Trang chủ Chủ quyền đất nước

Chủ quyền đất nước

Việt Nam sẽ bồi thường cho Repsol để rút lui khỏi dự án Cá Rồng Đỏ?

Chu Vĩnh Hải

6-9-2019

Một nguồn tin cực kỳ khả tín và có trách nhiệm ở Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) vừa cho tôi biết: Vào sáng ngày 06-9-2019, PVN và hãng dầu khí Repsol đã đi đến thỏa thuận cuối cùng là, Repsol sẽ dừng hẳn việc triển khai dự án dầu khí Cá Rồng Đỏ tại lô 136.03 và lô 07.03.

Học giả Việt Nam trấn an Trung Quốc về quan hệ với Mỹ

VOA

Ngọc Lễ

15-11-2017

Việt Nam đã bắn 21 phát đại bác hôm 12/11/2017 để chào đón ông Tập Cận Bình. Ảnh: AP

Việt Nam không ngả về phía Mỹ để làm khó cho Trung Quốc, một học giả về quan hệ Việt-Trung nói với tờ Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc, trong khi tờ báo này cảnh báo phương Tây rằng họ không thể nào chia rẽ quan hệ Trung-Việt.

Koh Kong – Lưỡi Bò che lấp nẻo quê hương

Lê Minh Nguyên

15-11-2018

Cảng nước sâu Koh Kong đang được Trung Quốc xây dựng căn cứ hải quân. Phó tổng thống Mike Pence được dự trù sẽ lên tiếng trong chuyến đi dự thượng đỉnh ASEAN ở Singapore và APEC ở Papua New Guinea giữa tháng 11/2018 này. Tuần qua trong cuộc họp 2+2 ở Washington, Mỹ yêu cầu TQ gỡ bỏ tên lửa ở Biển Đông.

GS Lê Xuân Khoa Về “Hiện Tình Đất Nước Và Dân Tộc”

Nguyễn Thị Thanh Bình

14-12-2018

Trong bài viết này, nhiều phần tôi không xem nó đơn thuần là một tường thuật, dù khá đầy đủ những chi tiết của cuộc hội luân đã ghi rõ trong Thư Mời, được tổ chức tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn vào đầu tháng 12 năm nay.

Luật Đặc Khu: Tòa án nước ngoài sẽ xét xử dân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam?

LS Trần Đình Dũng

2-6-2018

Luật đặc khu (Vân Đồn – Bắc Vân Phong – Phú Quốc): Cho phép Tòa án nước ngoài vào xét xử công dân Việt Nam trên lãnh thổ quốc gia!

Quyền tài phán là một quyền thiêng liêng của quốc gia để phán quyết bảo vệ công lý trên lãnh thổ quốc gia. Điều này được ghi nhận không chỉ trong các bản hiến pháp mà còn ở rất nhiều trong các Công ước quốc tế. Bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng thượng tôn triệt để quyền xét xử thiêng liêng này.

Quyền tài phán do Tòa án đại diện quyền lực nhà nước thực hiện. Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam 2013 ghi nhận tại Điều 102 “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Đường dây… khét lẹt!

Lò Văn Củi

5-6-2018

Anh Ba Thợ xây lắc đầu quầy quẩy:

– Khốn khổ khốn nạn, đời con gặp cảnh phải sống với nước hay sao á. Hổm đi làm dìa dính tới nửa đêm, phát bịnh luôn. Nay ở nhà, nơi cao ráo tưởng thoát, ai ngờ cơn mưa đêm qua nó cũng làm ngập bung bét, cả xóm chẳng ngủ nghê gì được ráo, phải lội bì bõm lượm đồ bị trôi nổi, nước ngoài đường đổ vô nhà như nước lũ.

Kiến nghị dừng ngay việc thông qua luật Đơn vị Hành chính – Kinh tế Đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc

Lời Diễn Giải

Dưới đây là Bản Kiến nghị chúng tôi đã gửi đến Quốc hội ngày 1.6.2018 thông qua 2 đại biểu Trương Trọng Nghĩa và Dương Trung Quốc chuyển trực tiếp đến Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân. Chúng tôi cũng đã gửi qua Bưu Điện [từ gợi ý của đại biểu Dương Trung Quốc] ngày 1.6.2018. Cho đến 21h ngày 8.6.2018, chúng tôi vẫn chưa nhận được bất cứ hồi âm nào từ Quốc hội, chúng tôi buộc phải đưa công khai Kiến nghị này lên các phương tiện truyền thông để mọi đại biểu Quốc hội và toàn dân biết được nội dung của Kiến nghị. Đó chính là đáp ứng ý chí sục sôi của công luận trước nguy cơ hiểm nghèo của đất nước nếu Quốc hội thông qua Luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc.

Đục nước, nhưng không béo cò

Tương Lai

17-6-2018

Mênh mông thế sự để gió cuốn đi số 42

Trong những ngày vui buồn lẫn lộn này lòng đã trĩu nặng càng thêm nặng trĩu với câu “đục nước béo cò” của chàng kịch sĩ nọ trên VTV1. Ngày 16.6.2018 nhận được email của cô cháu tôi, chỉ mấy dòng: “Lo lắng cho hôm nay và ngày mai quá. Đã mấy hôm nay, công an dân phòng, xe đặc chủng tràn ngập từ sân bay, quanh công viên Hoàng Văn Thụ đến tận trung tâm. Đi trên đường Trường Sơn tận lúc 10h đêm họ vẫn đóng chốt đông nghẹt như thế. Lòng dân thì phẫn uất và quyết chiến nên thế nào cũng sẽ có đàn áp và rồi máu sẽ đổ”. Máu đổ ư?

Đặc khu Kinh tế nhìn từ góc độ chủ quyền

FB Trần Trung Đạo

25-6-2018

(Buổi hội thảo “Chống Lũ Gian Tà Bán Nước Cầu Vinh” đã được Hệ Thống Truyền Thông Cali Today tổ chức 1-5 giờ chiều ngày thứ bảy 23 tháng 6, 2018 với thành phần diễn giả gồm Thẩm phán Phan Quang Tuệ, Tiến Sĩ Đinh Xuân Quân, Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết, Bình Luận Gia Ngô Nhân Dụng và Trần Trung Đạo. Đưới đây là những điểm chính chép ra từ bài thuyết trình và video 10 phút phần của Trần Trung Đạo do Phóng viên Nghê Lữ thực hiện):

ĐẶC KHU KINH TẾ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CHỦ QUYỀN(Buổi hội thảo “Chống Lũ Gian Tà Bán Nước Cầu Vinh” đã được Hệ Thống Truyền Thông Cali Today tổ chức 1-5 giờ chiều ngày thứ bảy 23 tháng 6, 2018 với thành phần diễn giả gồm Thẩm phán Phan Quang Tuệ, Tiến Sĩ Đinh Xuân Quân, Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết, Bình Luận Gia Ngô Nhân Dụng và Trần Trung Đạo. Đưới đây là những điểm chính chép ra từ bài thuyết trình và video 10 phút phần của Trần Trung Đạo do Phóng viên Nghê Lữ Nghê Lữ thực hiện): Đặc khu kinh tế, qua nhiều hình thức đã có từ hàng trăm năm trước chứ không phải mới có hôm nay, chẳng hạn đặc khu kinh tế Bangladesh giữa Nam Hàn và Bangladesh, đặc khu kinh tế ở Campichia, Lào v.v. nhưng vấn đề ở đây là đặc khu kinh tế giữa Việt Nam và Trung Cộng. Lý do, chỉ có tại Việt Nam mới có loại đặc khu giữa kẻ thống trị và người bị trị. Bangladesh nghèo nhưng là quốc gia có chủ quyền. Họ ngồi nói chuyện với quốc gia dù giàu hơn họ bao nhiêu đi nữa họ vẫn có đầy đủ tư cách để đối thoại. CSVN không có tư cách đó.Do đó, đạo luật có đặt ra gì đi nữa cũng chỉ trên giấy tờ mà thôi. Chúng ta có chẻ từng chữ để phân tích nội dung của đặc khu cũng chỉ để phân tích, trong thực tế đất nước Việt Nam đã và đang từng phần rơi vào tay Trung Cộng. Lấy tranh chấp Trường Sa làm bằng chứng. Tranh chấp Trường Sa có liên hệ đến nhiều quốc gia nên Trung Cộng còn dè dặt. Nếu tranh chấp ngày hôm nay chỉ là tranh chấp giữa Trung Cộng và Việt Nam, Trường Sa đã mất hẳn vào tay Trung Cộng lâu lắm rồi. Mục đích đấu tranh của chúng ta không phải để một ngày nào đó đưa quân đánh Trung Cộng hay xâm lược Trung Cộng nhưng là bảo vệ cho được chủ quyền Việt Nam. Việt Nam là một nước nhỏ, dân ít, đất hẹp, nỗ lực của chúng ta không phải gây hấn với nước lớn nhưng là để đối thoại với Trung Cộng với tư cách một quốc gia có chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ chứ không phải cách mà CSVN đang “đối thoại” với Trung Cộng. “Đối thoại” đó chỉ là hình thức. Trung Cộng cho phép CSVN được nói bao nhiêu chữ, bao nhiêu lời, tiến bao nhiêu bước. Mỗi khi chúng ta nghe CSVN tuyên bố vài điều mà chúng ta cảm thấy kích thích, thật ra không phải , vậy, tất cả đều có bài bản. Nhìn sang Philippines chẳng hạn. So với Việt Nam, tranh chấp giữa Philippines và Trung Cộng rất nhỏ so với tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Cộng. Nhưng Philippines đã đưa Trung Cộng ra tòa án quốc tế và đã thắng. Từ năm 2000 tới nay, bao nhiêu biến cố đã xảy ra giữa Philippines và Trung Cộng? Chỉ có một biến cố . Việt Nam thì sao? Cho đến nay không ai biết rõ bao nhiêu người Việt đã chết trên biển (dưới bàn tay của hải quân Trung Cộng). Không nên có đặc khu kinh tế (giữa Trung Cộng và Việt Nam) dù dưới bất cứ hình thức nào bởi vì vấn đề của Việt Nam là vấn đề chủ quyền. Những kẻ cầm quyền một quốc gia không danh chính không thể đi nói chuyện với ai được.Vấn đề lớn khác của Trung Cộng là dân số. Các nhà phân tích cho rằng vấn đề dân số tại Trung Cộng chỉ có thể giải quyết được nếu đưa ra khỏi Trung Cộng 300 triệu dân. Nếu đưa qua Việt Nam thì thử hỏi Việt Nam sẽ ra sao sau khi Trung Cộng có mặt, sinh đẻ trên đất nước Việt Nam sau 99 năm? Chúng ta thường nhìn một vấn đề từ góc độ khách quan, khoa học nhưng đừng quên Trung Cộng nhìn vấn đề còn thêm yếu tố hẹp hòi nhưng rất tinh vi. Lấy chuyến viếng thăm Anh Quốc của thủ tướng Trung Cộng để thấy. Chiếc thảm đỏ đón tiếp từ chân cầu thang máy bay đến khán đài danh dự chỉ ngắn vài phân tây mà Trung Cộng cũng gởi thư chính thức phản đối chính phủ Anh. Mao Trạch Đông từng nghĩ việc chiếm lấy Hoàng Sa khi Mao còn sống nhưng CSVN không biết hay hay cố tình bán đứng đất nước Việt Nam.Tóm lại, vấn đề của hôm nay là vấn đề tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Cộng bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa và các phần lảnh thố khác chứ không phải đơn thuần là vấn đề của đặc khu kinh tế.Tôi tin rằng trong những tuần vừa qua, nhiều trong số quý vị chắc là ăn không ngon, ngủ không yên chỉ vì một câu hỏi “Như vậy rồi chúng ta nên làm gì?” Bốn mươi ba năm rồi, chúng ta hoan hô rất nhiều và chúng ta đả đảo rất nhiều nhưng đến hôm nay chúng ta vẫn là những người con xa xứ. Những người con đang hoài vọng một ngày về nhưng vẫn ngồi đây. Muốn trở về chúng ta phải biết làm gì. Đây là cơ hội lịch sử. Ông bà chúng ta đã biết lấy cái tiêu cực, cái đau khổ làm đường đi. Đường đi của chúng ta hôm nay đã có rồi. Đó là con đường dân tộc.Năm 2007, cuộc biểu tình lớn đầu tiên đã diễn ra tại Việt Nam (khi Trung Cộng tuyên bố đơn vị hành chánh gọi là Tam Sa bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa) bởi vì đất đai. Cách đây hai tuần lễ, một cuộc biểu tình rất lớn đã diễn ra tại Việt Nam cũng chỉ vì đất đai. Chúng ta có một ngôn ngữ mà chúng ta có thể nói cho tất cả người Việt Nam biết đó là lảnh thổ Việt Nam. Xin lỗi quý vị, cách đây bốn mươi năm, chúng ta nói CS vô thần. Nếu chúng ta có niềm tin tôn giáo thì đó là điều hết sức xúc động. Nhưng với các em bé sinh ra và lớn lên ở vùng Cao Bắc Lạng thì điều đó không quan trọng lắm. Vô thần với các em không có nghĩa gì cả. Nhưng hôm nay, nếu chúng ta nói rằng trong tương lai đất nước này sẽ thuộc vào tay Trung Cộng, mồ mả của tổ tiên sẽ bị cày xới lên, một ngàn năm nữa các thế hệ gốc Việt đi ngang qua đây sẽ không còn một nước Việt Nam nữa mà chỉ là những ngôi đền còn lại trên quê hương đổ nát, dấu tích của hàng ngàn năm trước, thì các em sẽ đứng lên.Đây là cơ hội cho tất cả người Việt Nam cùng đứng lên trên mẫu số chung đó. Chỉ có mẫu số chung dân tộc, đoàn kết dân tộc chúng ta mới thắng được Trung Cộng. Tổ tiên ông bà chúng ta làm được, rồi chắc chắn chúng ta cũng sẽ làm được.Muốn được vậy, chúng ta hãy cố gắng hết sức để vượt qua. Bởi vì nếu chúng ta không vượt qua được cái hẹp hòi, chúng ta không thể đi trên con đường thênh thang của đất nước. Dù có gì với nhau đi nữa cũng phải dừng lại để cùng nhìn về tương lai đất nước mình, nhìn về các thế hệ con cháu của mình để cùng đi với các em trong nước. Các em chịu đựng tù đày, các em không sợ thì tại sao chúng ta lại sợ? Tất cả người Việt Nam không nên sợ hãi nữa. Sau năm 1975, chúng ta tưởng như tận thế rồi. Nhưng ngày hôm nay, khoảng không gian của CS mỗi ngày thu hẹp lại. Chế độ CS băng hoại như một vết thương chỉ cần chích một mũi kim nhỏ, vết thương sẽ chảy mủ, nhưng nếu chúng ta không làm công việc đó, không ai làm giùm cho chúng ta cả. Chúng ta đừng ngồi đây mơ một cường quốc nào mang lại tự do dân chủ cho Việt Nam. Máu xương của mình đổ ra mình mới thấy đau. Không ai đau thế cho mình. Tôi mong quý vị đừng quên ngày 10 tháng 6. Ở bất cứ địa phương nào, thành phố nào, hãy dấy lên phong trào 10 tháng 6. Ngày 10 tháng 6 như ngọn lửa cháy âm ỉ trong lòng và ngày nào đó sẽ thành cơn bão lửa.Trần Trung Đạo

Publiée par Trần Trung Đạo sur Lundi 25 juin 2018

Đặc khu kinh tế, qua nhiều hình thức đã có từ hàng trăm năm trước chứ không phải mới có hôm nay, chẳng hạn đặc khu kinh tế Bangladesh giữa Nam Hàn và Bangladesh, đặc khu kinh tế ở Campichia, Lào v.v… nhưng vấn đề ở đây là đặc khu kinh tế giữa Việt Nam và Trung Cộng. Lý do, chỉ có tại Việt Nam mới có loại đặc khu giữa kẻ thống trị và người bị trị.

Bắc Kinh Tung Tiền Thao Túng Chính Trị Úc

Nguyễn Quang Duy

5-6-2018

Tập Cận Bình lên nắm quyền với chiến lược dùng tiền ảnh hưởng đến chính trị, kinh tế và xã hội từng quốc gia để từng bước khuynh đảo thế giới. Trong đó có cả việc họ tung tiền tài trợ cho các đảng chính trị tại Úc, mua chuộc các chính trị gia, giới khoa bảng, tài trợ truyền thông ảnh hưởng đến dư luận,… nói chung là lũng đoạn cả hệ thống chính trị ở Úc.

Nhân tính và nhân cách!!!

Ban Biên Tập

BNS Tự do Ngôn luận số 295

16-07-2018

Có thể cho rằng trong đường lối độc tài toàn trị – nghĩa là một mình nắm hết mọi thực thể trong xã hội, từ cá nhân đến tập thể, từ vật chất đến tinh thần- đảng cộng sản luôn tìm mọi phương cách làm mất nhân tính của công cụ thống trị (tức bộ máy cầm quyền) và làm mất nhân cách của đối tượng thống trị (tức là toàn bộ thần dân).

Nên chăng đối thoại công khai

Nguyễn Đình Cống

8-8-2018

Gần đây quyển sách GẠC MA VÒNG TRÒN BẤT TỬ gây ra hiện tượng sôi động trong thông tin đại chúng. Người ủng hộ khá đông, người phản đối không ít và có vài người chống lại đến mức gần như điên cuồng. Tạm chia mọi người thành ba bên. Bên phản đối, bên làm sách và bên trung gian.

Bên phản đối, lực lượng tỏ ra khá mạnh, với tướng Hoàng Kiền là người đầu tiên. Tiếp theo là trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, đại tá Khuất Biên Hòa, là nhiều tướng tá và cán bộ tuyên giáo. Họ sử dụng được khá nhiều báo chí và các trang mạng lề đảng. Họ phê phán người làm sách bằng những lời thù hận, cay độc, họ cho rằng quyển sách chứa nhiều độc hại, là công cụ của thế lực thù địch, nhằm chia rẽ lãnh đạo với quân đội và nhân dân, nhằm đâm dao vào sau lưng lãnh đạo ĐCS VN. Họ đòi phải tiêu hủy cuốn sách và xét xử người làm sách.

Bên làm sách gồm những người biên tập và người ủng hộ. Những người biên tập, đại diện là các ông Lê Mã Lương, Lê Kế Lâm, Nguyễn Văn Phước… Ngoài việc làm các công đoạn cần thiết để xuất bản và tổ chức buổi lễ giới thiệu sách, hình như họ không tham gia tranh luận và giải thích gì thêm. Những người ủng hộ, chủ yếu bằng hành động mua, phổ biến sách. Một số người viết bài, lên tiếng thì chỉ có thể công bố trên các trang mạng lề dân.

Bên trung gian là đại đa số nhân dân, đang theo dõi và trong khi đa số đã chọn được thái độ ủng hộ bên làm sách hay bên phản đối thì một số đang hoang mang.

Cả bên làm sách và phản đối đều nhân danh lòng yêu nước, thương nòi, đều tranh thủ bên trung gian.

Tôi biết sự kiện Gạc Ma từ nhiều năm trước. Sau khi đọc kỹ cuốn sách tôi tự đặt mình vào những người ủng hộ và đã viết vài bài phân tích (Tại sao mất Gạc Ma; Khoa học nên vào cuộc như thế nào). Tôi cũng nghe rất nhiều bài của bên phản đối để biết những lập luận của họ xem đúng sai chỗ nào. Thì ra phần lớn những người phản đối, mang danh tướng này, tá nọ, nhưng cách lập luận không khác mấy những dư luận viên tầm thường, nghĩa là họ chỉ giỏi ngón nghề vu cáo, chụp mũ, hù dọa, công kích cá nhân và lạc đề bằng cách dẫn ra nhiều sự kiện không liên quan gì đến cuốn sách. Tôi cũng nghe được vài bài khá hùng hồn, mang dáng dấp hùng biện, nhưng phần lớn cũng chỉ là ngụy biện mà thôi.

Bên phản đối chủ yếu dựa vào câu lệnh “Không được nổ súng trước” chứ không phải “Không được nổ súng” để suy luận ra nhiều tội ác. Họ thường bỏ qua nội dung chính của cuốn sách là sự hy sinh anh dũng và thảm khốc của 64 chiến sĩ, sự tàn độc và ăn cướp trắng trợn của Trung Cộng. Cũng có vài bài phản bác các ý kiến của người ủng hộ, ví dụ bài phê phán ý kiến của TS Tô Văn Trường.

Ban đầu tôi nhầm, cho đây là trận khẩu chiến hoặc bút chiến, nhưng không phải. Vì sao? Vì phần lớn chỉ có bên phản đối nói hoặc viết, còn bên làm sách, sau khi ra sách được rồi thì chủ yếu giữ im lặng. Chắc họ nghĩ rằng hãy để cho nhân dân đọc sách và phán xét. Tôi thấy nếu cứ kéo dài tình cảnh này thì chẳng có lợi gì, vì bên nào nói chủ yếu bên ấy nghe, chẳng ai thuyết phục được ai, mà một số người ở bên trung gian dễ nghe theo những kẻ to mồm hoặc có cương vị xã hội, lại được nấp bóng lãnh đạo Đảng. Việc làm như vừa qua đẩy đến sự chia rẽ dân tộc tăng lên, và đó là một tổn thất. Liệu có nên xử lý tổn thất này không và xử lý như thế nào.

Bên phản đối đề nghị đưa vấn đề cho Quân ủy Trung ương phân xử. Tôi cho rằng trong tình hình hiện nay thì không có tổ chức nào của Đảng, kể cả Hội đồng Lý luận và Bộ Chính trị có đủ trí tuệ và sự khách quan để xét xử công bằng vụ này. Chắc rằng một số cán bộ cấp cao, có trách nhiệm cũng thấy quá khó phân xử và cứ để một thời gian rồi mọi chuyện lại đâu vào đó, giống như câu dân gian hay nói: “để lâu cứt trâu hóa bùn”. Nếu như thế thì dân tộc này còn chịu chìm đắm trong vòng tăm tối.

Tôi đề nghị đưa việc này ra đối thoại công khai để cho toàn dân nắm được vấn đề và có ý kiến của mình. Ai sẽ đứng ra tổ chức và điều hành cuộc đối thoại này, lấy kinh phí từ đâu, tôi đã có dự kiến, nhưng xin được bàn sau.

Để đối thoại mỗi bên có một đại diện. Tôi đề nghị đại diện tạm thời cho bên làm sách là thiếu tướng Lê Mã Lương, đại diện cho bên phản đối là thiếu tướng Hoàng Kiền. Nếu một hoặc cả hai ông không nhận thì các ông đề cử người khác thay. Mỗi bên tập hợp một nhóm khoảng 5 người trực tiếp tham dự đối thoại. Những nhân vật này do người đại diện lựa chọn, mời hợp tác.

Cuộc đối thoại cần được tổ chức trong một hội trường khá rộng, có đủ chỗ cho vài ngàn người theo dõi tại chỗ, được truyền hình trực tiếp cho toàn dân xem, được thông báo trước để toàn dân biết.

Hiện nay rõ ràng là người làm sách đang bị một số người công kích, lên án. Ở các nước dân chủ người bị công kích có thể kiện ra tòa khi cho rằng những công kích đó là không đúng, là làm thiệt hại đến danh dự, đến nhân phẩm. Ở VN hiện nay không thể kiện kiểu này. Trong hoàn cảnh chưa có tự do báo chí thì chỉ có đối thoại công khai mới có thể bảo vệ sự thật và giúp cho đại đa số người dân hiểu được sự thật.

Khi đưa ra lập luận và chứng cứ để tranh luận, trừ trường hợp cố tình lừa bịp thì mỗi bên đều tự tin vào sự vững chắc lập luận của mình. Đó mới chỉ là chủ quan. Mức độ vững chắc của lập luận phải được thử thách bằng phản biện, bằng tranh luận. Mỗi vấn đề cần được trao đi đổi lại vài lần, tốt nhất là cho đến khi một bên không đủ lý lẽ để tranh luận tiếp, hoặc chỉ có thể cãi chầy cãi cối. Việc tổ chức các cuộc đối thoại công khai là dịp tốt để nâng cao dân trí.

Tôi nghĩ, hay là bên làm sách đưa ra lời thách bên phản đối tham gia đối thoại công khai. Chắc rằng bên phản đối sẽ tìm cách không chấp nhận hoặc trì hoãn. Nếu thế thì to mồm chửi rủa người ta mà làm gì. Ngạn ngữ có câu: “Khôn ngoan đến cửa quan mới biết”. Nhưng hiện nay đến cửa quan chưa chắc đã biết được khôn ngoan mà chủ yếu biết mưu mô, thủ đoạn. Để có được, biết được khôn ngoan nên mở nhiều đối thoại công khai. Tôi xin kêu gọi mọi người hưởng ứng đề nghị này.

73 Năm Nhìn Lại: Hai Bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Thay Vì Một

Phạm Cao Dương (*)

22-8-2018

Trong lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11/3/1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai vào ngày 2/9/1945 bởi Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhưng cả hai lần, đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết, hay không được học bản tuyên ngôn của Vua Bảo Đại ngày 11/3/1945, ngót sáu tháng trước đó. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn. Bài này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.

“Con nhà tông, không giống lông, cũng giống cánh”

Dương Tự Lập

2-9-2018

Đã lâu lắm rồi, ở đâu đấy tôi đọc được mấy bài viết lẻ tẻ của người mang tên Lý Chánh Trung. Thấy ông dám nói những ý nghĩ là lạ, ít ai có như giọng của ông: “Tháng 9/1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh mất, ông viết trên một tạp chí rằng ông không tiếc mà cũng không trách cụ Hồ đã lựa chọn con đường Cộng sản dù rất khâm phục cụ Hồ tuyệt đối trung thành với sự lựa chọn của mình. Ông không đi theo con đường của cụ nhưng ông có thể noi gương cụ để đi tận cùng con đường của ông. Con đường mà ông đã lựa trọn trước lương tâm…”

Chết không phải là hết

Blog VOA

Trân Văn

20-9-2018

Huy Đức: “Sau bức hình này là một câu chuyện”. Nguồn: FB THS

Ông Dương Danh Dy đã từ trần hôm 17 tháng 9 và được đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng một cách lặng lẽ. Chỉ có vài cơ quan truyền thông thuộc hệ thống truyền thông chính thức loan báo điều này sau khi mạng xã hội và hệ thống truyền thông quốc tế đưa tin.

Soi Thông điệp của Quốc vương nước Đông Lao, ngày nhậm chức

Nguyễn Tiến Dân

8- 11- 2018

1- Xứ Cù lần, nằm ở phía đông của nước Lao. Vì thế, những người thích đùa, gọi nó là nước Đông Lao. Xứ ấy, người dân vốn cần cù và lương thiện. Xứ ấy, “ruộng đất phì nhiêu/ đủ 4 mùa hoa trái”. Xứ ấy, “rừng vàng – biển bạc”. Lại có thêm “núi Trường sơn vĩ đại”, để tựa lưng và có cả “bờ biển rộng bao la” trải dài trước mặt. Cái thế “tiền thủy – hậu sơn” đó, dân tộc nào cũng muốn có, để làm không gian sinh tồn. Nhà quân sự nào cũng muốn chọn, để xây dựng thế trận phòng thủ liên hoàn và vững chắc. Nào chỉ có vậy, sát sàn sạt trước hiên nhà, là cái tuyến hàng hải nhộn nhịp vào bậc nhất của thiên hạ. “Nhất cận thị – nhị cận giang”. Hơn cả giang, ở đây, là biển. Dưới cõi trần gian, thử hỏi, mấy nơi hội tụ đủ những điều kiện thuận tiện, cả về Tự nhiên và Xã hội, như thế?

Giới thiệu tóm tắt sách “Tại sao các quốc gia thất bại” (Đoạn 3)

Nguyễn Đình Cống

8-12-2018

Tiếp theo đoạn 1đoạn 2

Chương 4.- NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT

THẾ GIỚI DO DỊCH HẠCH GÂY RA

Vào khoảng năm 1346, bệnh dịch hạch giết chết khoảng nửa số dân ở những nơi nó tràn qua, từ vùng Địa Trung hải, đến Bắc Phi, Pháp và Anh. Thế nhưng thảm họa dịch hạch cũng đã có một tác động biến đổi về mặt xã hội, kinh tế, và chính trị lên Âu châu trung cổ.

Vào thế kỷ thứ14, châu Âu đã có một trật tự phong kiến Các nông dân, bởi vì địa vị “nô lệ” của họ, đã được gọi là các nông nô, bị gắn liền với đất, không có khả năng di chuyển đi nơi khác. Ðó đã là một hệ thống mang tính chiếm đoạt hết sức cao, với của cải chảy từ nhiều nông dân lên phía trên cho ít chúa đất.

Sự khan hiếm lao động nghiêm trọng do dịch hạch gây ra đã làm rung chuyển nền tảng của trật tự phong kiến. Nó đã khuyến khích các nông dân đòi thay đổi. Nông dân đã đòi giảm nhiều loại tiền phạt và việc làm không được trả công. Họ đã nhận được cái họ muốn,

Các nông dân đã bắt đầu giải phóng mình khỏi lao dịch bắt buộc và nhiều nghĩa vụ với các chúa đất của họ. Chính phủ đã thử chấm dứt việc này và, vào năm 1351, đã thông qua Ðạo luật [về Những người] Lao động (Statute of Laborers). Nỗ lực của nhà nước Anh để ngăn những sự thay đổi đã không có hiệu lực. Dịch vụ lao động phong kiến teo dần đi, một thị trường lao động dung hợp đã bắt đầu nổi lên ở nước Anh, và tiền công tăng lên.

Các tác động trở nên đặc biệt rõ sau năm 1500, khi Tây Âu bắt đầu cần đến những hàng hóa nông nghiệp được sản xuất ở Ðông Âu như lúa mỳ, lúa mạch và gia súc. Khi nhu cầu của Tây Âu tăng, các chúa đất Ðông Âu đã siết chặt thêm sự kiểm soát của họ đối với lực lượng lao động để mở rộng cung. Nó đã được gọi là Chế độ Nông nô Thứ hai, khác biệt và hà khắc hơn dạng gốc của nó ở đầu Thời Trung Cổ. Các nông nô phải chịu các quy định này đã chiếm 90 phần trăm dân số nông thôn thời đó.

Tai họa dịch hạch là một thí dụ sinh động về bước ngoặt [critical juncture], một sự kiện lớn hay sự hợp lưu của những yếu tố phá vỡ sự cân bằng kinh tế hay chính trị hiện tồn trong xã hội. Một bước ngoặt là một con dao hai lưỡi mà có thể gây ra một sự rẽ đột ngột trong quỹ đạo của một quốc gia. Một mặt nó có thể mở đường cho sự phá vỡ chu trình của những thể chế chiếm đoạt và cho phép những thể chế dung hợp hơn nổi lên, như ở nước Anh. Hoặc nó có thể tăng cường sự nổi lên của những thể chếchiếm đoạt, như trường hợp của Chế độ Nông nô Thứ hai ở Ðông Âu.

Việc hiểu lịch sử và các bước ngoặt định hình thế nào con đường của các thể chế kinh tế và chính trị cho phép chúng ta có một lý thuyết đầy đủ hơn về nguồn gốc của những sự khác biệt về sự nghèo khó và thịnh vượng. Ngoài ra, nó cho phép chúng ta giải thích tình hình hiện nay và vì sao một số quốc gia chuyển đổi sang các thể chế kinh tế và chính trị dung hợp trong khi các quốc gia khác lại không.

TẠO RA CÁC THỂ CHẾ DUNG HỢP

Nước Anh đã là độc nhất giữa các quốc gia khi nó có sự đột phá sang tăng trưởng kinh tế bền vững trong thế kỷ mười bảy. Những thay đổi kinh tế lớn đã theo sau một cuộc cách mạng chính trị mà đã mang lại một tập khác biệt của các thể chế kinh tế và chính trị, mang tính dung hợp hơn rất nhiều so với các thể chế của xã hội trước. Cách mạng Vinh quang (1688) đã hạn chế quyền lực của nhà vua và hành pháp, và đã chuyển quyền lực cho Quốc hội để quyết định về các thể chế kinh tế. Ðồng thời nó đã mở hệ thống chính trị cho phần bao quát tiêu biểu của xã hội, những người đã có thể ảnh hưởng đáng kể đến cách nhà nước hoạt động. Cách mạng Vinh quang đã là nền tảng cho việc tạo ra một xã hội đa nguyên, và nó đã được xây dựng trên và làm tăng tốc một quá trình tập trung hóa chính trị. Nó đã tạo ra tập hợp đầu tiên của các thể chế chính trị dung hợp của thế giới. Những tiến bộ công nghệ, khát vọng của các doanh nghiệp để mở rộng và đầu tư, và việc sử dụng hữu hiệu các kỹ năng và tài năng tất cả đã trở nên có thể bởi các thể chế kinh tế dung hợp mà nước Anh đã phát triển.

Nước Anh đã phát triển các thể chế chính trị dung hợp này bởi vì hai yếu tố. Thứ nhất đã là các thể chế chính trị, kể cả một nhà nước được tập trung hóa, mà đã cho phép nó tiến hành bước triệt để tiếp theo với sự ập tới của Cách mạng Vinh quang. Quan trọng hơn là yếu tố thứ hai. Các sự kiện dẫn tới Cách mạng Vinh quang đã rèn đúc một liên minh rộng và hùng mạnh có khả năng đặt các ràng buộc lâu bền lên quyền lực của chế độ quân chủ và hành pháp, mà đã buộc phải mở cho các đòi hỏi của liên minh này. Việc này đặt nền móng cho các thể chế chính trị đa nguyên, mà rồi đã cho phép phát triển các thể chế kinh tế mà sẽ làm nòng cốt cho Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất.

NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ MÀ QUAN TRỌNG

Bất bình đẳng thế giới đã tăng đột ngột đầy kịch tính với Cách mạng Công nghiệp Anh. Các thể chế chính trị Anh đã trên con đường của chúng đến chủ nghĩa đa nguyên lớn hơn rất nhiều vào năm 1688, so với các thể chế ở Pháp và Tây Ban Nha. Các con đường phân kỳ của các xã hội Anh, Pháp, và Tây Ban Nha trong thế kỷ mười bảy minh họa tầm quan trọng của sự tác động qua lại của những sự khác biệt nhỏ về thể chế và các bước ngoặt [critical junctures.

Trong thời gian bước ngoặt, một sự kiện lớn hay sự hợp lưu của các yếu tố phá vỡ sự cân bằng hiện tồn của quyền lực chính trị hay kinh tế trong một quốc gia. Những cái này có thể ảnh hưởng đến chỉ một quốc gia duy nhất, thí dụ như cái chết của Mao Trạch Ðông năm 1976. Tuy vậy, thường các bước ngoặt ảnh hưởng đến toàn bộ một tập các xã hội, theo cách mà, thí dụ, sự thuộc địa hóa và sau đó là sự phi thuộc địa hóa đã ảnh hưởng đến phần lớn địa cầu.

Khi một bước ngoặt xảy ra, những thay đổi nhỏ mà quan trọng là những khác biệt thể chế ban đầu mà chúng khởi động những sự đáp lại rất khác nhau. Ðấy là lý do vì sao những khác biệt thể chế tương đối nhỏ ở Anh, Pháp, và Tây Ban Nha đã dẫn đến những con đường phát triển khác nhau một cách cơ bản.

Nhưng đâu là nơi đầu tiên mà những khác biệt nhỏ về thể chế này xuất hiện và khởi động quá trình phân kỳ? Vì sao Ðông Âu đã có các thể chế chính trị và kinh tế khác với Tây Âu trong thế kỷ mười bốn? Vì sao sự cân bằng quyền lực giữa Quốc vương và Quốc hội ở Anh lại khác Pháp và Tây Ban Nha? Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, ngay cả các xã hội ít phức tạp hơn xã hội hiện đại của chúng ta rất nhiều cũng tạo ra các thể chế chính trị và kinh tế mà có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của các thành viên của nó.

Các hình mẫu phân kỳ phong phú về phát triển kinh tế xung quanh thế giới phụ thuộc vào sự tác động qua lại của các bước ngoặt và sự trôi dạt thể chế. Cái Chết Ðen và sự mở rộng thương mại thế giới sau 1600 đã là hai bước ngoặt lớn cho các cường quốc Âu châu và đã tương tác với các thể chế ban đầu khác nhau để tạo ra một sự phân kỳ lớn.

CON ĐƯỜNG TÙY THUỘC CỦA LỊCH SỬ

Những kết quả của các sự kiện trong các bước ngoặt được định hình bởi sức nặng của lịch sử. Năm 1588 chẳng ai đã có thể thấy trước các hệ quả của chiến thắng may mắn của Anh đánh bại hạm đội hùng hậu của Tây Ban Nha. Chắc không ai hiểu được rằng việc này sẽ gây ra một bước ngoặt dẫn đến một cách mạng chính trị lớn một thế kỷ sau.

Các bước ngoặt cũng có thể dẫn đến sự thay đổi lớn theo hướng các thể chế chiếm đoạt hơn là theo hướng xa khỏi chúng. Cộng hòa Venice, như chúng ta sẽ thấy ở chương 6, đã tiến hành những bước dài quan trọng theo hướng các thể chế chính trị và kinh tế dung hợp trong thời trung cổ. Nhưng trong khi các thể chế như vậy dần dần trở nên mạnh hơn ở nước Anh sau Cách mạng Vinh quang năm 1688, thì ở Venice cuối cùng chúng đã biến mình thành các thể chế chiếm đoạt dưới sự kiểm soát của một elite hẹp mà đã độc quyền hóa cả các cơ hội kinh tế lẫn quyền lực chính trị.

HIỂU ĐỊA HÌNH ĐỊA THẾ

Sự nổi lên của một nền kinh tế thị trường dựa trên các thể chế dung hợp và sự tăng trưởng kinh tế bền vững ở nước Anh thế kỷ mười tám đã truyền đi các gợn sóng lăn tăn quanh thế giới. Một số phần của thế giới đã phát triển các thể chế rất gần các thể chế ở nước Anh. Tây Âu, trải qua nhiều quá trình lịch sử như nhau, đã có các thể chế giống của Anh vào thời Cách mạng Công nghiệp. Phần còn lại của thế giới đã đi theo các quỹ đạo thể chế khác nhau.

Châu Phi là phần của thế giới với các thể chế ít có khả năng nhất để tận dụng các cơ hội do Cách mạng Công nghiệp tạo ra. Ở phần lớn châu Phi các khoản lợi nhuận đáng kể là từ bán nô lệ

Tiến trình phát triển thể chế mà Nhật Bản đã vạch ra trong thế kỷ thứ mười chín lần nữa lại minh họa sự tương tác giữa các bước ngoặt và những khác biệt nhỏ do trôi dạt thể chế gây ra.

Chúng ta đã thấy, rằng các lý thuyết đựa vào địa lý, văn hóa, và sự dốt nát đều không hữu ích cho việc giải thích địa hình địa thế [tình hình] xung quanh chúng ta,

rằng quá trình phân kỳ kinh tế đã bắt đầu với Cách mạng Công nghiệp ở nước Anh trong các thế kỷ thứ mười tám và mười chín, rồi sau đó lan ra Tây Âu; sự phân kỳ dai dẳng giữa các phần khác nhau của châu Mỹ; sự nghèo khó của châu Phi và Trung Ðông; sự phân kỳ giữa Ðông và Tây Âu; và những sự chuyển đổi từ đình trệ sang tăng trưởng và đôi khi sự chấm dứt đột ngột của những cú thúc tăng trưởng.

Chúng ta sẽ thấy bằng cách nào và vì sao các bước quyết định theo hướng các thể chế chính trị dung hợp đã được đưa ra trong Cách mạng Vinh quang ở nước Anh. Chúng ta sẽ xem cụ thể hơn các vấn đề sau đây:

– Các thể chế bao gồm nổi lên thế nào từ sự tác động qua lại của bước ngoặt được tạo ra bởi thương mại Ðại Tây Dương và bản chất của các thể chế Anh tồn tại trước đó.

– Bằng cách nào các thể chế này tồn tại dai dẳng và trở nên được củng cố để đặt nền móng cho Cách mạng Công nghiệp, một phần nhờ vòng thiện, và một phần nhờ những diễn biến may mắn của sự tùy thuộc ngẫu nhiên.

– Có bao nhiêu chế độ ngự trị trên các thể chế chuyên chế và khai thác đã chống lại một cách kiên định sự truyền bá các công nghệ mới được Cách mạng Công nghiệp mở ra.

– Bản thân những người Âu châu đã dập tắt khả năng tăng trưởng kinh tế như thế nào ở nhiều phần của thế giới mà họ đã chinh phục.

– Bằng cách nào vòng luẩn quẩn và quy luật sắt của chính thể đầu sỏ đã tạo ra một xu hướng mạnh mẽ cho các thể chế khai thác tồn tại dai dẳng, và như thế các vùng đất nơi Cách mạng Công nghiệp ban đầu đã không lan tới vẫn tương đối nghèo.

– Vì sao Cách mạng Công nghiệp và các công nghệ mới khác đã không lan ra hay không chắc sẽ lan đến các nơi xung quanh thế giới ngày nay những nơi mà một mức độ tối thiểu của sự tập trung của nhà nước đã không đạt được.

Việc thảo luận của chúng ta sẽ cũng chứng tỏ rằng các vùng nhất định mà đã tìm được cách để biến đổi các thể chế theo hướng bao gồm hơn, như Pháp, Nhật Bản, hay đã cản việc thiết lập các thể chế khai thác, như Hoa Kỳ hoặc Autralia, đã dễ tiếp thu hơn sự lan tỏa của Cách mạng Công nghiệp và đã đi trước các nước còn lại. Như ở nước Anh, đấy đã không luôn luôn là một quá trình suôn sẻ, và dọc đường, nhiều thách thức đối với các thể chế bao gồm đã được khắc phục, đôi khi bởi vì động học của vòng thiện, đôi khi nhờ con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử.

Cuối cùng, chúng ta cũng sẽ thảo luận về sự thất bại của các quốc gia ngày nay bị ảnh hưởng nặng nề ra sao bởi lịch sử thể chế của họ, và bao nhiêu lời khuyên chính sách được thông báo bởi các giả thuyết không đúng và có thể làm cho lạc lối, và bằng cách nào các quốc gia vẫn có khả năng túm lấy các bước ngoặt và phá vỡ các khuôn đúc, các vòng kim cô để cải cách các thể chế của họ và bắt đầu bước lên con đường đến sự thịnh vượng lớn hơn.

 Chương 5.- “TÔI ÐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ÐỘNG”

TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI

Những khác biệt thể chế đóng một vai trò cốt yếu trong giải thích sự tăng trưởng suốt các thời đại. Nhưng nếu hầu hết các xã hội trong lịch sử đều dựa vào các thể chế chính trị và kinh tế chiếm đoạt, thì điều này có ngụ ý rằng tăng trưởng chẳng bao giờ xảy ra? Hiển nhiên không. Các thể chế chiếm đoạt phải tạo ra của cải sao cho nó có thể được chiếm được.

Nhưng sự tăng trưởng dưới các thể chế chiếm đoạt khác về bản chất với sự tăng trưởng do các thể chế dung hợp sinh ra. Quan trọng nhất, nó sẽ không là sự tăng trưởng bền vững mà đòi hỏi sự thay đổi công nghệ, mà đúng hơn là sự tăng trưởng dựa trên các công nghệ hiện tồn. Quỹ đạo kinh tế của Liên Xô cung cấp một minh họa sinh động.

Năm 1922 CP Hoa Kỳ đã cử một phái đoàn do nhà ngoại giao trẻ, William Bullitt, dẫn đầu và một trí thức và nhà báo kỳ cựu Lincoln Steffens đi Moscow để gặp Lenin và cố hiểu ý định của những người Bolshevik. Steffens đã ở Nga vào thời cách mạng. Phái đoàn trở về với những nét phác họa của một đề nghị từ Lenin về chấp nhận gì cho hòa bình với Liên Xô mới được tạo ra. Steffens đã hết sức ngạc nhiên trước cái ông thấy, như tiềm năng to lớn của chế độ Soviet.

Stffens cho rằng “Nước Nga Soviet,” là một chính phủ cách mạng với một kế hoạch tiến hóa. Ông nói rằng “Tôi đã thấy tương lai, và nó hoạt động.”

Ngay cho đến đầu các năm 1980, nhiều người phương Tây vẫn thấy tương lai ở Liên Xô, và họ tiếp tục tin rằng nó hoạt động. Theo một nghĩa nó đã, hay chí ít nó đã hoạt động một thời gian. Lenin chết năm 1924, và vào năm 1927 Joseph Stalin đã củng cố sự kìm kẹp của mình trên cả nước. Ông đã thanh trừng các địch thủ của mình và phát động một đợt vận động để nhanh chóng công nghiệp hóa đất nước.

Cả ngành công nghiệp mới được tạo ra lẫn các nông trang tập thể đã không hiệu quả về mặt kinh tế theo nghĩa rằng chúng tận dụng tốt nhất các nguồn lực mà Liên Xô có. Thế nhưng Liên Xô đã tăng trưởng nhanh. Lý do cho việc này là không khó hiểu. Đó là sự chuyển đổi lao động nông nghiệp thô sơ sang lao động công nghiệp.

Mãi đến cuối 1977, một sách giáo khoa hàng đầu của một nhà kinh tế học Anh đã cho rằng các nền kinh tế kiểu Soviet là ưu việt hơn các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa về mặt tăng trưởng , tạo việc làm đầy đủ và ổn định giá cả và thậm chí về mặt tạo ra những người con người với động cơ thúc đẩy vị tha. Chủ nghĩa tư bản già nua tồi tàn đã làm tốt hơn chỉ ở việc cung cấp quyền tự do chính trị.

Mặc dù các chính sách của Stalin và các lãnh đạo Soviet kế tiếp đã có thể tạo ra tăng trưởng kinh tế nhanh, họ đã không thể làm thế theo cách bền vững. Vào các năm 1970, tăng trưởng kinh tế hầu như đã bị ngừng. Bài học quan trọng nhất là, các thể chế khai thác không thể tạo ra sự thay đổi công nghệ bền vững vì hai lý do: sự thiếu các khuyến khích và sự chống đối của elite.

LIÊN XÔ đã có khả năng tạo ra sự tăng trưởng nhanh ngay cả dưới các thể chế chiếm đoạt bởi vì những người Bolshevik đã xây dựng một nhà nước tập trung hùng mạnh và sử dụng nó để phân bổ các nguồn lực sang công nghiệp. Nhưng như trong mọi trường hợp của tăng trưởng dưới các thể chếchiếm đoạt, kinh nghiệm này đã không dành vai nổi bật cho sự thay đổi công nghệ và đã không bền vững. Sự tăng trưởng đầu tiên chậm lại, rồi sau đó hoàn toàn xẹp xuống. Mặc dù chóng tàn, kiểu tăng trưởng này vẫn minh họa các thể chế khai thác có thể kích thích hoạt động kinh tế ra sao.

Trong phần còn lại của chương này, chúng ta đầu tiên sẽ thảo luận bản chất của những đổi mới thể chế mà thiết lập mức độ nào đó của sự tập trung hóa nhà nước và cho phép sự tăng trưởng dưới các thể chếchiếm đoạt. Sau đó chúng ta sẽ chứng tỏ các ý tưởng này sẽ giúp chúng ta thế nào để hiểu Cách mạng Ðồ đá Mới, sự chuyển đổi hết sức quan trọng sang nông nghiệp, mà làm nòng cốt cho nhiều khía cạnh của nền văn minh hiện tại của chúng ta. Chúng ta sẽ kết thúc bằng việc minh họa, với các thí dụ của các thành-quốc Maya, sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác bị hạn chế ra sao không chỉ bởi vì sự thiếu tiến bộ công nghệ, mà cũng bởi vì nó cũng khuyến khích sự ẩu đả từ các nhóm tranh đua muốn nắm sự kiểm soát nhà nước và sự khai thác mà nó tạo ra.

TRÊN BỜ SÔNG KASAI

Kasai là một trong những nhánh lớn của sông Congo. Nó là ranh giới giữa Lele nghèo và Bushong giàu. Hai bộ tộc có chung nguồn gốc và các ngôn ngữ họ hàng. Ngoài ra, nhiều thứ mà họ xây hay tạo ra là giống nhau về kiểu cách, bao gồm nhà, quần áo, và đồ thủ công.

Có những khác nhau về kỹ thuật canh tác, về số mùa vụ trong năm, về các giống cây trồng về kỹ thuật và công cụ đánh bắt, Cũng đã có những khác biệt nổi bật về luật và trật tự.

Cái gì nằm đằng sau những khác biệt này. Hiển nhiên không phải là địa lý đã khiến những người Lele sử dụng công nghệ săn bắn và nông nghiệp thấp. Ðã chắc chắn không phải là sự vô minh, sự không biết, bởi vì họ đã biết các công cụ người Bushong sử dụng. Một sự giải thích khả dĩ khác có thể là văn hóa; liệu đã có thể chăng rằng những người Lele có một văn hóa không khuyến khích họ đầu tư vào lưới săn và nhà chắc chắn hơn và được xây cất tốt hơn? Nhưng điều này có vẻ cũng chẳng đúng. Những người Lele đã rất quan tâm đến mua súng,

Lý do cho những khác biệt giữa hai bộ tộc này nằm ở các thể chế khác nhau. Khoảng năm 1620 một cuộc cách mạng chính trị do Shyaam khởi xướng, với những người Bushong ở trung tâm. Những sự khác biệt đã nổi lên như những hệ quả của cách mà Shyaam đã tổ chức lại xã hội. Ông đã xây dựng một nhà nước và thể chế chính trị. Ðã chẳng ai bỏ phiếu bầu ông, và chính sách đã được quy định từ trên đỉnh, không phải bởi sự tham gia của nhân dân. Cuộc cách mạng này dẫn đến sự tập trung hóa nhà nước, luật và trật tự, đến lượt nó đã dẫn đến một cuộc cách mạng kinh tế. Mối quan hệ giữa cách mạng chính trị và cách mạng kinh tế đã đơn giản.

Vì sao những người Bushong, chứ không phải những người Lele, đã có một cuộc cách mạng chính trị. Chẳng phải những người Lele đã có thể có Shyaam riêng của họ? Những người Lele đã có thể có một cuộc cách mạng như vậy, nhưng họ đã không làm. Có lẽ đấy là các lý do mà chúng ta không hiểu bởi vì sự hiểu biết hạn chế của chúng ta ngày nay về xã hội của họ. Có khả năng nhất là bởi vì bản chất tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử. Cùng sự tùy thuộc ngẫu nhiên có lẽ đã có hiệu lực khi một số xã hội ở Trung Ðông mười hai ngàn năm trước đã bắt đầu một tập thậm chí cấp tiến hơn của những đổi mới thể chế dẫn đến các xã hội định cư và sau đó đến thuần hóa các thực vật và động vật, như chúng ta thảo luận tiếp đây.

MÙA HÈ DÀI

Khoảng 15.000 năm trước công nguyên (TCN), Thời kỳ Băng hà chấm dứt vì khí hậu trái đất nóng lên. Nhà khảo cổ học Brian Fagan gọi nó là mùa hè dài. Sự ấm lên của khí hậu đã là một bước ngoặt khổng lồ mà đã tạo thành nền cho Cách mạng đồ Ðá mới, nơi các xã hội người đã chuyển sang lối sống định cư, canh tác, và chăn thả. Việc này và phần còn lại của lịch sử con người đã tiến hành trong Mùa hè Dài này.

Bằng chứng sớm nhất về canh tác, chăn thả và thuần hóa thực vật và động vật đến từ Trung Ðông, Vì sao các làng canh tác đầu tiên đã xảy ra ở đây chứ không phải nơi khác? Sự nổi lên của các elite chính trị rất có thể đã tạo ra sự chuyển đổi đầu tiên sang cuộc sống định cư và sau đó sang canh tác. Sau khi các xã hội đã trở thành xã hội định cư và bắt đầu canh tác, họ bắt đầu phát triển hệ thống thứ bậc chính trị, tôn giáo, và các thể chế phức tạp hơn một cách đáng kể.

Chắc chắn việc chuyển sang canh tác đã dẫn đến năng suất nông nghiệp lớn hơn và đã cho phép sự bành trướng đáng kể của dân số. Khi khí hậu ấm lên, một số xã hội, như những người Natufian, đã phát triển các yếu tố của các thể chế được tập trung hóa và hệ thống thứ bậc, mặc dù các yếu tố này đã ở quy mô rất nhỏ so với quy mô của các nhà nước-quốc gia hiện đại.

Sự tăng trưởng ban đầu của những người Natufian đã không trở thành bền vững vì cùng lý do mà sự tăng trưởng Soviet đã xẹp xuống. Mặc dù hết sức đáng kể, thậm chí mang tính cách mạng trong thời của nó, đấy đã là sự tăng trưởng dưới các thể chế chiếm đoạt. Ðối với xã hội Natufian cũng đã chắc là, loại tăng trưởng này đã gây ra các xung đột sâu sắc về ai sẽ kiểm soát các thể chế và sự chiếm đoạt mà chúng cho phép. Ðối với mỗi elite được hưởng lợi từ sự chiếm đoạt, có một vài người sẽ thích thay thế anh ta. Ðôi khi sự đấu đá nội bộ sẽ thay một elite bằng một elite khác. Ðôi khi nó phá hủy toàn bộ xã hội khai thác, và tháo xích cho một quá trình sụp đổ nhà nước và xã hội, như nền văn minh hùng vĩ của các thành-quốc Maya được xây dựng hơn một ngàn năm trước đã trải qua.

SỰ CHIẾM ĐOẠT KHÔNG ỔN ĐỊNH

Sự canh tác đã nổi lên một cách độc lập ở nhiều nơi quanh thế giới. Ở nơi bây giờ là Mexico, các xã hội đã hình thành mà thiết lập các nhà nước và các khu định cư, và đã chuyển sang nông nghiệp. Như với những người Natufian ở Trung Ðông, họ cũng đã đạt mức độ nào đó của sự tăng trưởng kinh tế.

Các thành phố Maya đầu tiên bắt đầu phát triển vào khoảng năm 500 TCN, đã chưa bao giờ thống nhất thành một đế chế, Những người Maya đã phát triển một hệ thống chữ viết và có ít nhất mười lăm ngàn câu khắc còn lại mô tả nhiều khía cạnh của đời sống elite, văn hóa, và tôn giáo. Những chữ khắc ghi niên đại này cho chúng ta bức tranh rõ ràng về sự mở rộng của các thành phố Maya và sự co lại của chúng sau đó từ cuối thế kỷ thứ tám.

Cách, mà theo đó Maya Thời Ðại Cổ Ðiển đã dựa vào việc tạo ra các thể chế chính trị chiếm đoạt, là rất giống tình hình của người Bushong, Các thể chế chính trị mới đã dẫn đến một sự tăng đáng kể về thịnh vượng kinh tế, mà phần lớn của nó sau đó được khai thác bởi elite mới

Ðã không có sự phá hủy sáng tạo. Nhưng đã có các hình thức phá hủy khác, vì sự giàu có mà các thể chế chiếm đoạt đã tạo ra cho elite Maya đã dẫn đến chiến tranh liên miên, Thành phố bị bỏ rơi ngay sau đó. Khắp khu vực Maya câu chuyện đều giống nhau; các thể chế chính trị mà đã tạo ra bối cảnh cho sự mở rộng buôn bán, nông nghiệp, và dân số đã biến mất. Các triều đình hoàng gia đã không hoạt động, các công trình và các đền đài đã không được tạo ra, và các cung điện bị bỏ trống. Như các thể chế chính trị và xã hội đã làm sáng tỏ, sự đảo ngược quá trình tập trung hóa nhà nước, nền kinh tế đã co lại và dân số giảm xuống.

Mặc dù các thể chế chiếm đoạt, mà những người Maya tạo ra, đã làm ra của cải đủ để cho thành phố thịnh vượng và elite trở nên giàu có và tạo ra nghệ thuật và các công trình kỷ niệm tuyệt vời, hệ thống đã không ổn định. Các thể chế chiếm đoạt mà trên đó elite hẹp này cai trị đã tạo ra sự bất bình đẳng sâu rộng, và như thế tạo ra tiềm năng cho sự đấu đá nội bộ giữa những người có thể hưởng lợi từ của cải được khai thác từ nhân dân. Sự xung đột này cuối cùng đã dẫn đến sự phá hủy nền văn minh Maya.

HỎNG CÁI GÌ?

Các thể chế khai thác là rất phổ biến trong lịch sử bởi vì chúng có một logic mạnh mẽ: chúng có thể tạo ra sự thịnh vượng hạn chế nào đó trong khi đồng thời phân phối nó vào tay của một giới elite nhỏ. Ðể cho sự tăng trưởng này xảy ra, phải có sự tập trung hóa chính trị.. Tại Liên Xô, các thể chế chiếm đoạt đã có Ðảng Cộng Sản phân bổ lại các nguồn lực từ nông nghiệp sang công nghiệp và sắp đặt loại nào đó của các khuyến khích cho các nhà quản lý và công nhân.

Tuy vậy, sự tăng trưởng được tạo ra bởi các thể chế chiếm đoạt về bản chất là rất khác với sự tăng trưởng được tạo ra dưới các thể chế dung hợp Quan trọng nhất, nó không bền vững. Kinh nghiệm Soviet cho một minh họa sống động về giới hạn này. Sự tăng trưởng Soviet, dẫu nhanh đến đâu, đã nhất thiết là tương đối ngắn ngủi, và nó đã hụt hơi vào các năm 1970.

Mặc dù bị hạn chế một cách cố hữu, tăng trưởng dưới các thể chế chiếm đoạt tuy vậy có thể tỏ ra ngoạn mục khi nó trong chuyển động. Nhiều người đã bị kinh sợ bởi sự tăng trưởng Soviet trong các năm 1920, 30, 40, 50, 60, và thậm chí mãi đến các năm 1970, theo cùng cách mà chúng ta bị mê hoặc bởi nhịp độ chóng mặt của sự tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc hiện nay. Nhưng như chúng ta sẽ thảo luận chi tiết trong chương 15, Trung Quốc dưới sự cai trị của Ðảng Cộng Sản là một thí dụ khác về xã hội trải qua sự tăng trưởng dưới các thể chế chiếm đoạt và một cách tương tự không chắc sẽ tạo ra sự tăng trưởng bền vững trừ phi nó trải qua một sự biến đổi chính trị cơ bản theo hướng các thể chế chính trị dung hợp.

(Còn tiếp)

Mùa xuân độc lập (Kỷ Hợi – 939)

Trần Gia Phụng

1-1-2019

Năm nay là năm Kỷ Hợi (2019). Cách đây hơn một ngàn năm, sau khi đánh đuổi quân Nam Hán từ Bắc phương xâm lăng, Ngô Quyền đứng lên xưng vương vào mùa xuân năm Kỷ Hợi 939 ở thành Cổ Loa. Đây là MÙA XUÂN ĐỘC LẬP đầu tiên của Cổ Việt sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc.

Dã tâm thâm độc của Đặng Tiểu Bình tấn công Việt Nam năm 1979

Nguyễn Văn Phước

14-2-2019

Thật xúc động ko chỉ vì lần đầu được viết hết sự thật – mà thật sự xúc động vì sự chuyển hướng kịp thời – dù hơi trễ – để có thể thoát Trung.

DÃ TÂM THÂM ĐỘC CỦA ĐẶNG TIỂU BÌNH TẤN CÔNG VIỆT NAM 1979.

Trung Cộng: Cắm và siết ốc

Nguyên Đại

16-3-2019

Nguyễn Phú Trọng trà đàm với Tập Cận Bình: Trà Việt Nam không ngon bằng trà Trung Quốc. Ảnh trên mạng

Nếu muốn nối hai vật thể, hai thanh sắt hay gỗ ngay cả hai mảnh xương, phải làm gì: Cắm và Siết Ốc. Trung Cộng (TC) đã thực hiện chiến lược này đối với nhiều nước, đặc biệt là với Việt Nam.

Nhân ngày 30 Tháng Tư: Nguy cơ mất nước vào tay Tàu là chuyên có thật

Phạm Cao Dương (*)

17-4-2019

“Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc…” Lời Thiếu tướng CSVN Lê Duy Mật

Nhiều người đã ví giai đoạn mất nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam như một người đang hấp hối…” (PCD)

Mười năm diễn đàn Bauxite Việt Nam: Những kỷ niệm và những điều cần biết sau 10 năm khai thác bauxite Tây Nguyên

Lê Phú Khải

30-5-2019

Một buổi chiều oi bức giữa tháng 3 năm 2009, nhà văn Phạm Đình Trọng đến tôi và nói: Tôi vừa viết lên mạng internet gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phản đối cho Trung Quốc vào khai thác bauxite ở Tây Nguyên, nhưng chỉ có mình tôi lên tiếng… cô đơn quá!!!

Tôi bảo anh Trọng: Ông đã kiến nghị Thủ tướng rồi, thì tôi phải phản đối lên Tổng Bí thư mà thôi…

Đêm hôm đó (19.3. 2009), tôi viết bài Thư ngỏ của một công dân ngoài đảng. Trang mạng BBC tiếng Việt đã đăng trang trọng bài viết đó vào ngày 23.3.2009.

Trong thư ngỏ gửi Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đó, tôi đã nhắc đến các ý kiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nhà văn Nguyên Ngọc, nhà văn Phạm Đình Trọng về vấn đề khai thác bauxite, và đặc biệt nhấn mạnh đến việc Trung Quốc đã ra lệnh đóng cửa các mỏ bauxite ở nước mình trên toàn quốc từ 2008 vì tính chất độc hại tàn khốc đối với môi trường sinh thái. Vì nhân đạo mà trước đây Liên Xô cũng đã khuyên ta không nên khai thác bauxite ở Tây Nguyên…

Sau khi trang mạng BBC tiếng Việt đăng bài Thư ngỏ của một công dân ngoài đảng, biên tập viên của BBC là nhà báo Lê Quỳnh cho biết, BBC nhận được rất nhiều comment về bài đó. Nhà báo Lê Quỳnh là con trai của nhà văn Trần Hoài Dương, nguyên biên tập viên Tạp chí Cộng sản, người đã hướng dẫn nghiệp vụ và kết nạp đảng viên dự bị Nguyễn Phú Trọng chính thức vào đảng ngày 19.12.1968.

Trước làn sóng phản đối việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên ngày một dữ dội, Bộ Chính trị đảng CS Việt Nam đã có một phiên họp đặc biệt về vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên.

Có một câu chuyện hay có thể gọi là một kỷ niệm nhiều chất humour đối với tôi sau đó. Và trước đó, tôi cũng đã nhận được nhiều chuyện đầy chất humour như thế trong cuộc đời làm báo của mình.

Số là, sau cuộc họp của Bộ Chính trị về bauxite, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có bảo người thư ký riêng của ông gọi điện đến Tiến sỹ Tô Văn Trường, người khá thân thiết với ông, để hỏi anh Tô Văn Trường vì sao Lê Phú Khải là đảng viên mà lại viết thư qua BBC nhan đề “Thư ngỏ của một công dân ngoài đảng” (!)?

Khi tôi còn là phóng viên thường trú của Đài Tiếng nói Việt Nam tại Đồng bằng sông Cửu Long nhiều năm, có nhà riêng tại Mỹ Tho và đặt “bureau” ngay tại nhà, một lần Chủ tịch tỉnh Tiền Giang là ông Nguyễn Công Bình đến bảo tôi: Thường vụ (tỉnh) mới họp, quyết định kỳ này giới thiệu đồng chí tham gia cấp uỷ (phường) để đồng chí giúp đỡ địa phương (phường) và để hằng tháng đồng chí khỏi lên thành phố Hồ Chí Minh họp chi bộ (!). Tôi chưa kịp nói gì, nhưng nhìn vẻ ngạc nhiên của tôi, ông Chủ tịch tỉnh vốn nghiêm nghị và quyết đoán đã nghiêm nét mặt nói: Đồng chí không được khiêm tốn! Nói xong, ông lên xe ra về.

Tôi than với vợ tôi rằng: Kỳ này có lẽ tôi “tới số” rồi, vì “không được khiêm tốn”!

Chưa hết, sau hơn 10 năm có lẻ thường trú cho Đài Tiếng nói Việt Nam tại Đồng bằng sông Cửu Long, tôi về làm việc tại cơ quan thường trú của Đài tại thành phố Hồ Chí Minh, một hôm, hai cán bộ lãnh đạo cấp trưởng – phó ban của báo Sài Gòn giải phóng tranh luận với nhau về việc Lê Phú Khải có phải là đảng viên hay không? Người bảo có, người bảo không. Cuối cùng người ta cá cược nhau một thùng bia! Họ gọi điện về nhà hỏi vợ tôi… Khi tôi về đến nhà, vợ tôi kể lại chuyện này và bảo: Đến bây giờ mà mấy ông Sài Gòn giải phóng còn… nặng về lý lịch! Tôi bảo với bả: Dù sao thì tôi cũng mừng cho đảng, vì người ta thấy tôi tử tế nên nghĩ tôi là đảng viên (!).

Ít ngày sau khi ông Tư Sang hỏi ông Tô Văn Trường về tôi thì diễn đàn Bauxite Việt Nam ra đời do Giáo sư Huệ Chi làm tổng biên tập. Ngay lập tức, cả một rừng phản biện về khai thác bauxite ở Tây Nguyên được đăng tải trên diễn đàn Bauxite Việt Nam. Phản biện toàn diện, từ xử lý môi trường đến vận chuyển thành phẩm ra biển, hạch toán lỗ lãi…

Tác dụng của trang mạng này mạnh mẽ đến mức Tổng biên tập Huệ Chi bị công an mời lên chất vấn dài dài… Cũng từ đó mở đầu cho một giai đoạn các tổ chức xã hội dân sự cùng với các trang mạng của họ ra đời. Các kiến nghị lấy chữ ký, thư thỉnh cầu, các tuyên bố dân sự xuất hiện ngày một nhiều.

Lịch sử đấu tranh ôn hoà để dân chủ hoá đất nước trong lòng chế độ độc tài toàn trị ghi công những người đầu tiên lập nên diễn đàn Bauxite Việt Nam.

Như một tất yếu, khi xã hội Việt Nam quyết không cải cách chính trị, chỉ cải cách kinh tế, với kinh tế thị trường “định hướng xã hội chủ nghĩa” thì cái quái thai này đã tàn phá dữ dội toàn diện đất nước.

Với 10 năm cầm quyền, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bật đèn xanh cho cả hệ thống chính trị ăn cướp đất đai, tài sản của dân để xây dựng phe cánh, tạo thế lực riêng cho mình, với hy vọng tranh giành quyền lực ở đại hội 12. Dũng đổ, kinh tế, đạo đức xã hội cũng đến hồi sụp đổ.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng muốn củng cố đảng, chống tham nhũng và “đốt lò”, nhưng lại thù ghét tam quyền phân lập, luôn miệng chống “các thế lực thù địch”… thì chỉ là một trò hề, một tấn tuồng lố bịch! Hơn nữa, Trung Quốc cũng không bao giờ cho ông Trọng chống tham nhũng thật sự. Họ luôn duy trì một Việt Nam hèn yếu và hỗn loạn… Tham nhũng ngày một lan tràn, vì cái gốc của nó là thể chế độc tài đảng trị vẫn giữ nguyên, thậm chí còn xiết chặt đàn áp dân chủ, đàn áp báo chí hơn bất cứ lúc nào.

Như một lẽ tự nhiên, diễn đàn Bauxite Việt Nam từ chỗ chỉ phản biện về vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên, đã trở thành một trang mạng xã hội của trí thức trong và ngoài nước phản biện về tất cả những chính sách kinh tế, xã hội, chính trị của nhà nước đảng trị, công an trị. Trung Quốc đưa giàn khoan khủng vào Biển Đông, tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam, vụ làm tàu cao tốc, dự luật đặc khu, vấn nạn cướp đất ở Đồng Tâm, Thủ Thiêm, vườn rau Lộc Hưng, nạn gian lận thi cử, nạn bạo hành ở trường học… tất cả những vấn nạn kinh hoàng ấy của đất nước đều được Bauxite Việt Nam phanh phui, phê phán không khoan nhượng. Vì thế, cho đến nay, sau 10 năm tồn tại, mặc dù cả một rừng các trang mạng khác, các blog cá nhân ra đời như măng mọc sau ngày mưa, diễn đàn Bauxite Việt Nam vẫn là “tờ báo” được đông đảo bạn đọc đón nhận từng ngày. Sức sống của trang Bauxite Việt Nam mãnh liệt và không một luật an ninh mạng nào xoá bỏ được nó ở thời đại công nghệ 4.0 này.

Ngay từ những ngày đầu, tôi đã phản đối quyết liệt việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên, tham gia viết bài cho diễn đàn Bauxite Việt Nam và là bạn đọc thường xuyên của trang, vì thế tôi theo dõi từng diễn biến lớn nhỏ suốt 10 năm qua về đề tài bauxite Tây Nguyên.

Với tất cả vốn liếng và kinh nghiệm nghề nghiệp hơn 40 năm theo đuổi công việc của “người trinh thám cuộc sống” – như người đời đã gọi các nhà báo, tôi gắng sức điều tra và thấy cần thông báo về tình hình khai thác bauxite Tây Nguyên như sau:

Như các cụ ta xưa có câu: Trong cái rủi có cái may, Trung Quốc cấm khai thác bauxite ở nước họ, nhưng lại bắt chư hầu Việt Nam khai thác cho bằng được để bán cho họ, bắt Việt Nam mua các thiết bị khai thác kém chất lượng của họ (!). Nhưng với tinh thần sáng tạo, ý chí của mình, các kỹ sư Việt Nam đã giải quyết được tất cả những trục trặc trong dây chuyền công nghệ do thiết bị kém chất lượng của Trung Quốc. Việt Nam đã làm chủ được công nghệ. Từ năm 2016 sản xuất đã ổn định và có lãi. Năm 2018 nhà máy Tân Rai sản xuất được 670.000 tấn alumin (nhôm oxit), lãi 2.000 tỷ, trong khi phải đầu tư 15.000 tỷ. Nhân Cơ sản xuất được 650.000 tấn alumin (nhôm oxit), lãi 1.700 tỷ, trong khi phải đầu tư 17.000 tỷ.

Khi nói về vấn đề lãi, các nhà kinh tế sẽ đặt câu hỏi, bán tài nguyên của đất nước đi thì có thể gọi là lãi được không? Có người lại nêu vấn đề, các nhà máy bauxite nằm trong Tổng công ty Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tổng công ty đang báo lỗ thì lãi của hai nhà máy Tân Rai, Nhân Cơ vẫn nằm trong lợi ích nhóm, ngân sách quốc gia không được hưởng gì.

Hiện nay Trung Quốc không mua nhôm oxit của Việt Nam để sản xuất nhôm nữa, họ chủ yếu mua của Brazil. Trung Quốc không mua nữa, ta lại bán cho Nhật và Ấn Độ với giá cao hơn, 360 USD một tấn.

Sau nhiều bầm dập, sau nhiều bất cập, đến bây giờ các kỹ sư Việt Nam có thể lắp đặt toàn bộ dây chuyền công nghệ, từ làm tổng công trình sư đến thiết kế, mua sắm thiết bị… cho một nhà máy tuyển bauxite, phát triển lên thành một công nghệ mạnh mang thương hiệu Việt Nam. Các lãnh đạo ở Nhân Cơ và Tân Rai cho hay: Nếu làm nhà máy mới, tất nhiên là mua sắm thiết bị của G7, không đời nào mua của Tàu. Hiện các kỹ sư của Tàu đã về nước hết.

Tuy nhiên, theo các nhà khoa học môi trường, hiệu quả thực sự của dự án Bauxite Tây Nguyên vẫn là một bài toán rủi ro khó lường, nó bất cập ngay từ đầu, vì chỉ dựa vào quyết tâm chính trị của nhà nước.

Thông thường làm dự án thí điểm thì dự án không lớn. Nhưng Việt Nam làm luôn hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ, lại sử dụng cùng một nhà thầu và sử dụng công nghệ của nhà thầu này luôn là một sai lầm ai cũng thấy. Về chất lượng sản phẩm cần phải có so sánh với alumina (nhôm oxit) của một số nước khác, không thể nói chung chung là đạt chất lượng thế giới. Nếu chất lượng thấp thì dùng vào các mục đích khác như trong lĩnh vực chất mài, chất đánh bóng, chất chịu lửa, thuỷ tinh, gốm… Về lâu dài thì phải đầu tư công nghệ thải bùn đỏ khô, không thể bỏ qua chi phí này.

Hồ bùn đỏ là vấn đề rất lớn về môi trường. Hiện VN chỉ mới giải quyết chống chảy tràn giữa hai ô chứa bùn đỏ (block – khoang). Vấn đề chống tràn toàn hồ chưa có, và tháo nước tràn này đi đâu, trong khi mưa ở Tây Nguyên rất lớn? Kinh nghiệm cho thấy thảm họa vỡ hồ bùn đỏ ở Hungari xảy ra vào mùa mưa.

Nhìn bằng mắt thường, hồ bùn đỏ được xây dựng khá vững chãi. Nhưng quan ngại nhất đối với hồ bùn đỏ ở Tân Rai và Nhân Cơ là rò rỉ kiềm vào nước ngầm và nước mưa tràn.

Nhiều chuyên gia khuyên không nên dùng màng chống thấm thông thường với môi trường kiềm, hoặc nếu có sử dụng thì chỉ dùng trong thời gian ngắn.

Vấn đề chọn nhà thầu Trung Quốc với những điều khoản hợp đồng tù mù, bất lợi mà không ít người đã nhìn thấy và can ngăn không được. Nay “việc đã rồi” này phải được giải quyết thật minh bạch trong thời gian tới.

Cần xem xét thật thận trọng kiến nghị của TKV về khả năng mở rộng công suất của dự án. Nếu có công ty tư nhân nào muốn đầu tư thì phải tạo điều kiện cho họ, nhưng phải là công nghệ tiên tiến.

Cuối cùng, Bộ Công Thương phải báo cáo Quốc hội về hiệu quả thực sự của dự án   bauxite 10 năm qua về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường.

Chính vì thế mà diễn đàn Bauxite Việt Nam còn nguyên giá trị phản biện, giá trị thời sự của nó sau 10 năm tồn tại.

Người viết bài này có một đề nghị: Nhân kỷ niệm 10 năm trang mạng Bauxite Việt Nam, thiết nghĩ có nên lập một Ban giám khảo, xét trao giải cho những cây viết đã tham gia diễn đàn Bauxite Việt Nam 10 năm qua? Một giải Nhất trị giá 500.000 VN đồng, giải Nhì 300.000 VN đồng và một giải Khuyến khích 100.000 VN đồng. Là độc giả chăm chỉ của diễn đàn Bauxite Việt Nam, tôi đề nghị trao giải Nhất cho Tiến sĩ Tô Văn Trường, người đã phản biện rất hiệu quả những bất cập trong dự án làm đường tàu cao tốc năm 2010, góp phần cho dự án phản dân hại nước này phải hủy bỏ vĩnh viễn.

Hiện đại hóa lực lượng cảnh sát biển: Khẩn cấp nhất trong các khẩn cấp của Hải quân Việt Nam

Nguyễn Ngọc Chu

13-7-2019

Bà Ngân có đi cả chục chuyến sang Trung Quốc, Lãnh đạo Việt Nam có đi cả trăm chuyến sang Trung Quốc, thì cũng không bao giờ thay đổi được mục đích thôn tính Biển Đông Nam Á của Trung Quốc Cộng sản.

Vai trò của Trung Quốc trong Hiệp định Geneva

Dương Quốc Chính

21-7-2019

Năm nay, tàu TQ kéo vào biển Đông quấy rối trong 1 hoàn cảnh rất éo le cho VN. Hoàn cảnh hiện tại là khi bà Ngân đang ở TQ, điều này thì ai cũng biết. Nhưng còn 1 hoàn cảnh lịch sử khác, mà có lẽ ít người để ý.

Người dân có quyền được thông tin (Phần 2)

Lê Hồng Giang

28-7-2019

Tiếp theo Phần 1

Có 3 thuật ngữ cần làm rõ liên quan đến “chủ quyền” hiểu theo UNCLOS: sovereignty, sovereign rights, jurisdiction.

Một quốc gia có “chủ quyền” trên đất liền như thế nào thì cũng đó từng đó quyền trên “territorial water” 12 hải lý của mình trên biển. Chủ quyền theo nghĩa này là “sovereignty” bao gồm tất cả các quyền lực quốc gia của nhà nước qui định trong luật pháp quốc tế và luật của quốc gia đó. Ra ngoài “territorial water” quyền lực giảm dần, trong vùng EEZ (200 hải lý) một quốc gia chỉ còn “sovereign rights” liên quan đến những lĩnh vực qui định trong Điều 57 (và Điều 77 khi mở rộng ra “Continental Shelf “).

Người ta ném đi lá cờ

Trung Bảo

5-8-2019

Sáng ngày 5/8, cuộc biểu tình ở Hongkong diễn ra ở hình thái đình công. Các báo Hongkong cho hay có ít nhất 150 chuyến bay bị huỷ và hầu hết các chuyến tàu tốc hành phải dừng vì nhân viên đình công. Đặc khu trưởng Carie Lam cho biết nền kinh tế hòn đảo này bị “thiệt hại nghiêm trọng”. Thế nhưng, hình ảnh chắc chắn khiến Bắc Kinh nổi giận đó là người biểu tình hạ và ném lá cờ Trung Quốc xuống biển.

Hành vi buông bỏ chủ quyền quốc gia, hay là gì khác?

Hà Huy Sơn

14-8-2019

Điều 1, Hiến pháp 2013, quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.”

Khủng hoảng bãi Tư Chính: Bước ngoặt mới cho Việt Nam

Viet-Studies

Nguyễn Quang Dy

25-8-2019

Biển Đông khủng hoảng “lần 2” tại bãi Tư Chính là tiền đề cho một cuộc “khủng hoảng kép” về đối ngoại và đối nội của Việt Nam. Nửa cuối năm 2019 sẽ chứng kiến một bước ngoặt mới cho Việt Nam khi đất nước phải “tái cân bằng” quan hệ chiến lược với Mỹ và Trung Quốc, đồng thời chuẩn bị đổi mới thể chế để cải cách kinh tế và chính trị cởi mở hơn.

Tin Biển Đông: Người phát ngôn Bộ Ngoại giao VN lên tiếng lần thứ 3 về Bãi Tư Chính

BTV Tiếng Dân

13-9-2019

Tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao chiều 12/9/2019, các nhà báo đã đưa ra một loạt câu hỏi về hoạt động vi phạm của nhóm tàu Hải Dương Địa Chất 8 trong vùng biển Việt Nam. Lần thứ ba, Việt Nam yêu cầu Trung Quốc rút ngay lập tức nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8, báo Tuổi Trẻ đưa tin.

Toàn dân hãy chống bè lũ cộng sản Trung Quốc xâm lược

Nguyễn Tiến Trung

25-9-2019

Tại sao những người cai trị cấp cao nhất im lặng?

Đến giờ này, ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, người đang có quyền lực cao nhất nước, và Quốc hội, theo Hiến pháp là cơ quan quyền lực cao nhất, vẫn hoàn toàn câm lặng trước việc cộng sản Trung Quốc đang đưa tàu thăm dò Hải Dương 8, tàu cẩu khổng lồ Lam Kình và hàng loạt chiến hạm hộ tống vào thềm lục địa Việt Nam thoải mái thăm dò dầu khí. Cộng sản Trung Quốc, qua phát ngôn viên Cảnh Sảng, cũng tuyên bố hùng hồn là bãi Tư Chính thuộc chủ quyền Trung Quốc.