Diplomat
Tác giả: Christelle Nguyen
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng/ NCQT
19-1-2024
Cuộc đụng độ này là một cột mốc quan trọng đối với tuyên bố chủ quyền của Hà Nội ở Biển Đông – nhưng việc kỷ niệm 50 năm trận chiến đòi hỏi phải thảo luận về chính phủ Việt Nam Cộng hoà.
Đường Quốc Cường là một trong những diễn viên Trung Quốc nổi tiếng nhất tại Việt Nam. Ông đã thành danh nhờ các vai diễn nhân vật lịch sử trong các bộ phim cổ trang, vốn là dòng phim thống trị truyền hình Việt Nam vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000. Vai diễn nổi bật nhất của ông có lẽ là vai quân sư Gia Cát Lượng trong tác phẩm kinh điển “Tam Quốc Diễn Nghĩa”, một biểu tượng của trí tuệ thời xưa trong văn hóa đại chúng Việt Nam.
Tuy nhiên, khán giả Việt Nam ít ai biết rằng vai diễn đầu tay của ông lại là trong một bộ phim điện ảnh ra mắt năm 1976. “Nam Hải Phong Vân” (Bão Biển Đông), do xưởng phim quân sự duy nhất ở Trung Quốc sản xuất, mô tả lại Hải chiến Hoàng Sa năm 1974 giữa Trung Quốc đại lục và Việt Nam Cộng hoà.
Đường Quốc Cường đã vào vai một ngư dân lạc quan và chăm chỉ, sống ở một quần đảo giàu tài nguyên mà tiếng Trung gọi là “Tây Sa” còn tiếng Việt gọi là “Hoàng Sa.” Nhân vật của ông đã chứng kiến sinh kế và gia đình của mình bị ảnh hưởng sau những đợt quấy rối liên tục của quân đội Việt Nam Cộng hoà ở Biển Đông. Quyết tâm trả thù, ông trở thành thủ lĩnh của Hải quân Trung Quốc. Và thế là, những ngư dân kiên cường, được rèn luyện bởi tinh thần Cách mạng Văn hóa, và được truyền cảm hứng từ tài lãnh đạo của Mao Trạch Đông, đã góp phần vào chiến thắng của Trung Quốc trước đội quân “đế quốc” do Tổng thống Việt Nam Cộng hoà tham nhũng và hèn nhát Nguyễn Văn Thiệu gửi đến.
Kịch bản của bộ phim được xây dựng theo phiên bản chính thức của Trung Quốc về trận hải chiến xảy ra vào ngày 19-20/01/1974, dù thật ra giao tranh đã diễn ra từ vài ngày trước đó, nhằm tranh giành quyền kiểm soát quần đảo lúc bấy giờ chưa có người ở. Phía Trung Quốc gọi trận chiến ngắn ngủi này là “Cuộc phản công tự vệ Tây Sa,” trong khi người Việt gọi nó là “Hải chiến Hoàng Sa”.
Suốt nhiều năm, chính quyền Việt Nam chọn cách giữ im lặng về trận chiến, và thậm chí còn ngăn chặn những nỗ lực quy mô lớn để tưởng nhớ những người lính đã hy sinh, những người đã chiến đấu thay mặt cho Việt Nam Cộng hoà. Nhưng giờ đây, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tưởng nhớ Hải chiến Hoàng Sa đã bị lãng quên từ lâu, tất nhiên là phải làm điều đó một cách thận trọng và có chọn lọc.
Một mặt, Hà Nội cần bằng chứng lịch sử về hành vi xâm lấn của Trung Quốc để khẳng định yêu sách lãnh thổ của mình ở Biển Đông vốn đang ngày càng căng thẳng. Nước Việt Nam thống nhất do ĐCSVN lãnh đạo được kế thừa các yêu sách lãnh thổ của Việt Nam Cộng hoà đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mặt khác, đảng phải đối mặt với một tình thế lưỡng nan khi thừa nhận chính phủ Việt Nam Cộng hoà, vốn là kẻ thù của họ trong và thậm chí sau Chiến tranh Việt Nam.
Lịch sử của những trận chiến, trận chiến của những lịch sử
Theo cuốn sách xuất bản năm 2009 của Chen Meifang, “Defending Xisha: PLA’s Self -Defense Counterattack Operations in Xisha Islands” (Các chiến dịch Phản công Tự vệ của PLA tại Quần đảo Tây Sa), Mao Trạch Đông khi ở tuổi 80 đã đưa ra quyết định tham chiến cuối cùng của mình khi viết hai chữ “đồng ý” lên báo cáo của Chu Ân Lai, cáo buộc rằng Việt Nam Cộng hoà “bá quyền và bành trướng” ở vùng lãnh hải của Trung Quốc. Sau đó, Mao giao trọng trách lại cho Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình, người vừa được phục chức sau Cách mạng Văn hóa.
Trong trận chiến diễn ra sau đó, Trung Quốc đã nhanh chóng đánh bại quân đội Việt Nam Cộng hoà, mà khi đó gần như đã bị các đồng minh bỏ rơi. Hơn 100 lính Việt Nam Cộng hòa thiệt mạng hoặc bị thương, trong khi 48 người khác và 1 sĩ quan liên lạc Mỹ bị bắt giữ, so với 18 lính Trung Quốc thiệt mạng và 67 người khác bị thương. Trung Quốc đã rất tự hào khi giành chiến thắng trong trận chiến trên biển đầu tiên của mình.
Kể từ đó, người Trung Quốc đã đến sinh sống ở khu vực này. Đảo Phú Lâm, đảo lớn nhất ở Hoàng Sa, hiện có dân số thường trú là 1.000 người. Nó cũng là nơi có Thành phố Tam Sa, đơn vị hành chính mà Trung Quốc tuyên bố là đang kiểm soát tất cả các thực thể biển ở Biển Đông.
Nhà sử học George J. Veith, tác giả cuốn “Drawn Swords in a Distant Land: South Vietnam’s Shattered Dreams” (Rút kiếm ở phương xa: Những giấc mơ tan vỡ của Việt Nam Cộng hoà) xuất bản năm 2021, cho biết rằng bất chấp những nỗ lực kéo dài nhiều năm của chính quyền Sài Gòn nhằm khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, thì đây vẫn là một quần đảo rất khó bảo vệ. Vào thời điểm xảy ra xung đột, Việt Nam Cộng hoà đã bố trí một lực lượng đồn trú nhỏ trên một hòn đảo và duy trì hoạt động tuần tra hải quân trong khu vực.
“Tàu Hải quân Việt Nam là những chiếc tàu cũ thời Thế chiến II do Mỹ cung cấp, nhưng quần đảo này rất khó tiếp tế, và các máy bay chiến đấu F-5 gần như đã đạt đến giới hạn nhiên liệu khi bay từ sân bay Đà Nẵng đến Hoàng Sa. Vậy nên, dù Sài Gòn muốn kiểm soát quần đảo và đã cố gắng làm điều đó, thì họ vẫn gặp nhiều khó khăn”, Veith nói qua email.
“Mặt khác, Trung Quốc lại có thể đưa tàu đến gần quần đảo. Sau nhiều lần Trung Quốc hành động khiêu khích, trận hải chiến ngắn ngủi đã kết thúc với thất bại cho chính quyền Nam Việt”.
Khi đó, Việt Nam Cộng hoà sắp sụp đổ đã bị bỏ mặc để tự thân vận động. Năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã tới Bắc Kinh và bắt đầu quá trình bình thường hóa quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nhật Bản cũng có động thái tương tự, dù Tokyo vẫn tiếp tục ủng hộ Sài Gòn cho đến khi chế độ này sụp đổ năm 1975. Về phần mình, Pháp công nhận Trung Quốc và kêu gọi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam.
Sau khi ký kết Hiệp định Paris năm 1973, nhiều nước phương Tây bắt đầu hợp tác với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Bắc Việt). Đài Loan, một đồng minh của Nam Việt, không nêu rõ lập trường của mình đối với quần đảo Hoàng Sa, dù nhiều nguồn tin từ Trung Quốc đại lục cho rằng chính phủ Tưởng Giới Thạch đã ngầm hợp tác với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Vào thời điểm đó, Đài Bắc vẫn tin vào giấc mơ hoang đường là tái chiếm đại lục, và do đó, một chiến thắng của PLA sẽ được coi là bàn đạp để Trung Hoa Dân Quốc giành được quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa.
Mọi nỗ lực yêu cầu Mỹ hỗ trợ quân sự của Tổng thống Thiệu đều vô ích. Trong khi đó, lính Việt Nam Cộng hoà bị kiệt quệ cả về vật chất lẫn tinh thần. Vũ Văn Lộc, nguyên đại tá của chế độ Sài Gòn phụ trách hậu cần sau khi Mỹ rút quân, tiết lộ rằng quân đội Việt Nam Cộng hòa lúc đó chưa chuẩn bị tốt cho trận chiến.
Tiến sĩ Sean Fear từ Đại học Leeds đồng ý với nhận định này, và nói qua email: “Tôi cho rằng tinh thần của binh lính Việt Nam Cộng hòa tham gia trận đánh này không cao, chủ yếu dựa trên ấn tượng của tôi về các sự kiện ở nơi khác vào cùng thời điểm”.
Trong nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng, Việt Nam Cộng hoà đã phản đối tại Liên Hiệp Quốc, nhưng Trung Quốc, vốn có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an – nơi Bắc Kinh thay thế Đài Loan kể từ năm 1971 – đã ngăn chặn mọi nỗ lực đưa vấn đề này ra bàn luận. Theo Giáo sư Nguyễn Thị Hạnh của Học viện Ngoại giao Việt Nam trong cuốn “Les Conflits Frontaliers Sino-Vietnamiens” (Xung đột Biên giới Trung-Việt) xuất bản năm 2018, Liên Hiệp Quốc đã từ chối can thiệp vào cuộc xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam Cộng hòa liên quan đến tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1/1974.
Bắc Việt cũng không tham gia nỗ lực này, vốn diễn ra trong thời kỳ căng thẳng với Trung Quốc. Sáng kiến của Tổng Bí thư Lê Duẩn nhằm thảo luận vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa với Phó Thủ tướng Trung Quốc lúc bấy giờ là Đặng Tiểu Bình trong chuyến thăm Bắc Kinh vào tháng 9/1975, sau khi Sài Gòn thất thủ, đã bị bác bỏ. Đặng nói rằng lập trường của mỗi nước “đã rõ ràng”.
Năm 1977, Chính phủ Việt Nam ra “Tuyên bố về Lãnh hải, Vùng tiếp giáp, Vùng đặc quyền kinh tế, và Thềm lục địa”, trong đó khẳng định quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Anh hùng hay kẻ thù?
Thất bại trong Hải chiến Hoàng Sa mâu thuẫn với quan điểm chính thức ở Việt Nam, rằng họ đã giành chiến thắng trong nhiều trận chiến khác nhau, chủ yếu là chống lại Trung Quốc. Đúng là Việt Nam đã thua – nhưng đó không phải là nước Việt Nam thống nhất như ngày nay.
Sách giáo khoa hiện tại, vốn lấy Hà Nội làm trung tâm, đã che giấu giới trẻ Việt Nam sự thật rằng, cho đến khi Sài Gòn sụp đổ, chính quyền Bắc Việt chỉ được một số quốc gia khác công nhận, chủ yếu là các nước khối Cộng sản. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không phải là thành viên chính thức của Liên Hiệp Quốc. Ngược lại, chế độ miền Nam lại được Liên Hiệp Quốc và gần 90 quốc gia công nhận.
Điều này đã làm phức tạp thêm việc tưởng nhớ chính thức, bởi Việt Nam Cộng hoà mới là bên dẫn đầu các nỗ lực duy trì chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và họ đã làm điều đó bằng cách hợp tác với nhiều nước khác. Thiệu đã yêu cầu Pháp cung cấp đầy đủ tài liệu về tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông. Tháng 10/1973, chỉ vài tháng trước Hải chiến Hoàng Sa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, mà truyền thông phương Tây thường gọi là “Việt Cộng”, đã công bố ý định giải phóng các khu vực “bị kẻ thù chiếm đóng trái phép”.
Kẻ thù ở đây ám chỉ chính quyền miền Nam do Thiệu lãnh đạo. Đáp lại, Thiệu tuyên bố: “Chính chúng ta phải tự cứu lấy mình” và ra lệnh cho quân Việt Nam Cộng hoà kiên trì chiến đấu. Ông thậm chí còn tới Đà Nẵng để giám sát việc phòng thủ quần đảo Hoàng Sa, nhưng những nỗ lực này đều vô ích.
Lập trường của ĐCSVN đã thay đổi khi họ trở thành lãnh đạo của một Việt Nam thống nhất. Giờ đây, chính ĐCSVN phải giải quyết sự hung hăng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông và cung cấp bằng chứng lịch sử về các yêu sách lãnh thổ của Việt Nam. Chỉ trong những trường hợp này, chế độ cũ ở miền Nam mới được gọi đầy đủ là Việt Nam Cộng hòa thay vì “chế độ bù nhìn” như thường lệ.
Chẳng hạn, tại Đài tưởng niệm Hoàng Sa ở thành phố Đà Nẵng, được xây dựng vào năm 2016, chính quyền Nam Việt đã được gọi là Việt Nam Cộng hoà, nhưng tại các bảo tàng lịch sử khác của cùng thành phố, họ vẫn bị gọi là chế độ bù nhìn.
Dù vậy, những người lính chiến đấu thay mặt cho Việt Nam Cộng hoà, kể cả trong trận Hoàng Sa, lại không nhận được bất kỳ lời cảm ơn nào từ ĐCSVN.
Sau khi Sài Gòn thất thủ vào tháng 4/1975, các quan chức quân sự và dân sự của chế độ miền Nam bị đưa đến các trung tâm cải tạo được xây dựng theo mô hình của Trung Quốc. Họ cũng bị từ chối một số cơ hội nghề nghiệp và giáo dục nhất định trong chế độ xã hội chủ nghĩa mới. Sử gia Vũ Minh Hoàng mô tả điều này là “không cần thiết và lãng phí” trong chương sách “Recycling Violence: The Theory and Practice of Reeducation Camps in Postwar Vietnam” (Tái chế bạo lực: Lý thuyết và thực tiễn của các trại cải tạo ở Việt Nam thời hậu chiến).
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đã làm việc tại Bộ Ngoại giao Việt Nam suốt 30 năm trước khi trở thành một người bất đồng chính kiến và phải chuyển đến sống ở Mỹ. Cha ông là nhà thơ nổi tiếng, Bộ trưởng Cù Huy Cận, người đã cùng Hồ Chí Minh ký Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đã tiến hành nhiều nghiên cứu sâu rộng, bao gồm các cuộc phỏng vấn với người nhà của một số sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng hoà từng bị giam giữ. Các cuộc phỏng vấn đã được ghi lại và chia sẻ trên các kênh truyền thông quốc tế. Tháng 8/2010, ông trình lên Quốc hội Việt Nam đề nghị ân xá cho các sĩ quan quân đội và viên chức dân sự từng phục vụ dưới chế độ Việt Nam Cộng hoà (1954-1975).
“Trớ trêu thay, giới lãnh đạo nước Việt Nam thống nhất, sau 30 năm chiến tranh, không những không học được tấm gương hòa giải dân tộc của Hồ Chí Minh, mà trái lại còn làm sâu sắc thêm vết thương dân tộc khi tập trung vào việc ‘cải tạo’ hàng trăm nghìn quân nhân và quan chức của Việt Nam Cộng hòa suốt những năm qua”, Cù Huy Hà Vũ viết trong bản kiến nghị được ông phổ biến rộng rãi trên mạng.
Chính quyền đã sử dụng tài liệu này để buộc tội ông Vũ tạo ra và phát tán nội dung tuyên truyền chống nhà nước. Sau đó vài tháng, ông bị bắt và bị bỏ tù bảy năm.
“Theo như tôi biết, đã không còn quân nhân Việt Nam Cộng hoà nào bị cầm tù nữa”, ông Vũ nói trong một email.
(Còn nữa)