Alexander Gabujew là một trong những người rành nhất về các mối quan hệ Nga-Trung Quốc, nói về kế hoạch hòa bình của Bắc Kinh và Tập được hưởng lợi từ một cuộc chiến tranh kéo dài của Moscow như thế nào. Friederike Böge là phóng viên chính trị về Trung Quốc, Bắc Hàn và Mông Cổ.
Ngay cả khi ông Tập chưa xét đến việc thống nhất bằng vũ lực, Mỹ vẫn phải thể hiện việc chắc chắn khả năng của mình trong việc bảo vệ lợi ích ở eo biển Đài Loan. Trong khi đó, các quyết định quân sự không được phép xác định phương sách tổng thể của Hoa Kỳ, như giới phân tích và hoạch định chính sách đang tích cực đề xuất rằng họ nên làm như vậy.
Thúc đẩy sự thay đổi này trong chính sách của Mỹ là một bản hợp xướng ngày càng đồng thanh với lập luận là ông Tập đã quyết định phát động một cuộc xâm lược hoặc thực thi lệnh phong tỏa Đài Loan trong tương lai gần. Năm 2021, Đô đốc Philip Davidson, khi đó là Chỉ huy trưởng Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, dự đoán rằng Bắc Kinh có thể chống lại Đài Loan “trong sáu năm tới”. Cùng năm đó, Oriana Skylar Mastro, nhà khoa học chính trị, cũng lập luận tương tự trong tạp chí Foreign Affairs rằng, “đã có những tín hiệu đáng lo ngại rằng Bắc Kinh đang xem xét lại phương cách hòa ái và dự tính thống nhất bằng vũ lực“.
Tháng 8 năm 2022, cũng trong tạp chí Foreign Affairs, Elbridge Colby, Cựu Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, trình bày trong tạp chí Foreign Affairs rằng Hoa Kỳ phải chuẩn bị cho một cuộc chiến với Đài Loan sắp xảy ra. Tất cả những phân tích này dựa trên các đánh giá về các khả năng quân sự đang phát triển của Trung Quốc. Nhưng họ không nắm được các lý do tại sao Trung Quốc không sử dụng vũ lực để chống Đài Loan, đứng trước việc sức mạnh quân sự đã vượt trội hơn Đài Loan.
Về phần mình, Bắc Kinh vẫn giữ nguyên thông điệp rằng, quan hệ xuyên eo biển đang đi đúng hướng. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tiếp tục nói với dân chúng rằng thời gian đang đứng về phía họ và cán cân quyền lực đang ngày càng nghiêng về phía Bắc Kinh. Trong bài diễn văn phát biểu tại Đại hội toàn quốc lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) ở Bắc Kinh vào tháng 10-2022, ông Tập tuyên bố “thống nhất trong hòa bình” vẫn là “cách tốt nhất để hiện thực thống nhất hoá qua eo biển Đài Loan” và Bắc Kinh đã “duy trì sáng kiến và khả năng điều khiển trong các mối quan hệ xuyên eo biển“.
Tuy nhiên, đồng thời, Bắc Kinh tin rằng Hoa Kỳ đã từ bỏ tất cả chính sách “một Trung Quốc”, trong đó Washington thừa nhận lập trường của Trung Quốc rằng có một Trung Quốc và Đài Loan là một phần của Trung Quốc. Thay vào đó, trong mắt của Bắc Kinh, Mỹ đã bắt đầu sử dụng Đài Loan như một công cụ để làm suy yếu và chia rẽ Trung Quốc. Các xu hướng chính trị nội bộ của Đài Loan đã khuếch đại những lo lắng của Trung Quốc. Quốc Dân Đảng ủng hộ Bắc Kinh trong lịch sử đã bị gạt ra ngoài lề, trong khi Đảng Cấp tiến Dân chủ thiên về tinh thần độc lập đã củng cố quyền lực. Trong khi đó, dư luận ở Đài Loan đã chua chát về công thức hòa giải chính trị mà Bắc Kinh ưa chuộng, đó là chính sách “một quốc gia, hai hệ thống”, trong đó Trung Quốc cai trị Đài Loan nhưng cho phép Đài Bắc có một số phạm vi để tự quản lý về mặt kinh tế và hành chính.
Bắt đầu từ năm 2020, công chúng Đài Loan trở nên hoài nghi đặc biệt về ý tưởng này, khi Bắc Kinh từ bỏ lời hứa cho phép Hồng Kông hưởng “một mức độ cao về quyền tự trị” cho đến năm 2047 bằng cách áp đặt luật an ninh quốc gia cứng rắn. Trong các tuyên bố cấp cao, Bắc Kinh đã nhắc lại rằng, “thời gian và động lực” đang đứng về phía Bắc Kinh. Nhưng bên dưới những dự đoán công khai về niềm tin, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể hiểu rằng, công thức “một quốc gia, hai hệ thống” của họ không gây thu hút được Đài Loan và các xu hướng của công luận trên đảo này đi ngược lại viễn tượng của họ về việc hội nhập toàn diện xuyên eo biển.
Đài Bắc có cảm giác cấp bách của riêng mình, bị thúc đẩy bởi những lo ngại về sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Bắc Kinh. Đài Bắc đang lo lắng là sự hỗ trợ của Mỹ có thể giảm đi nếu sự quan tâm của Washington chuyển sang nơi khác hoặc quay lưng lại với các cam kết ở nước ngoài. Điệp khúc mới từ chính quyền của Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn là, “tình hình Ukraine hiện nay chính là tương lai của Đài Loan“, nó vừa phản ánh chân thực những lo lắng của Đài Bắc về sự xâm lăng của Trung Quốc vừa là nỗ lực thúc đẩy sự ủng hộ mà nó sẽ vượt ra ngoài biến động hiện tại về địa chính trị. Nói cách khác, một điều mà Bắc Kinh, Đài Bắc và Washington dường như đồng ý là thời gian đang hoạt động chống lại họ.
Ở một mức độ nào đó, cảm giác cấp bách này có cơ sở thực tế. Bắc Kinh có tham vọng rõ ràng và lâu dài về việc sáp nhập Đài Loan và đe dọa công khai sử dụng vũ lực, nếu Bắc Kinh kết luận rằng cánh cửa thống nhất bằng hòa bình đã bị đóng lại. Các phản đối của Bắc Kinh là Hoa Kỳ không còn tuân thủ nữa các hiểu biết về Đài Loan, trong một số trường hợp, là chính xác.
Và về phần mình, Đài Bắc đã hợp lý khi lo âu rằng Bắc Kinh đang đặt nền móng để bóp nghẹt hoặc chiếm giữ Đài Loan. Nhưng những lo lắng của Mỹ đã được thổi phòng bởi những phân tích thiếu thận trọng, bao gồm cả những khẳng định rằng Trung Quốc có thể lợi dụng sự phân tâm của Hoa Kỳ ở Ukraine để chiếm giữ Đài Loan bằng vũ lực, hoặc Trung Quốc đang hoạt động theo một thời biểu cố định để hướng tới việc chinh phục bằng quân sự. Ví dụ đầu tiên trong số này đã bị bác bỏ bởi thực tế. Điều thứ hai phản ánh sự hiểu lầm về chiến lược của Trung Quốc.
Thực ra, không có bằng chứng chung quyết nào là Trung Quốc đang hoạt động theo một thời biểu cố định để chiếm giữ Đài Loan, và sự lo lắng gia tăng ở Washington chủ yếu được thúc đẩy bởi khả năng quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc hơn là bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy ông Tập đang chuẩn bị tấn công hòn đảo này. Theo Bill Burns, Giám đốc cơ quan CIA, ông Tập đã chỉ thị quân đội chuẩn bị cho cuộc xung đột vào năm 2027 và đã tuyên bố rằng diễn tiến cho sự thống nhất với Đài Loan là một yêu cầu để hoàn thành “sự trẻ trung hóa vĩ đại của Trung Quốc”, mà ông đặt năm 2049 làm mục tiêu. Nhưng bất kỳ một thời biểu nào có mục tiêu trong gần ba thập niên cho tương lai chỉ còn là khát vọng.
Giống như các nhà lãnh đạo ở khắp mọi nơi, ông Tập muốn ưu tiên bảo vệ quyền tự do hành động trong các vấn đề chiến tranh và hòa bình, và không tự kềm hãm mình trong những kế hoạch mà ông không thể thoát ra. Giới lãnh đạo Trung Quốc dường như đang chi tiêu dồi dào để bảo đảm sự lựa chọn cho giải pháp bằng quân sự trước vấn đề Đài Loan, Mỹ và Đài Loan không được tự mãn. Tuy nhiên, cũng tương tự như vậy, nếu kết luận rằng tương lai đã được báo trước và xung đột không thể tránh khỏi, việc này sẽ sai lầm.
Việc xác định các kịch bản xâm lược thúc đẩy các giới hoạch định chính sách của Mỹ triển khai các giải pháp cho các mối đe dọa sai lầm trong ngắn hạn. Các quan chức quốc phòng thích chuẩn bị hơn cho các cuộc phong tỏa và xâm lược, vì các kịch bản như vậy phù hợp nhất với khả năng của Mỹ và dễ dàng nhất để khái niệm hóa vấn đề và lập kế hoạch. Tuy nhiên, điều đáng nhắc lại là trong quá khứ các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã chọn các lựa chọn khác ngoài chiếm đóng quân sự để đạt được mục tiêu của họ, chẳng hạn như xây dựng các đảo nhân tạo ở Biển Đông và sử dụng luật pháp ở Hồng Kông.
Thật vậy, Đài Loan đã tự bảo vệ mình trước một loạt các cuộc tấn công không thể xác định được của Trung Quốc trong nhiều năm, bao gồm các cuộc tấn công trên mạng, can thiệp vào chính trị bầu cử của Đài Loan và các cuộc thao diễn quân sự nhằm làm suy yếu niềm tin của Đài Loan vào hệ thống phòng thủ của chính mình và hỗ trợ của Hoa Kỳ. Phản ứng của Trung Quốc đối với chuyến công du Đài Loan của Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi vào tháng 8-2022 nhấn mạnh những nỗ lực của Trung Quốc nhằm làm lung lay niềm tin tâm lý của Đài Loan trong việc tự vệ. Sau chuyến viếng thăm, lần đầu tiên, Bắc Kinh điều động hoả tiễn bay qua Đài Loan, tiến hành các hoạt động không kích chưa từng có trên đường trung tuyến eo biển Đài Loan và mô phỏng cuộc phong tỏa các cảng chính của Đài Loan.
Mặc dù mối đe dọa quân sự chống Đài Loan là có thật, nhưng nó không phải là thách thức duy nhất, hoặc gần nhất, mà hòn đảo phải đối mặt. Khi Hoa Kỳ tập trung một cách hạn hẹp vào các vấn đề quân sự mà quên đi các mối đe dọa khác cho Đài Loan, Hoa Kỳ có nguy cơ mắc phải hai sai lầm nghiêm trọng: thứ nhất, bù đắp quá mức theo những cách làm leo thang các căng thẳng nhiều hơn là ngăn chặn xung đột; và thứ hai, đánh mất tầm nhìn của các vấn đề chiến lược rộng lớn hơn mà Hoa Kỳ có lẽ phải đối mặt nhiều hơn. Bắc Kinh đã bóp nghẹt mối liên hệ của Đài Loan với các nơi khác còn lại của thế giới và cố gắng thuyết phục dân chúng Đài Loan rằng, lựa chọn duy nhất để tránh sự tàn phá là tuân theo các điều kiện về hòa bình của Bắc Kinh chọn.
Đây không phải là một giả thuyết trong tương lai mà vốn dĩ đã là một thực tế trong thường nhật. Và bằng cách thổi phồng về mối đe dọa xâm lược của Trung Quốc, giới phân tích và quan chức Hoa Kỳ đang vô tình làm công tác cho Đảng CSTQ bằng cách dấy lên các lo sợ ở Đài Loan. Họ cũng đang gửi các tín hiệu đến các doanh nghiệp và nhà đầu tư toàn cầu đang hoạt động trong và xung quanh Đài Loan là sẽ có nguy cơ cao độ khi bị mắc kẹt trong một cuộc xung đột quân sự.
Một sai lầm khác, cho rằng xung đột không thể tránh khỏi. Khi làm như vậy, Hoa Kỳ và Đài Loan tự ràng buộc mình với việc chuẩn bị bằng mọi cách để có thể cho cuộc xung đột sắp xảy ra, thúc đẩy những kết quả mà họ tìm cách ngăn chặn. Ví dụ, nếu Hoa Kỳ đẩy Trung Quốc vào một góc, bằng cách đóng quân thường trực ở Đài Loan hoặc thực hiện cam kết phòng thủ hỗ tương chính thức khác với Đài Bắc, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể cảm thấy sức nặng của áp lực theo tinh thần dân tộc và thực hiện các hành động quyết liệt có thể tàn phá hòn đảo.
Hơn nữa, việc mạo hiểm đơn phương trong một cuộc chiến với Hoa Kỳ về Đài Loan sẽ không phù hợp với chiến lược quy mô của ông Tập. Viễn tượng của ông là khôi phục Trung Quốc như một cường quốc hàng đầu trên chính trường thế giới và biến Trung Quốc, như ông nói, trở thành một “quốc gia xã hội chủ nghĩa hiện đại”. Do đó, một mặt, các mệnh lệnh phải chiếm giữ Đài Loan, mặt khác, khẳng định vai trò lãnh đạo toàn cầu đang căng thẳng trực tiếp. Bất kỳ cuộc xung đột nào về Đài Loan sẽ là thảm họa cho tương lai của Trung Quốc.
Nếu các hành động của Bắc Kinh với Đài Loan là quân sự, họ sẽ cảnh báo các nơi khác còn lại trong khu vực là Trung Quốc thoải mái với việc tiến hành chiến tranh để đạt mục tiêu, có khả năng kích hoạt các nước châu Á khác vũ trang và đoàn kết để ngăn chặn sự thống trị của Trung Quốc. Xâm lược Đài Loan cũng sẽ gây nguy hiểm cho việc Bắc Kinh thâm nhập tài chính, dữ liệu và các thị trường toàn cầu, hủy hoại quốc gia bị phụ thuộc vào việc nhập khẩu dầu mỏ, thực phẩm và chất bán dẫn.
Ngay cả khi cho rằng Bắc Kinh có thể thành công trong việc xâm lược và chiếm giữ Đài Loan, sau đó, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với vô số vấn đề. Nền kinh tế Đài Loan sẽ sụp đổ, bao gồm cả ngành công nghiệp bán dẫn vô cùng quý giá trên toàn cầu. Vô số thường dân sẽ chết hoặc bị thương, và những người sống sót sau cuộc xung đột sẽ căm thù tột độ với sức mạnh quân sự xâm lược. Bắc Kinh có thể sẽ phải đối mặt với những đòn đáp trả ngoại giao và trừng phạt chưa từng có. Xung đột ngay ngoài khơi hải phận phía đông của Trung Quốc sẽ làm mất khả năng như là một trong những hành lang hàng hải bận rộn nhất thế giới, gây ra những hậu quả tai hại cho nền kinh tế của Trung Quốc chuyên về việc xuất khẩu.
Và tất nhiên, khi xâm lược Đài Loan, Trung Quốc sẽ tạo ra sự tham gia quân sự của Hoa Kỳ và có lẽ là các cường quốc khác trong khu vực, gồm cả Nhật Bản. Đây sẽ là định nghĩa chính xác của một loại chiến thắng không đáng đạt được hưởng.
Những thực tế này ngăn cản Trung Quốc tích cực xem xét đến một cuộc xâm lăng. Giống như tất cả những người tiền nhiệm, ông Tập muốn trở thành nhà lãnh đạo cuối cùng sáp nhập Đài Loan. Nhưng trong hơn 70 năm, Bắc Kinh đã kết luận rằng, cái giá của một cuộc xâm lược vẫn còn quá cao, và điều này giải thích tại sao Trung Quốc thay vào đó chủ yếu dựa vào các biện pháp khích lệ về kinh tế, và gần đây là các cưỡng chế không minh bạch.
Khác xa với việc có một kế hoạch được cân nhắc kỹ lưỡng để đạt được sự thống nhất, thật ra, Bắc Kinh đang bị mắc kẹt trong con đường cùng về chiến lược. Sau khi Bắc Kinh chà đạp lên quyền tự trị của Hồng Kông, không ai có thể tin rằng Trung Quốc sẽ giải quyết cuộc khủng hoảng ở eo biển thông qua chính sách “một quốc gia, hai hệ thống”. Hy vọng của Trung Quốc là lực hút của nền kinh tế sẽ đủ để đưa Đài Bắc vào bàn đàm phán cũng đã bị dập tắt, một nạn nhân của cả thành công kinh tế của Đài Loan và sự quản lý kinh tế yếu kém của ông Tập.
Một cuộc xâm lược Đài Loan không giải quyết được bất kỳ vấn đề nào trong số các vấn đề này. Ông Tập sẽ chỉ mạo hiểm nếu khi nào tin rằng ông không có lựa chọn nào khác. Không có các dấu hiệu nào cho thấy, ông Tập, dù bất cứ nơi nào, đến gần kết luận như vậy. Hoa Kỳ nên cố gắng giữ kết luận theo cách này. Không có bài phát biểu nào của ông Tập giống với những đe dọa mà Tổng thống Nga Vladimir Putin đã đưa ra trước cuộc xâm lược Ukraine. Không thể loại trừ khả năng của ông Tập có thể tính sai hoặc dò dẫm trong cuộc xung đột. Nhưng những tuyên bố và hành vi của ông Tập không cho thấy [ông ta] sẽ hành động một cách liều lĩnh như vậy.
Suốt 70 năm qua, Trung Quốc và Hoa Kỳ đã thu xếp để tránh được thảm họa đối với Đài Loan. Nhưng các chính giới của Hoa Kỳ đang đồng thuận là, nền hòa bình này có thể không kéo dài lâu hơn nữa.
Một năm trước, vào ngày này, từ chính nơi này, vào khoảng bảy giờ sáng, tôi đã nói với các bạn bằng một tuyên bố ngắn gọn, chỉ kéo dài 67 giây. Trong đó thể hiện hai điều quan trọng nhất cả lúc đó và bây giờ. Rằng là Nga đã bắt đầu một cuộc chiến tranh toàn diện chống lại chúng ta. Và rằng chúng ta mạnh mẽ. Chúng ta đã sẵn sàng cho bất cứ điều gì. Chúng ta sẽ chiến thắng tất cả. Bởi vì chúng ta là Ukraine!
Đam mê với chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ hai và với sự thống trị Đông Âu: Putin – hình vào tháng 12 trong một cuộc triển lãm về trận chiến giành lại Moscow – ăn mừng “Stalin của năm 1945, người chiến thắng ở Berlin, vị tướng lĩnh vĩ đại”. Nguồn: IMAGO/ SNA
Hơn 10 ngày trước, một trận động đất mạnh 7,8 độ Richter đã gây thảm họa tàn khốc tại Thổ Nhĩ Kỳ và Syria. Số người chết đã vượt quá 42.000 và những thông tin sai lệch chung quanh sự kiện đau lòng này vẫn còn rất nhiều trên mạng xã hội.
Giám đốc điều hành của VinFast cho biết, tỷ phú Phạm Nhật Vượng vẫn chưa có kế hoạch đầu tư thêm tiền vào VinFast, ngay cả khi hãng xe điện Việt Nam này bị buộc phải trì hoãn kế hoạch xây dựng nhà máy ở Mỹ và đang cắt giảm nhân sự.
Khi chúng ta nghĩ về việc sử dụng luật pháp và chính sách để hạn chế xã hội dân sự ở châu Á; Trung Quốc và Ấn Độ là những quốc gia thường được nghĩ đến.
Ở Trung Quốc dưới thời Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Tập Cận Bình, chúng ta thấy một số tổ chức vận động chính sách bị cấm, những người lãnh đạo của họ bị bắt giữ, nguồn tài trợ nước ngoài bị hạn chế nghiêm trọng và các hoạt động hàng ngày chịu sự giám sát ngày càng gia tăng.
Ở Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Narendra Modi, là người theo chủ nghĩa dân tộc và đạo Hindu, các tổ chức Hồi giáo và dân chúng phải đối mặt với những giới hạn ngày càng nghiêm ngặt hơn. Tài trợ nước ngoài cho các tổ chức phi chính phủ (NGO) trong nước phải tuân theo các quy tắc và thủ tục phức tạp, cả các nhóm vận động trong nước và quốc tế đều gặp rắc rối.
Thứ Sáu này là ngày kỷ niệm 50 năm Hiệp định Hòa bình Paris của Henry Kissinger. Hiệp định đó được cho là đã chấm dứt Chiến tranh Việt Nam bằng cách khẳng định quyền của những người Việt Quốc gia được có một đất nước tự do và độc lập ở miền Nam.
Hơn 1.000 năm trước, trong hai trận chiến khác nhau, quân Việt Nam đã sử dụng những chiếc cọc nhọn giấu dưới sông Bạch Đằng để đánh bại cuộc tấn công của hải quân Trung Quốc. Những sự biến động gần đây ở Việt Nam có thể khiến người ta nghĩ rằng, những cọc nhọn đó đang được tái sử dụng để loại bỏ các lãnh đạo chính trị.
1. Các dữ kiện gần đây cho thấy, phía Nga đang chuẩn bị cho một trận tấn công lớn.
Việc thay Suvorikin bằng Gerasimov cũng cho thấy Nga (Putin) đã mất niềm tin vào cá nhân Suvorikin cũng như khả năng tác chiến của ông này mấy tháng trời không chiếm nổi nốt vài vùng còn lại của tỉnh Donetsk.
Boris Bondarev là một nhà ngoại giao tại Bộ Ngoại giao Nga từ năm 2002-2022, sau đó là cố vấn tại Phái bộ Nga tại Văn phòng LHQ ở Geneva. Nguồn: Mail
Châu Âu đang có chiến tranh – bây giờ quan trọng nhất là phải làm tất cả những gì có thể làm để phe chính nghĩa phải chiến thắng – Cựu ngoại giao Nga Boris Bondarev nói.
Tóm tắt: Vài giờ trước khi Nga đưa quân vào Ukraine, ông Kiryeyev đã cảnh báo về kế hoạch đánh chiếm Kyiv của Matxcơva. Vài ngày sau, ông ta bị các nhân viên an ninh Ukraine bắn chết.
Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc từ chức sau khi Đảng Cộng sản cầm quyền đổ lỗi cho ông về “những vi phạm và sai trái” của các quan chức dưới quyền, chính phủ cho biết ngày 17-1, trong một bước leo thang lớn của cuộc chiến chống tham nhũng trên đất nước này.
Ông Phúc, cựu thủ tướng được tín nhiệm rộng rãi trong việc thúc đẩy các cải cách hỗ trợ doanh nghiệp, đã giữ chức vụ Chủ tịch nước phần lớn mang tính nghi thức kể từ năm 2021 và là quan chức cấp cao nhất bị Đảng hạ bệ do tham nhũng.
Việt Nam không có lãnh đạo có quyền hành tối cao và được lãnh đạo chính thức bởi “Tứ Trụ”: Tổng bí thư đảng, Chủ tịch nước, Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội.
Ông Phúc, 68 tuổi, phải chịu trách nhiệm cuối cùng về các sai phạm của nhiều quan chức, trong đó có hai phó thủ tướng và ba bộ trưởng, chính phủ cho biết.
“Nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trước đảng và nhân dân, ông đã làm đơn xin thôi giữ chức vụ được giao, từ chức và nghỉ hưu”, thông báo viết.
Văn phòng Chủ tịch nước không đưa ra bình luận ngay lập tức và không rõ liệu người thay thế cho ông Phúc đã được chọn hay chưa.
Tại Việt Nam đã có nhiều đồn đoán rằng ông sẽ bị cách chức sau khi hai Phó thủ tướng phục vụ dưới quyền ông bị cách chức vào tháng 1, khi đảng tăng cường gấp đôi nỗ lực chống tham nhũng qua chiến dịch “đốt lò” do Nguyễn Phú Trọng, người đầy quyền lực lâu năm dẫn đầu.
Năm ngoái, Đảng cho biết, đã có 539 đảng viên bị truy tố hoặc bị “kỷ luật” vì tham nhũng và “cố ý làm trái”, bao gồm các bộ trưởng, quan chức cấp cao và nhà ngoại giao, trong khi cảnh sát điều tra 453 vụ tham nhũng, tăng 50% so với năm 2021.
Ông Trọng hồi đầu tháng này cho biết, Đảng sẽ “quyết tâm hơn”, “hiệu quả hơn và có phương pháp hơn” trong cách tiếp cận chống tham nhũng, đồng thời cam kết sẽ mang lại kết quả.
Không chắc chắn có tác động gì
Có các ý kiến khác nhau về tác động của nỗ lực chống tham nhũng đối với đầu tư và chính sách.
Lê Hồng Hiệp thuộc Chương trình Nghiên cứu Việt Nam tại Viện ISEAS-Yusof Ishak của Singapore, cho biết, cuộc thanh trừng có thể mở đường cho các nhà lãnh đạo trong sạch hơn, có năng lực, trỗi dậy.
“Miễn là việc cải tổ lãnh đạo không dẫn đến những thay đổi chính sách triệt để, thì tác động của chúng đối với nền kinh tế cũng sẽ bị hạn chế”, ông Hiệp đăng trên tài khoản Facebook của mình.
Tuy nhiên, Hà Hoàng Hợp, một thành viên cao cấp của cùng viện nghiên cứu trên, cho biết, sự từ nhiệm của ông Phúc và sự không chắc chắn về tác động của cuộc trấn áp có thể khiến các nhà đầu tư lo lắng.
“Điều này có thể dẫn Việt Nam đến một thời kỳ bất ổn, khiến bạn bè và các nhà đầu tư nước ngoài lo lắng”, ông nói.
Việc từ chức của ông Phúc cần có sự chấp thuận của cơ quan lập pháp, mà các nguồn tin hôm 16-1 cho biết, sẽ tổ chức một cuộc họp bất thường hiếm hoi trong tuần này, làm tăng thêm kỳ vọng rằng số phận của ông Phúc đã được định đoạt.
Ông Phúc, người được biết đến ở Việt Nam với tính cách thân thiện và tình yêu dành cho đội tuyển bóng đá quốc gia, đã từng được cho rằng, sẽ là Tổng bí thư đảng, cương vị danh giá nhất của Việt Nam, trong tương lai.
Với tư cách là Thủ tướng từ năm 2016 đến năm 2021, ông đã duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 6% hàng năm cho quốc gia chuyên sản xuất đang phát triển của châu Á này và giúp thúc đẩy quá trình tự do hóa, bao gồm các thỏa thuận thương mại với Liên minh châu Âu và các cường quốc Thái Bình Dương.
Bất chấp sự từ chức của ông Phúc, chính phủ hôm thứ Ba 17-1 đã ca ngợi những thành tích của ông, đặc biệt là phản ứng với đại dịch.
“Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc đã có nhiều cố gắng trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công tác phòng, chống dịch COVID-19, đạt được những kết quả quan trọng”, thông cáo viết.
Tạm biệt người yêu để lên đường ra trận. Nguồn ảnh: Getty Images
Lời người dịch: Trong bài viết sau đây, Henry Kissinger cảnh báo về một thế chiến mới có thể xảy ra và phương cách tốt nhất là tìm cách tạo cho Nga một cơ hội đàm phán trong danh dự. Ý kiến của Kissinger còn nhiều điểm chưa thuyết phục, cần được thảo luận sâu xa hơn.
Một là, Kissinger đã đề cao vai trò tích cực của Nga trong việc đóng góp cho hòa bình thế giới mà không đề cập đến các chi tiết về tội ác Liên Xô cũ. Kissinger lập luận: “Nga đã có những đóng góp quyết định cho tình trạng quân bình trên toàn cầu và cán cân quyền lực trong hơn nửa thiên niên kỷ. Vai trò lịch sử của Nga không nên bị hạ thấp”.
Lịch sử của Liên Xô đã chứng minh ngược lại. Từ thế kỷ XV-XVII, các triều đại Iwan VI, Peter I hay Katherina II đã mở rộng lãnh thổ Liên Xô bằng quân sự, tiến chiếm Ba Lan, Baltic, Biển Đen, Biển Đông và nhiều vùng khác.
Ngay đến thời Stalin và Chruschtchow, tham vọng này vẫn còn được tiếp tục nuôi dưỡng. Trong thế kỷ XX, Liên Xô đã can thiệpquân sự trực tiếp ở Đông Đức (1953), Hungaria (1956), Tiệp Khắc (1968) và Afghanistan (1979). Không có viện trợ quân sự hùng hậu của Liên Xô, Bắc Việt không thể đạt được chiến thắng năm 1975.
Các can thiệp của Nga ở Ethiopia, Angola, Syria, Iraq và Iran, gây xáo trộn cho các khu vực, là một bằng chứng khác.
Có lẽ điểm son duy nhất của Liên Xô mà Kissinger đề cập là Breschnew và Gorbatschow tham gia các hội nghị về giới hạn vũ khí chiến lược (SALT I và II). Ngay trong năm 1978, 70% dân chúng Mỹ không tin tưởng thiện chí hoà đàm của Liên Xô và Thượng Viện Mỹ cũng nhiều lần tìm cách trì hoãn việc phê chuẩn.
Phủ nhận các bằng chứng này, Kissinger đã chối bỏ thực tế lịch sử hiếu chiến của Liên Xô để ca ngợi chủ trương xâm lược của Nga ngày nay.
Hai là, chiến trường Ukraine chưa định hình ưu thế chiến thắng cho Nga hay Ukraine. Trước hết là Nga. Dù các nguồn tin không thể kiểm chứng, nhưng số binh sĩ thương vong đáng cho Putin phải lo ngại, trong đó việc tăng cường 300.000 tân binh trừ bị là một bằng chứng.
Gần đây nhất, Putin bổ nhiệm tướng Valeri Guerassimov, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nga, làm Tổng Chỉ huy chiến trường Ukraine, thay cho Sergey Surovikin. Quyết định này cho thấy, quân đội Nga không hùng hậu và các tướng lãnh không tài ba như công luận thường đề cập trong các biện pháp cải cách. Dù với 100 ngàn quân và có hơn 4.000 xe tăng hỗ trợ, việc tấn công Ukraine mang về kết quả thảm hại. Lý do chính là binh pháp của Nga là tạm bợ và công nghệ quân sự còn tụt hậu.
Theo các thăm dò hiện nay, Nga đang chuẩn bị cho một đợt tấn công mới.Với binh pháp mới và việc tuyển dụng thêm 500.000 tân binh, Putin hy vọng sẽ mang lại tin vui trên chiến trường, nhưng không có gì bảo đảm cho sự lạc quan này.
Không vì Nga suy yếu mà Ukraine chiếm được nhiều ưu thế hơn trên chiến trường. Dù tinh thần anh dũng, nhưng Ukraine cần được trang bị nhiều xe tăng, xe thiết giáp bộ binh để tiếp tục chiến đấu. Các nước Pháp, Mỹ, Anh và Đức sẽ cung cấp các loại vũ khí hiện đại cho Ukraine, nhưng tốc độ còn quá chậm so với nhu cầu khẩn cấp của chiến trường. Cho đến nay, NATO vẫn rất thận trọng vì lo ngại Nga xem mọi hình thức gián tiếp can thiệp là hành động leo thang và trực tiếp tham chiến.
Nói chung, cuộc chiến còn kéo dài. Do khả năng cung cấp hạn chế, nên các nước phương Tây cũng sẽ giảm mức yểm trợ. Các nước châu Âu đều muốn cuộc chiến kết thúc nhanh chóng vì tình trạng giá năng lượng tăng cao và lạm phát leo thang làm cho dân chúng bất bình. Dư luận ở Mỹ, những thay đổi gần đây cũng cho thấy ít ủng hộ Ukrainehơn so với ban đầu. Hậu quả chung cho Ukraine là phải chịu nhiều thất thế trong khi cần nhiều viện trợ vũ khí để có thể chiến thắng.
Lo ngại chung trong công luận vẫn là vấn đề, nếu phương Tây tiếp tục cung cấp thì sẽ có nguy cơ leo thang thành xung đột trực tiếp giữa Nga và NATO. Nhưng điểm chính là tinh thần hiếu chiến của Putin khó thay đổi nhanh chóng,bất cứ thỏa thuận nào, nếu có trong tạm thời, cũng giúp Nga có thêm thời gian chỉnh đốn và chuẩn bị cho các đợt tấn công tiếp theo.
Trong lúc này, các biến chuyển nghịch lý sẽ còn tiếp tục diễn ra và khó phân biệt ai thắng ai bại. Diễn biến chiến trường càng khó lường thì Nga có mất mặt hay thiện chí hoà đàm không, đó không phải là yếu tố liên quan như Kissinger đề cập.
Ba là triển vọng hoà hội.Kissinger có nói đến quyền dân tộc tự quyết của Ukraine, nhưng trên cơ sở nào là vấn đề nan giải. Cụ thể, đó là các chủ đề thương thuyết mà Nga cần phải chấp nhận: trao trả các vùng đã chiếm đóng, rút quân và bồi thường cho việc tái thiết hậu chiến. Liệu Liên Hiệp Quốc có thể triệu tập một hội nghị quốc tế không, là một vấn đề chưa rõ.
Đang hưởng lợi trong việc mua năng lượng với giá rẻ của Nga, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ không hỗ trợ cho một giải pháp nào bất lợi cho Nga. Nga là một đồng minh cung cấp vũ khí cho Việt Nam, nên Việt Nam không quan tâm đến việc Nga tái lập hoà bình ở Ukraine. Việt Nam đã bốn lần bỏ phiếu trắng và một lần bỏ phiếu chống đối với các nghị quyết của Liên Hiệp Quốc về vấn đề Nga xâm lăng Ukraine.
Nhiều giải pháp ngoại giao cực đoan đã được thảo luận, thí dụ như trục xuất Nga ra khỏi Hội đồng Bảo an LHQ hay truất quyền phủ quyết tại Hội đồng. Giới tình báo quân sự cũng nghĩ đến các biện pháp thay thế Putin bằng cách đảo chính hay đưa đi an trú. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau, tất cả giải pháp này đều không thể thực hiện được.
Tóm lại, đề xuất của Kissinger trong việc tái lập hoà bình cho Ukraine qua phương thức ngoại giao là thiếu dẫn chứng lịch sử và không khả thi.
Tuy nhiên, cảnh báo của Kissinger có một giá trị thực tế mà chúng ta cần quan tâm. Khi diễn tiến chiến cuộcvượt ra ngoài tầm kiểm soát của chính giới quốc tế, việc định hình cho các chiến lược trong tương lai đều do các máy móc được trang bị bằng công nghệ tiên tiến và thông tin nhân tạo đảm trách, nó có đủ khả năng tự quy định và thực hiện,đó là tình trạng nguy hiểm nhất.
Do đó, Kissinger hợp lý khi cho rằng, để tránh hai phía khỏi phải tiếp tục chịu thương tổn, các loại vũ khí hạt nhân và quy ước hiện đại không thể được phép tiếp tục sử dụng, một tình trạng lý tưởng. Sau đây là bản dịch:
***
Thế chiến thứ nhất là một kiểu tự sát văn hóa, làm hủy hoại thanh danh của châu Âu. Theo như cách nói của nhà sử học Christopher Clark, giới lãnh đạo châu Âu đã mộng du trong một cuộc xung đột, trong số tham chiến không ai có thể tiên đoán được thế giới lúc kết thúc cuộc chiến vào năm 1918. Trong những thập niên trước đó, họ thể hiện sự cạnh tranh bằng cách tạo ra hai tập hợp liên minh mà các chiến lược đã trở nên liên kết nhau bởi lịch trình động viên riêng biệt. Do đó, vụ một người theo chủ nghĩa dân tộc Serb sát hại Hoàng tử Áo ở Sarajevo tại Bosnia năm 1914 đã leo thang thành một cuộc chiến tranh toàn diện, nó bắt đầu khi Đức thực hiện kế hoạch cho nhiều mục tiêu của mình để đánh bại Pháp bằng cách tấn công Bỉ, một nước trung lập ở phía bên kia châu Âu.
Các nước châu Âu chưa quen thuộc với cách thức công nghệ tăng cường lực lượng quân sự của họ, nên họ đã gây ra sự tàn phá lẫn nhau chưa từng có. Vào tháng 8 năm 1916, sau hai năm chiến tranh với hàng triệu người thương vong, các nước tham chiến, chủ yếu phương Tây (Anh, Pháp và Đức) bắt đầu khám phá triển vọng để chấm dứt cảnh chém giết. Ở phía Đông, các đối thủ Áo và Nga đã cũng có những cảm nhận tương tự. Bởi vì không có sự thỏa hiệp nào có thể tưởng tượng ra được để biện minh cho những hy sinh đã gây ra và vì không ai muốn mang đến ấn tượng về sự yếu đuối của mình, các giới lãnh đạo khác nhau đã ngần ngại khởi xướng một tiến trình hòa bình chính thức. Do đó, họ tìm kiếm sự hòa giải của Mỹ.
Đại tá Edward House, sứ giả riêng của Tổng thống Woodrow Wilson, đã thăm dò và tiết lộ rằng, một nền hòa bình dựa trên hiện trạng được tu chỉnh là trong tầm tay. Tuy nhiên, trong khi sẵn sàng và cuối cùng mong muốn tiến hành hòa giải, Wilson đã trì hoãn cho đến sau cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11. Đến lúc đó, cuộc tấn công tại Somme của Anh và cuộc tấn công tại Verdun của Đức đã gây thêm hai triệu người thương vong.
Theo lời kể trong cuốn sách về chủ đề này của Philip Zelikow, ngoại giao đã trở thành giải pháp mà ít người theo đuổi hơn. Đại chiến tiếp tục trong hai năm nữa và cướp đi hàng triệu nạn nhân khác, gây tổn hại không thể cứu vãn cho trạng thái quân bình của châu Âu đã được thiết lập. Đức và Nga bị cách mạng làm tan nát; nhà nước Áo-Hung biến mất khỏi bản đồ. Nước Pháp đã đổ máu đến khô cạn. Nước Anh đã hy sinh một phần đáng kể của thế hệ trẻ và năng lực kinh tế cho các yêu cầu chiến thắng. Hiệp ước Versailles mang tính trừng phạt đã kết thúc chiến tranh, nó tỏ ra mong manh hơn nhiều khi so với cấu trúc mà nó thay thế.
Liệu thế giới ngày nay có thấy mình đang ở trong một bước ngoặt tương đương như tại Ukraine không, khi mùa đông áp đặt một việc tạm đình hoãn các cuộc hành quân quy mô? Tôi đã nhiều lần bày tỏ sự ủng hộ đối với việc nỗ lực quân sự của đồng minh, nhằm ngăn chặn Nga xâm lược ở Ukraine. Nhưng thời điểm đã đến để xây dựng dựa trên những thay đổi chiến lược mà nó đã được thực hiện và kết hợp chúng vào trong một cấu trúc mới, hướng tới việc đạt được một nền hòa bình thông qua phương cách đàm phán.
Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, Ukraine đã trở thành một quốc gia quan trọng ở Trung Âu. Được hỗ trợ bởi các đồng minh và được truyền cảm hứng từ Tổng thống Volodymyr Zelensky, Ukraine đã ngăn cản các lực lượng thông thường của Nga tràn ngập châu Âu kể từ thế chiến thứ hai. Và hệ thống quốc tế, bao gồm cả Trung Quốc, đang phản đối mối đe dọa của Nga hoặc việc sử dụng vũ khí hạt nhân.
Tiến trình này đã đưa ra các vấn đề nguồn gốc liên quan đến tư cách thành viên của Ukraine trong khối NATO. Ukraine đã có được một trong những đội quân bộ binh lớn nhất và hiệu năng nhất ở châu Âu, được trang bị bởi Mỹ và các đồng minh. Tuy nhiên, một tiến trình hòa bình liên kết Ukraine với khối NATO phải được thể hiện. Một giải pháp thay thế của tính cách trung lập không còn ý nghĩa nữa, đặc biệt là sau khi Phần Lan và Thụy Điển gia nhập khối NATO. Đây là lý do tại sao hồi tháng 5 năm ngoái, tôi đã đề nghị thiết lập một đường ngừng bắn dọc theo biên giới hiện có, nơi mà chiến tranh bắt đầu vào ngày 24 tháng 2 [năm 2022]. Từ đó, Nga sẽ từ bỏ các cuộc chinh phục, nhưng không phải là lãnh thổ mà họ chiếm đóng gần một thập niên trước, bao gồm cả Crimea. Lãnh thổ đó có thể là chủ đề của một cuộc đàm phán sau lệnh ngừng bắn.
Nếu đường ranh giới phân chia trước chiến tranh giữa Ukraine và Nga không thể đạt được bằng chiến đấu hoặc bằng đàm phán, việc dựa vào nguyên tắc tự quyết có thể được đề ra. Các cuộc trưng cầu dân ý có giám sát quốc tế liên quan đến quyền tự quyết có thể được áp dụng cho các vùng lãnh thổ đặc biệt bị phân chia mà nó đã đổi chủ nhiều lần qua nhiều thế kỷ.
Mục tiêu của một tiến trình hòa bình sẽ có hai mặt: xác nhận quyền tự do của Ukraine và định nghĩa một cấu trúc quốc tế mới, đặc biệt là đối với Trung và Đông Âu. Cuối cùng, Nga nên tìm một vị thế trong một trật tự như vậy.
Kết quả mà một số người ưa chuộng hơn là một nước Nga trở thành bất lực do chiến tranh. Tôi không đồng ý. Với tất cả xu hướng thiên về bạo lực, Nga đã có những đóng góp quyết định cho tình trạng quân bình trên toàn cầu và cán cân quyền lực trong hơn nửa thiên niên kỷ. Vai trò lịch sử của Nga không nên bị hạ thấp. Những thất bại về quân sự của Nga đã không loại bỏ phạm vi hoạt động về hạt nhân trên toàn cầu của Nga, cho phép Nga đe dọa leo thang ở Ukraine. Ngay cả khi khả năng này giảm sút, sự tan rã của Nga hoặc phá hủy khả năng chính sách chiến lược của Nga có thể biến lãnh thổ bao gồm 11 múi giờ thành một khoảng trống gây tranh chấp. Các xã hội đang cạnh tranh nhau của Nga có thể quyết định cách giải quyết tranh chấp bằng bạo lực. Các quốc gia khác có thể tìm cách mở rộng yêu sách bằng vũ lực. Tất cả những nguy hiểm này sẽ trở nên phức tạp hơn bởi sự hiện diện của hàng ngàn vũ khí hạt nhân, làm cho Nga thành một trong hai cường quốc hạt nhân lớn nhất thế giới.
Khi giới lãnh đạo thế giới cố gắng chấm dứt cuộc chiến mà trong đó hai cường quốc hạt nhân cạnh tranh với một quốc gia được vũ trang thông thường, họ cũng phải suy nghĩ về tác động đối với cuộc xung đột này và về chiến lược trong trường kỳ của công nghệ cao và trí tuệ nhân tạo. Vũ khí tự động vốn dĩ đã có sẵn, nó có khả năng định nghĩa, đánh giá và nhắm mục tiêu vào các mối đe dọa theo nhận thức của riêng mình và do đó, ở vị trí để bắt đầu cuộc chiến riêng biệt cho mình.
Một khi ranh giới trong lĩnh vực này bị vượt qua và công nghệ cao trở thành vũ khí tiêu chuẩn và máy tính trở thành người thực hiện chủ yếu cho chiến lược, thế giới sẽ thấy tự mình đang ở trong tình trạng mà chưa có khái niệm nào được định hình. Làm thế nào giới lãnh đạo có thể thực hiện việc kiểm soát khi các máy tính quy định các hướng dẫn chiến lược dựa trên quy mô và theo cách vốn đã hạn chế và đe dọa việc can thiệp của con người? Làm thế nào nền văn minh có thể được bảo tồn giữa một mớ hỗn độn thông tin, các nhận thức và các khả năng phá hoại như vậy?
Tuy nhiên, hiện nay không có lý thuyết nào áp dụng cho thế giới đang rộng mở này và các nỗ lực tham khảo ý kiến về chủ đề này cần phải triển khai, có lẽ bởi vì các cuộc đàm phán có ý nghĩa có thể tiết lộ những khám phá mới và tự việc tiết lộ này tạo thành một rủi ro cho tương lai. Vượt qua sự khác biệt giữa công nghệ tiên tiến và khái niệm chiến lược kiểm soát nó, hoặc thậm chí có những am hiểu về ý nghĩa đầy đủ của nó, ngày nay đó là một vấn đề quan trọng như biến đổi khí hậu, và nó đòi hỏi giới lãnh đạo có quyền chỉ huy cả công nghệ và lịch sử.
Việc tìm kiếm hòa bình và trật tự có hai thành phần, đôi khi được coi là mâu thuẫn: Theo đuổi các yếu tố an ninh và yêu cầu đối với các hành vi hòa giải. Nếu chúng ta không thể đạt được cả hai, thì chúng ta cũng sẽ không thể đạt được một trong hai mục tiêu này. Con đường ngoại giao có vẻ phức tạp và gây nản lòng. Nhưng tiến bộ để đạt đến trong cuộc hành trình đó đòi hỏi chúng ta cả tầm nhìn và sự can đảm để thực hiện.
Chúng tôi yêu cầu ông đánh giá về chiến dịch chống tham nhũng hiện nay của Việt Nam và mối quan hệ của vụ này với việc cách chức hai phó thủ tướng gần đây, là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tổng thống Nga Vladimir Putin đã dành bài phát biểu mừng Năm mới hàng năm vào thứ Bảy 31/12 để kêu gọi người dân Nga ủng hộ quân đội của ông đang chiến đấu ở Ukraine và cam kết chiến thắng trước “chủ nghĩa phát xít mới” ở Ukraine và ý đồ của phương Tây được cho là có ý định “tiêu diệt Nga”.
140.000 người Nga đã bỏ nước đến Serbia kể từ tháng Hai. Dòng người này đã đặc biệt thay đổi Belgrade nói riêng – cũng như hình ảnh kỳ quặc về nước Nga mà nhiều người Serb có trong cuộc sống hàng ngày.