của họ vẫn tồn tại, họ sẽ bị đuổi khỏi nhiệm sở và về ngồi viết hồi ký. Các nhà độc tài, bởi vì họ có toàn quyền kiểm soát dân chúng trong nước của mình, cũng có thể kết thúc chiến tranh khi họ cần. Sau Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, Saddam Hussein là một nhà lãnh đạo như vậy; ông ta chỉ đơn giản là giết bất cứ ai chỉ trích ông ta.

Goemans nhận thấy rắc rối nằm ở những nhà lãnh đạo không phải là nhà dân chủ hay độc tài: bởi vì họ đàn áp, họ thường gặp những kết cục tồi tệ, nhưng vì họ đàn áp không đủ mạnh tay, họ phải tính đến dư luận và liệu nó có đang chĩa mũi dùi vào họ hay không. Goemans nhận thấy, những nhà lãnh đạo này sẽ bị cám dỗ “đánh bạc để phục sinh”, tiếp tục tiến hành cuộc chiến, thường với  cường độ ngày càng lớn hơn, bởi vì bất cứ điều gì ngoài chiến thắng đều có thể đồng nghĩa với việc họ phải sống lưu vong hoặc chết. Ông ấy nhắc tôi (tác giả) nhớ rằng vào ngày 17 tháng 11 năm 1914 – bốn tháng sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu – Kaiser Wilhelm II đã họp với nội các chiến tranh của mình và kết luận rằng cuộc chiến là bất khả kháng. “Tuy nhiên, họ đã chiến đấu trong bốn năm nữa”, Goemans nói. “Và lý do là họ biết rằng nếu họ thua, họ sẽ bị lật đổ, sẽ có một cuộc cách mạng”. Và họ đã đúng. Những nhà lãnh đạo như thế này rất nguy hiểm. Theo Goemans, chúng là nguyên nhân khiến Chiến tranh thế giới thứ nhất, và nhiều cuộc chiến khác, đã kéo dài hơn nhiều so với những gì lẽ ra chúng nên có.

Gần đây tôi đã nói chuyện với một số nhà lý luận về chấm dứt chiến tranh, gồm cả Goemans, để xem quan điểm lý thuyết có thể cho chúng ta biết gì về cuộc chiến ở Ukraine. Các nhà lý thuyết hóa ra là một nhóm gắn kết và sôi nổi, hầu hết trong số họ dán mắt vào Twitter và Telegram, bằng nhiều ngôn ngữ, khi họ cố gắng theo dõi cuộc chiến trong thời gian thực. Họ tin rằng các cuộc chiến mà họ đã nghiên cứu có thể làm sáng tỏ cuộc xung đột hiện tại. Rõ ràng, họ không phải là những người duy nhất nghĩ như vậy. Nhà lý thuyết chiến tranh Branislav Slantchev, một trong những sinh viên cũ của Goemans và là giáo sư tại Đại học California San Diego (UCSD), nói với tôi rằng, vào tháng 8, anh ấy đã được yêu cầu tham gia hội nghị qua Zoom về chấm dứt chiến tranh do cơ quan tình báo Hoa Kỳ triệu tập.

Reiter, tác giả cuốn sách “Chiến tranh kết thúc ra sao”, đã bị hấp dẫn bởi thực tế rằng cuộc xung đột ở Ukraine là một cuộc chiến kiểu cũ. Có rất ít chiến tranh mạng và Nga chỉ sử dụng một vài tên lửa siêu thanh. Ông nói rằng, về phía Nga, “đó là pháo binh, thiết giáp, bộ binh, sự tàn bạo đối với dân thường. Đó là thế kỷ 20”. Và về phía Ukraine cũng vậy: “Họ có vũ khí khá tinh vi, cùng với sự huấn luyện đầy đủ, kết hợp cùng với rất nhiều bản lĩnh. Mọi thứ không thay đổi nhiều như chúng tôi đã nghĩ ”.

Tanisha Fazal, một học giả tại Đại học Minnesota (Hoa Kỳ), là người đang viết một cuốn sách về y tế  trên chiến trường, đã ngạc nhiên bởi tỷ lệ người Nga bị thương trên số người thiệt mạng quá thấp. Tỷ lệ lịch sử trong một 150 năm qua là khoảng ba hoặc bốn trên một. Trong các cuộc chiến gần đây, chẳng hạn như ở Afghanistan, Hoa Kỳ đã cố gắng đạt được tỷ lệ người bị thương trên người chết lên tới 10 trên một, có nghĩa là ít binh sĩ chết hơn sau khi bị thương. Người Nga được ước tính sẽ kém xuống còn bốn ăn một. Lý do, Fazal nói, là người Nga đã không cố gắng thiết lập ưu thế trên không; họ không thể đưa những người lính bị thương của họ ra ngoài đủ nhanh, và do đó nhiều người trong số họ đã chết.

Nói rộng hơn, chiến tranh đã thể hiện nhiều đặc điểm quen thuộc với các nhà lý thuyết về chiến tranh. Tính toán sai lầm ban đầu của Vladimir Putin rằng ông ta có thể đè bẹp Ukraine trong vài ngày là một trường hợp kinh điển của sự bất cân xứng về thông tin; nó cũng là một thí dụ kinh điển về một chế độ đàn áp bị chính người dân của nó cung cấp thông tin kém giá trị. Mọi người đều đồng ý rằng chúng ta đang phải đối mặt với một vấn đề cam kết đáng tin cậy “kinh điển”. Nga tuyên bố rằng họ không thể tin tưởng Ukraine sẽ không trở thành một quốc gia NATO về bản chất; về phần mình, Ukraine không có lý do gì để tin tưởng một chế độ Nga đã nhiều lần thất hứa và xâm lược nước này vào tháng 2 mà không có hành động khiêu khích nào (từ phía Ukraine). Nhưng việc giải quyết vấn đề cam kết đáng tin cậy rất phức tạp. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nó đã được giải quyết bằng sự tan rã của chế độ Đức Quốc xã, việc viết lại hiến pháp của Đức và sự phân chia nước Đức. Nhưng không có nhiều cuộc chiến kết thúc với kết cục tuyệt đối như vậy.

Thêm vào sự phức tạp, cuộc chiến này, giống như những cuộc chiến khác, rất năng động. Nhiều chuyện lớn đã xảy ra kể từ khi Nga xâm lấn Ukraine vào sáng ngày 24 tháng 2. Những tiết lộ về điểm yếu của Nga và sức mạnh của Ukraine đã nâng cao tinh thần dân chúng Ukraine; việc phát hiện ra các vụ thảm sát thường dân ở Bucha và bây giờ là Izyum đã khiến dư luận phẫn nộ. Nếu trước đây dư luận Ukraine có khoảng trống để nhượng bộ Nga thì giờ đây không gian đó đã đóng lại. “Đôi khi chiến tranh lại tạo ra nguyên nhân chiến tranh”, Goemans nói.

Hàng chục tác nhân bên ngoài đã bị lôi kéo vào cuộc xung đột: Ba mươi quốc gia thuộc Liên minh NATO, đứng về phía Ukraine; Belarus, bây giờ, đứng về phía Nga. Goemans nói: “Đây là một cuộc chiến tranh lớn ở châu Âu, điều mà chúng tôi nghĩ rằng nó sẽ không xảy ra trong thời đại chúng ta. Đó là chiến tranh chiến hào, giống như Thế chiến thứ nhất. Và đó là vì sự tồn tại của Ukraine với tư cách là một nhà nước”. Hệ quả là rất lớn. “Điều này sẽ định hình phần còn lại của thế kỷ XXI. Nếu Nga thua hoặc không đạt được điều mình muốn, thì sau này sẽ là một nước Nga khác. Nếu Nga thắng, sau này sẽ là một châu Âu khác”. Phạm vi và sự phức tạp của cuộc chiến đòi hỏi một giải pháp nhanh chóng. Goemans nói: “Đây là điều đã làm cho Thế chiến thứ nhất trở nên to lớn, đó cũng là điều khiến Thế chiến thứ hai trở nên rộng lớn như vậy”, Goemans nói. “Không chỉ là ‘Tôi muốn một mảnh lãnh thổ vì những người anh em đồng tộc của tôi ở đó.’ Nó là — tất cả những thứ nhảm nhí này”.

Khi chúng tôi nói chuyện lần đầu tiên vào đầu tháng 9, Goemans dự đoán một cuộc xung đột kéo dài. Không có yếu tố nào trong ba yếu tố chính của lý thuyết chấm dứt chiến tranh – thông tin, cam kết đáng tin cậy và chính trị trong nước – đã được giải quyết. Cả hai bên vẫn tin rằng họ có thể giành chiến thắng, và sự ngờ vực của họ dành cho nhau ngày càng sâu sắc hơn. Về chính trị trong nước, Putin chính xác là kiểu nhà lãnh đạo mà Goemans đã cảnh báo. Bất chấp bộ máy đàn áp đáng kể của mình, ông ta không có toàn quyền kiểm soát đất nước. Ông tiếp tục gọi cuộc chiến là một “hoạt động quân sự đặc biệt” và trì hoãn việc động viên toàn quốc, để không phải đối mặt với tình trạng bất ổn trong nước. Goemans dự đoán nếu ông ta bắt đầu thua cuộc, ông ta chỉ đơn giản là sẽ leo thang.

Và sau đó, trong những tuần sau khi tôi và Goemans lần đầu tiên nói chuyện, các sự kiện đã nhanh chóng diễn ra dồn dập. Ukraine đã tiến hành một cuộc phản công thành công ngoạn mục, chiếm lại những vùng lãnh thổ rộng lớn ở khu vực Kharkiv và đe dọa chiếm lại thành phố Kherson đã bị chiếm đóng. Putin, như dự đoán, đã chống trả, tuyên bố “động viên một phần” trong nước và tổ chức “cuộc trưng cầu dân ý” vội vàng về việc gia nhập Liên bang Nga tại các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Việc động viên cục bộ đã được thực hiện một cách hỗn loạn, và như khi bắt đầu chiến tranh, khiến hàng chục ngàn người phải bỏ chạy khỏi nước Nga. Đã có những cuộc biểu tình lẻ tẻ trên toàn quốc, và những cuộc biểu tình này đe dọa ngày càng lớn về quy mô. Trong khi đó, các lực lượng Ukraine tiếp tục tiến về phía đông đất nước họ.

Trong một bài đáng sợ đăng trên blog, Branislav Slantchev, cựu học sinh của Goemans, đã đưa ra một vài tình huống tiềm năng. Ông tin rằng mặt trận của Nga ở Donbas vẫn có nguy cơ sụp đổ không tránh khỏi. Nếu điều này xảy ra, Putin sẽ cần phải leo thang hơn nữa. Điều này có thể diễn ra dưới dạng nhiều cuộc tấn công hơn vào cơ sở hạ tầng của Ukraine, nhưng nếu mục tiêu là ngăn chặn những bước tiến của Ukraine, thì một lựa chọn khả thi hơn sẽ là một cuộc tấn công hạt nhân chiến thuật nhỏ. Slantchev dự báo rằng nó có thể nhỏ hơn một kiloton – tức là nhỏ hơn khoảng mười lăm lần so với quả bom ném xuống Hiroshima. Tuy nhiên, nó sẽ rất tàn khốc và gần như chắc chắn sẽ dẫn đến phản ứng dữ dội từ phương Tây. Slantchev không nghĩ rằng NATO sẽ đáp trả bằng các cuộc tấn công hạt nhân của riêng mình, nhưng chẳng hạn, NATO có thể tiêu diệt Hạm đội Biển Đen của Nga. Điều này có thể dẫn đến một hiệp leo thang khác. Trong tình huống như vậy, phương Tây cuối cùng có thể bị cám dỗ để lui bước. Slantchev kêu gọi họ không nên làm vậy. Anh ấy viết: “Đây là bây giờ. Đây là chuyện được ăn cả“.

Goemans nói với tôi: “Branislav rất lo lắng và anh ấy không phải là người nhút nhát (sợ hãi quá mức)”. Goemans cũng lo lắng, mặc dù dòng thời gian giả định của ông đã kéo dài hơn. Ông tin rằng lực lượng tăng viện mới của Nga, dù được huấn luyện và trang bị kém, và sự khởi đầu của một mùa đông sớm sẽ tạm dừng chiến dịch của Ukraine và cứu người Nga vào lúc này. “Mọi người nghĩ rằng nó sẽ nhanh chóng kết thúc, nhưng thật không may, chiến tranh không diễn ra như vậy”, ông nói. Nhưng ông cũng tin rằng Ukraine sẽ tiếp tục tấn công vào mùa xuân, tại thời điểm đó động lực như vậy và những mối nguy hiểm tương tự sẽ trở lại. Goemans nói: “Để chiến tranh kết thúc, yêu cầu tối thiểu của ít nhất một trong các bên phải thay đổi“. Đây là quy tắc chấm dứt chiến tranh đầu tiên. Và chúng ta vẫn chưa đạt đến điểm mà mục tiêu chiến tranh đã thay đổi đủ để có thể đạt được một thỏa thuận hòa bình.

Dự đoán của các nhà lý thuyết về điều gì sẽ xảy ra tiếp theo, phụ thuộc một phần vào cách họ đánh giá các diễn biến. Liệu mặt trận của Nga ở Donbas có thực sự sụp đổ, và nếu có thì bao lâu nữa? Nếu nó sụp đổ, thì Điện Kremlin có thể kiểm soát được bao nhiêu thông tin về nó? Những điều này không thể đoán trước, nhưng người ta phải dự đoán. Ví dụ, Dan Reiter tỏ ra lạc quan hơn một chút so với Goemans về việc Putin có thể bán một phần chiến thắng cho người dân Nga, vì sự quản lý chặt chẽ của ông ta đối với các phương tiện truyền thông Nga. Đối với Reiter, Putin đã đủ là một nhà độc tài, song ông ta có khả năng lùi bước.

Mặc dù là nhà lý thuyết hàng đầu về cam kết đáng tin cậy, Reiter tin rằng chiến tranh có thể kết thúc trong thời gian ngắn với một kết quả tuyệt đối, chẳng hạn như sự tan rã của Liên bang Nga. Ông nói: “Bạn thực sự không muốn một đất nước, vốn là nguồn gây ra một số kiểu đe dọa kéo dài. Tuy nhiên, đôi khi  đó chỉ là thế giới mà bạn phải sống, bởi vì thực sự loại bỏ hoàn toàn mối đe dọa thì quá tốn kém”. Ông nhìn thấy một tương lai mà Ukraine đồng ý ngừng bắn và sau đó dần dần biến mình thành một “con nhím quân sự”, một quốc gia gai góc mà không ai muốn xâm lược. Reiter nói: “Các quốc gia quy mô trung bình có thể tự bảo vệ mình ngay cả trước những kẻ thù rất nguy hiểm. Ukraine có thể tự làm cho mình trở nên dễ phòng thủ hơn trong tương lai, nhưng nó sẽ trông rất khác với tư cách một quốc gia và một xã hội so với trước khi xâm lược“. Nó sẽ giống Israel hơn, với thuế cao, chi tiêu quân sự và nghĩa vụ quân sự bắt buộc kéo dài. Reiter nói: “Nhưng Ukraine có thể bảo vệ được. Họ đã chứng minh điều đó“.

Goemans cảm thấy lo lắng hơn. Một lần nữa, những suy nghĩ của anh lại đưa anh đến với Thế chiến thứ nhất. Năm 1917, Đức không còn hy vọng chiến thắng, quyết định đánh cược để phục sinh. Nó giải phóng vũ khí bí mật của mình, chiếc tầu ngầm U-boat, để tiến hành các hoạt động không giới hạn trên biển cả. Rủi ro của chiến lược này là nó đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến; hy vọng rằng nó sẽ bóp nghẹt Vương quốc Anh và dẫn đến chiến thắng. Theo cách nói của Goemans, đây là một chiến lược “có phương hướng sai cao”, nghĩa là nó có thể dẫn đến một phần thưởng lớn hoặc một tai họa lớn. Trong trường hợp này, nó đã dẫn đến việc Hoa Kỳ tham chiến và đánh bại Đức, và việc Kaiser bị loại khỏi quyền lực.

Trong tình huống này, vũ khí bí mật là hạt nhân. Và việc sử dụng nó mang theo rủi ro, một lần nữa, thậm chí còn lớn hơn sự tham gia của Hoa Kỳ vào cuộc chiến. Nhưng ít nhất nó cũng có thể tạm thời ngăn chặn bước tiến của Quân đội Ukraine. Nếu được sử dụng hiệu quả, nó thậm chí có thể mang về một chiến thắng. Goemans nói: “Mọi người rất vui mừng về sự sụp đổ của mặt trận. Nhưng đối với tôi, nó giống như, ‘Ah-h-h!’” Vào thời điểm đó, Putin thực sự sẽ bị mắc kẹt.

Hiện tại, Goemans vẫn tin rằng khó có thể xảy ra lựa chọn hạt nhân. Và ông ấy tin rằng Ukraine sẽ chiến thắng trong cuộc chiến. Nhưng điều đó cũng sẽ mất nhiều thời gian, với cái giá phải trả là hàng trăm ngàn sinh mạng.

Lại bàn về kinh nghiệm

Nguyễn Đình Cống

28-10-2020

Viết “Lại bàn về…” vì ngày 12/8/2020, tôi đã công bố bài “Kinh nghiệm của ĐCSVN”. Bài đó chỉ ra những ngụy biện, những nhầm lẫn của Hội đồng lý luận trung ương. Bài này tiếp tục phân tích một số kinh nghiệm trong các báo cáo chính trị ở các ĐH Đảng.

Vụ Việt Nam bỏ phiếu trắng: Việt Nam cần làm gì?

Nguyễn Đình Cống

12-3-2022

Đại diện ngoại giao các nước thuộc EU chụp hình ủng hộ Ukraine tại Đại sứ quán Ukraine ở Hà Nội hôm 28/2/2022. Nguồn: European Union

Vừa rồi Đại sứ của 23 nước châu Âu đồng ký thư ngỏ về việc Việt Nam bỏ phiếu trắng tại Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc lên án chiến tranh xâm lược của Nga đánh Ucraina. Càng đọc tôi càng nghẹn ngào. Họ đã viết khá chặt chẽ, có tình có lý để lên án hành động của Việt Nam.

Đánh mất quê hương (Phần II)

Thụy Mân

23-4-2021

Tiếp theo phần I

Người dân chạy trốn Cộng sản những ngày đầu năm 1975. Ảnh trên mạng

Ký ức tôi đôi khi quay về một buổi chiều ở đảo Phú Quốc. Đó là một buổi chiều đầu tháng Tư năm 1975.