Trong kỳ nghỉ tết vừa qua, tôi về quê và được một người cháu gọi bằng bác tới thăm. Anh là TS Nguyễn Đình Cả, nguyên là cán bộ giảng dạy môn chủ nghĩa Mác – Lênin (CNML) ở một trường đại học tại thành phố HCM, hiện anh đã nghỉ hưu.
Kịch bản phù hợp nhất khi tướng Phan Văn Giang ngồi ghế Chủ tịch nước, thay Võ Văn Thưởng; Nguyễn Tân Cương nắm Bộ trưởng Quốc phòng thay Giang; Trần Cẩm Tú ngồi ghế bà Mai (nếu bà cáo quan, hồi hương). Bùi Thị Minh Hoài sẽ cầm trịch Uỷ ban Kiểm tra Trung ương. Lê Minh Khái sẽ nắm Trưởng Ban Kinh tế.
Ghế chủ tịch nước Cộng hoà XHCN Việt Nam hiện đang bị bỏ trống. Trong khi chờ Bộ Chính trị chuẩn thuận một nhân vật chính thức lên thay ông Võ Văn Thưởng, hiện bà Võ Thị Ánh Xuân đang ngồi tạm ghế này kể từ ngày 21-3-2024. Đây là lần thứ hai bà Xuân ngồi tạm ghế Chủ tịch nước, nhưng bà Xuân sẽ không bao giờ được ngồi ghế này chính thức, bởi bà không ở trong Bộ Chính trị.
Kể từ những ngày đầu của cuộc Chiến tranh Lạnh, hợp tác quốc phòng đã là một trụ cột chính trong các mối quan hệ Việt-Nga. Như ghi nhận trước đó, quân viện của Liên Xô (và Trung Quốc) cho Quân đội Nhân dân Việt Nam là công cụ trong việc Hà Nội đánh bại các quân đội Pháp và Mỹ. Cuộc chiến sau thời chiến tranh Lạnh, Việt Nam tiếp tục dựa vào Nga như là nguồn cung cấp chủ yếu về vũ khí. Từ năm 1995 đến năm 2015, Việt Nam đã mua vũ khí của Nga với trị giá 5,68 đô la Mỹ, tương đương với 90% mức nhập khẩu về quốc phòng của đất nước. Hầu hết vũ khí tồn kho của Quân đội Nhân dân Việt Nam hiện nay – bao gồm máy bay chiến đấu, xe tăng, tàu ngầm và tàu chiến trên mặt nước – đều là các thiết bị do Liên Xô và Nga sản xuất.
Việc Nga chiếm đóng Crimea năm 2014 là một bước ngoặt trong mối quan hệ quốc phòng Việt-Nga. Việt Nam trở nên lo ngại rằng các biện pháp trừng phạt và kiểm soát xuất khẩu của phương Tây nhắm vào lĩnh vực công nghiệp quốc phòng của Nga sẽ ảnh hưởng đến chất lượng hệ thống vũ khí của Nga và làm gián đoạn lịch trình giao hàng. Những lo ngại đó càng trở nên trầm trọng hơn nhiều kể từ khi cuộc chiến Nga-Ukraine bùng nổ và việc phương Tây thắt chặt các biện pháp trừng phạt đối với Nga.
Hơn nữa, màn trình diễn mờ nhạt của quân đội Nga ở Ukraine đã khiến cho giới lãnh đạo cấp cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam lo lắng. Nếu người Nga không thể đánh bại một kẻ thù yếu hơn, thì làm sao Quân đội Nhân dân Việt Nam do Nga trang bị và huấn luyện sẽ chống lại một đối thủ mạnh hơn nhiều như Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc? Điều này được chú ý gần đây nhất khi hai tàu tuần tra tên lửa lớp Taruntul của Hải quân Nga bị máy bay không người lái của Ukraine phá hủy hồi tháng 12/2023 và tháng 2/2024. Hải quân Việt Nam vận hành 12 tàu loại này.
Kể từ năm 2014, nhu cầu giảm sự phụ thuộc quân sự của Việt Nam vào Nga đã rõ ràng. Nhưng việc chuyển đổi từ một nhà cung cấp quan trọng về vũ khí là tốn kém và mất thời gian. Do đó, Việt Nam sẽ vẫn phụ thuộc vào lĩnh vực quốc phòng của Nga trong một hoặc hai thập niên nữa. Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam đã thực hiện một chiến lược ba hướng: Trang bị thêm, bản địa hóa và đa dạng hóa.
Mũi nhọn đầu tiên là trang bị thêm các thiết bị hiện có do Nga sản xuất để nâng cấp khả năng của họ với sự hỗ trợ từ các quốc gia khác mà nó vận hành số thiết bị của Liên Xô / Nga, bao gồm Ấn Độ và các thành viên thuộc Hiệp ước Warsaw cũ như Cộng hòa Séc.
Mũi nhọn thứ hai là hỗ trợ sự phát triển của một ngành công nghiệp quốc phòng bản địa để Việt Nam có thể giảm sự phụ thuộc vào các nước khác trong việc hỗ trợ trang bị thêm và mua sắm mới. Ngành công nghiệp quốc phòng non trẻ của Việt Nam, dẫn đầu bởi các doanh nghiệp quốc doanh như doanh nghiệp viễn thông Viettel, hiện nay đang sản xuất máy bay trinh sát không người lái, radar, các vũ khí nhẹ và tên lửa. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn cần nhiều thập niên nữa mới có thể tự cung ứng trong lĩnh vực quốc phòng.
Mũi nhọn thứ ba là mua phần cứng về quân sự từ các quốc gia khác ngoài Nga. Thực ra, Việt Nam đã bắt đầu chính sách tuần tự về việc đa dạng hóa vũ khí trước năm 2014, mua hàng từ Israel, Hàn Quốc, Pháp và Nhật Bản. Nhưng cuộc chiến Nga – Ukraine buộc Việt Nam phải đẩy nhanh chính sách này. Hà Nội có thể sẽ tăng cường mối quan hệ đối tác quốc phòng với Hàn Quốc và một số nước châu Âu, bao gồm Anh và Pháp. Mua vũ khí từ Hoa Kỳ, bao gồm cả chiến đấu cơ như F-16 đã qua sử dụng, vẫn là một khả năng, mặc dù một số trở ngại cản trở mối quan hệ quốc phòng gần gũi hơn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
Bất chấp những vấn đề mà ngành công nghiệp quốc phòng của Nga đối mặt, không thể loại trừ vai trò tiếp tục của ngành này trong các kế hoạch mua sắm quốc phòng của Việt Nam. Giới lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam đã trở nên thoải mái với mối quan hệ kéo dài hàng thập niên với Nga và ít tin tưởng vào các nước khác, đặc biệt là Mỹ, kẻ cựu thù. Hơn nữa, việc tích hợp các thiết bị không phải của Nga với kho hàng hiện có của Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ có vấn đề rắc rối. Tháng 9/2023, có thông tin cho rằng Việt Nam và Nga đã thỏa thuận một việc thương thảo về số vũ khí trị giá 8 tỷ đô la Mỹ, sử dụng lợi nhuận từ liên doanh năng lượng của họ ở Siberia. Tuy nhiên, vẫn còn phải xem liệu Việt Nam có tiếp tục thực hiện bất kỳ vụ thương vụ khổng lồ nào với Nga trong tương lai gần hay không.
Việt Nam và mối quan hệ Nga – Trung
Cuộc chiến Nga – Ukraine đã củng cố mối quan hệ chiến lược Trung – Nga. Moscow và Bắc Kinh chia sẻ các thế giới quan tương tự, đặc biệt là sự cần thiết phải chống lại bá quyền Mỹ. Không có lợi cho Trung Quốc trong việc Nga thua trận, cũng như các biện pháp trừng phạt của phương Tây thành công. Mặc dù Bắc Kinh không công khai ủng hộ sự gây hấn của Nga, nhưng họ đã bày tỏ sự đồng cảm với lý do Moscow phát động cuộc xâm lược, bỏ phiếu trắng tại Đại Hội Đồng LHQ khi lên án Moscow, tăng cường can dự kinh tế với Nga và cung cấp quân viện hạn chế. Tuy nhiên, cuộc chiến đã khuếch đại tình trạng bất cân xứng về quyền lực trong mối quan hệ Nga – Trung khi sự phụ thuộc về chính trị và kinh tế của Moscow vào Bắc Kinh ngày càng sâu đậm. Không có quốc gia nào khác ở Đông Nam Á bị ảnh hưởng bởi sự năng động này như Việt Nam. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với tranh chấp đang diễn ra của Việt Nam với Trung Quốc ở Biển Đông cũng như hợp tác quốc phòng với Nga.
Việt Nam lo ngại rằng, việc Nga phụ thuộc vào Trung Quốc ngày càng tăng, Bắc Kinh có thể sử dụng đòn bẩy với Moscow để làm suy yếu lợi ích của Việt Nam. Điều này bao gồm gia tăng áp lực cho Điện Kremlin rút các doanh nghiệp quốc doanh về năng lượng ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và ngừng bán vũ khí cho Quân đội Nhân dân Việt Nam …
Nga có cổ phần đáng kể trong lĩnh vực dầu khí của Việt Nam. Hai doanh nghiệp quốc doanh về năng lượng của Nga là Zarubezhneft và Gazprom, hiện đang tham gia vào các dự án khai thác và sản xuất trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý của Việt Nam. Vietsovpetro (VSP) – một liên doanh được thành lập bởi Zarubezhneft của Liên Xô và PetroVietnam, một doanh nghiệp quốc doanh của Việt Nam vào năm 1982 – có các dự án khoan tại năm mỏ dầu khí ngoài khơi Việt Nam.
Theo Vietsovpetro, tính đến cuối năm 2017, doanh nghiệp này đã sản xuất được 228 triệu tấn dầu thô và 32,5 tỷ mét khối khí, tạo ra doanh thu 77 tỷ đô la Mỹ, trong đó chính phủ Việt Nam thu được 48 tỷ đô la Mỹ. Năm 2010, hai doanh nghiệp đồng ý kéo dài sự hợp tác cho đến năm 2030. Năm 2021, Rosneft, doanh nghiệp dầu mỏ lớn nhất của Nga, đã bán phần của mình trong hai mỏ năng lượng ở lưu vực sông Nam Côn Sơn cho Zarubezhneft. Gazprom, doanh nghiệp khí đốt lớn nhất của Nga, đã thành lập một liên doanh với PetroVietnam vào năm 1997, Vietgazprom (VGP), để phát triển các dự án về năng lượng ở ngoài khơi. Chúng bao gồm các mỏ khí Hải Thạch và Mộc Tĩnh, trong năm 2017 chiếm 21% tổng sản lượng khí đốt tự nhiên của Việt Nam.
Một số lô năng lượng mà Vietsovpetro (VSP) và Vietgazprom (VGP) hoạt động nằm trong đường chín đoạn của Trung Quốc. Bắc Kinh tuyên bố quyền tài phán đối với các nguồn tài nguyên biển trong đường đó, bao gồm cả trữ lượng dầu khí. Năm 2016, Trung Quốc bác bỏ phán quyết của tòa trọng tài do LHQ hậu thuẫn, trong đó phán quyết đường chín đoạn không tương thích với Công ước LHQ năm 1982 về Luật Biển (UNCLOS) và do đó không hợp lệ. Nga không công nhận đường chín đoạn của Trung Quốc, nhưng đồng cảm với quyết định [của Trung Quốc] bác bỏ phán quyết của tòa trọng tài năm 2016.
Bắc Kinh khẳng định các yêu sách của mình bằng cách sử dụng các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc (China Coast Guard, CCG) và dân quân biển để quấy rối các tàu khảo sát và giàn khoan hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các nước Đông Nam Á, mà nó thường chồng lấn với đường chín đoạn mở rộng. Mặc dù các mối quan hệ giữa Nga và Trung Quốc được thắt chặt trong thập niên qua, Bắc Kinh đã không tạo ra ngoại lệ đối với các tàu được thuê bởi liên doanh Việt – Nga. Ví dụ, trong năm năm qua, các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG), thường đi cùng với các tàu khảo sát và tàu đánh cá Trung Quốc, đã nhiều lần xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, đôi khi đi qua rất gần tới các giàn khoan do Nga thuê, dẫn đến một trò chơi mèo vờn chuột gây căng thẳng giữa các tàu cảnh sát biển của Việt Nam và Trung Quốc. Chính sự quấy rối của tàu Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG) đã khiến cho Rosneft phải bán đi phần đầu tư của mình ở lưu vực Nam Côn Sơn cho Zarubezhneft hồi năm 2021 để bảo vệ lợi ích thương mại của họ ở Trung Quốc, khách hàng lớn nhất của doanh nghiệp.
Mục đích của các chiến thuật đe dọa của Trung Quốc có hai mặt. Thứ nhất, tạo ra một môi trường hoạt động thù địch cho các doanh nghiệp ngoại quốc về năng lượng ở Biển Đông, buộc họ phải chấm dứt các thương vụ (như Repsol của Tây Ban Nha và Marudaba của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đã làm vào năm 2020 và Rosneft một năm sau đó). Thứ hai, ép buộc các bên tranh chấp ở Đông Nam Á hủy hợp đồng với các tập đoàn ngoại quốc về năng lượng và tham gia vào các dự án phát triển mới với các tập đoàn Trung Quốc.
Cả Việt Nam và Nga đều không sẵn sàng nhượng bộ các mong muốn của Trung Quốc. Thực ra, trong Bản Tuyên bố chung năm 2021 về Tầm nhìn phát triển quan hệ Việt Nam – Nga năm 2030, hai nước cam kết tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp dầu khí “cho phù hợp với luật quốc tế, bao gồm UNCLOS và các luật quốc nội của Việt Nam và Nga”.
Hà Nội hoan nghênh sự tham gia của các doanh nghiệp ngoại quốc về năng lượng vào các dự án về khai thác và sản xuất của mình không chỉ vì họ là một nguồn chuyên môn kỹ thuật và vốn quan trọng, mà còn vì Việt Nam có quyền chủ quyền theo UNCLOS để quyết định trữ lượng dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình nên được phát triển như thế nào và với ai.
Nga cũng rất coi trọng việc tiếp tục hoạt động của các doanh nghiệp năng lượng trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Các liên doanh với PetroVietnam có lợi nhuận cao và tạo ra nguồn doanh thu quan trọng vào thời điểm xuất khẩu dầu khí của Nga sang châu Âu bị cắt giảm mạnh sau khi Liên Âu áp đặt các biện pháp trừng phạt. Hơn nữa, nếu Nga chấp nhận yêu cầu của Trung Quốc và chấm dứt hợp tác năng lượng với Việt Nam, họ sẽ bị tổn hại thanh danh ở Việt Nam và các nước khác ở Đông Nam Á. Các quốc gia trong khu vực có thể sẽ kết luận rằng Nga là đối tác cấp dưới của Trung Quốc và phụ thuộc vào lợi ích của Bắc Kinh ở Đông Nam Á. Điều này sẽ làm suy yếu tuyên bố của Moscow rằng họ hoạt động độc lập trong nền chính trị toàn cầu.
Việt Nam lo ngại rằng do sự phụ thuộc ngày càng gia tăng của Nga với Trung Quốc, Bắc Kinh có thể sử dụng đòn bẩy của mình với Moscow để làm suy yếu lợi ích của Việt Nam. Điều này bao gồm gia tăng áp lực lên Điện Kremlin để rút khỏi các doanh nghiệp quốc doanh về năng lượng ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam và ngừng bán vũ khí cho Quân đội Nhân dân Việt Nam, đặc biệt là vũ khí tấn công có thể được sử dụng chống lại Trung Quốc trong một cuộc đối đầu quân sự ở Biển Đông.
Tuy nhiên, Việt Nam đánh giá là trong ngắn hạn, việc tăng cường các mối quan hệ Nga – Trung có thể không có tác động quan trọng đến lợi ích của Việt Nam, vì hai lý do. Thứ nhất, Trung Quốc hiểu tầm quan trọng về kinh tế và địa chính trị của các hoạt động của Nga trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam và sẵn sàng chấp nhận sự tiếp tục của họ trong một thời gian dài hơn vì lợi ích của quan hệ đối tác chiến lược của họ.
Hơn nữa, động lực quyền lực trong các quan hệ Trung – Nga vẫn chưa lệch lạc đến mức Bắc Kinh có thể buộc Moscow phải thực hiện mệnh lệnh của mình. Thứ hai, Trung Quốc cũng hiểu rằng nếu họ thúc ép Việt Nam quá mạnh, bao gồm cả thông qua mối quan hệ với Nga, điều đó có thể buộc Hà Nội tạo ra mối quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, một mối quan hệ chiến lược Trung – Nga mạnh mẽ hơn đặt ra những thách thức trung và dài hạn cho Việt Nam và tạo thêm động lực cho Hà Nội giảm sự phụ thuộc quân sự vào Nga.
______
Tác giả: Ian Storey là thành viên nghiên cứu cao cấp tại ISEAS – Viện Yusof Ishak, Singapore
Mấy năm gần đây, qua việc đại phát động chống tham nhũng quyết liệt, được hầu hết thường dân hoan nghênh, trong giới quan chức từ cấp trung ương trở xuống và giới doanh nghiệp đại gia, hầu như ngày nào cũng có kẻ “vô lò”, gây chóng mặt cho một số người quan tâm, theo dõi thời cuộc. Họ đi sóng đôi với nhau, trong một xã hội tiền và quyền vốn có mối quan hệ rất chặt chẽ, thời nào cũng vậy, nhưng trong hiện tại phổ biến là bất chấp pháp luật và văn hóa-đạo đức.
Câu cảm thán này thường phát ra từ tâm cảm vui vẻ khi nhận được ơn huệ hay kết quả gì đó sau bao nhiêu hy vọng, khát vọng mà nay hé mở ánh sáng của sự tốt lành.
Xét đến những rắc rối mà Hoa Kỳ đang phải đối mặt hồi đầu năm 1969, tình trạng hòa hoãn như Kissinger quan niệm về nó là hợp lý. Không thể đánh bại Bắc Việt Nam, bị ảnh hưởng bởi tình trạng vừa lạm phát vừa đình trệ, và phân hoá sâu đậm về mọi thứ, từ quan hệ chủng tộc đến nữ quyền, Washington không thể chơi trò cứng rắn với Moscow.
Thật vậy, nền kinh tế Mỹ trong thập niên 1970 không có điều kiện để duy trì kinh phí quốc phòng tăng trong tổng thể. (Giảm căng thẳng cũng có lý do về tài chính, mặc dù Kissinger hiếm khi đề cập đến vấn đề này).
Việc hoà hoãn không có nghĩa là – như giới chỉ trích Kissinger cáo buộc – chấp nhận, tin tưởng hay xoa dịu Liên Xô. Điều đó cũng không có nghĩa là cho phép họ đạt được ưu thế về hạt nhân, kiểm soát thường trực Đông Âu hoặc là một đế chế ở thế giới thứ ba. Điều đó có nghĩa là, nhận ra giới hạn về sức mạnh của Mỹ, giảm nguy cơ chiến tranh nhiệt hạch bằng cách sử dụng kết hợp cả hai chính sách dùng cà rốt và cây gậy, kéo dài thời gian để cho Mỹ phục hồi.
Việc này đã vận hành. Đúng vậy, Kissinger đã không bảo đảm “khoảng thời gian thích hợp” giữa việc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam và cuộc chinh phục miền Nam của miền Bắc, một khoảng thời gian mà ông hy vọng sẽ đủ dài để hạn chế thiệt hại cho uy tín và thanh danh của Washington.
Nhưng việc hòa hoãn cho phép Mỹ tập hợp lại các vấn đề trong nước và ổn định chiến lược của Mỹ về Chiến tranh Lạnh. Nền kinh tế Mỹ sớm đổi mới theo cách mà Liên Xô không bao giờ có thể, tạo ra các tài sản kinh tế và công nghệ, cho phép Washington giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh.
Giảm căng thẳng cũng cho Liên Xô sợi dây thòng lọng để tự treo cổ tự tử. Được khuyến khích bởi những thành công của họ ở Đông Nam Á và Nam Phi, họ đã thực hiện một loạt các can thiệp sai lầm và tốn kém trong thế giới kém phát triển, mà đỉnh điểm là cuộc xâm lược Afghanistan vào năm 1979.
Với sự thành công hiếm khi được thừa nhận của việc hòa hoãn trong các điều kiện này, vấn đề đáng để đặt ra là, liệu có những bài học nào mà Hoa Kỳ ngày nay có thể học được mà nó có liên quan đến cuộc cạnh tranh với Trung Quốc không. Kissinger chắc chắn tin như vậy.
Trong khi phát biểu tại Bắc Kinh hồi năm 2019, ông tuyên bố rằng Mỹ và Trung Quốc đã “ở chân đồi của một cuộc chiến tranh lạnh”. Năm 2020, giữa lòng trận đại dịch COVID -19, Kissinger đã nâng cấp nó thành “lối thoát trên núi”. Và một năm trước khi qua đời, ông cảnh báo rằng, cuộc chiến tranh lạnh mới sẽ nguy hiểm hơn cuộc chiến đầu tiên vì những tiến bộ trong công nghệ, chẳng hạn như về trí tuệ nhân tạo, đe dọa chế tạo vũ khí không chỉ nhanh hơn và chính xác hơn mà còn có tiềm năng tự động. Ông kêu gọi cả hai siêu cường hợp tác bất cứ khi nào có thể được để hạn chế những nguy cơ sinh tồn của cuộc chiến tranh lạnh mới này – và đặc biệt là để tránh một cuộc hạ màn đầy thảm khốc trong tiềm tàng về tình trạng tranh chấp của Đài Loan.
Như trong thập niên 1970, nhiều chuyên gia chỉ trích phương cách này trong cuộc tranh luận hiện nay về chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc.
Elbridge Colby, người có suy nghĩ sâu sắc nhất trong thế hệ mới của các chiến lược gia bảo thủ, đã khuyến khích chính quyền Biden áp dụng “chiến lược phủ nhận” để ngăn chặn Trung Quốc thách thức về mặt quân sự trong hiện trạng mà Đài Loan được hưởng quyền tự trị trên thực tế và một nền dân chủ thịnh vượng.
Đôi khi, dường như chính quyền Biden tự đặt vấn đề về chính sách mơ hồ trong chiến lược về Đài Loan kéo dài nửa thế kỷ, trong đó không rõ liệu Mỹ có sử dụng quân lực để bảo vệ hòn đảo này không. Và gần như có một sự đồng thuận trong lưỡng đảng rằng, kỷ nguyên cam kết trước đây với Bắc Kinh là một sai lầm, dựa trên giả định lầm lạc rằng, tăng cường thương mại với Trung Quốc sẽ tự do hóa hệ thống chính trị một cách kỳ diệu.
Tuy nhiên, không có lý do chính đáng là tại sao các siêu cường của thời đại chúng ta, giống như những người tiền nhiệm của họ trong thập niên 1950 và 1960, phải chịu đựng 20 năm bên miệng hố của chiến tranh trước khi có giai đoạn giảm căng thẳng của Chiến tranh Lạnh.
Giảm căng thẳng 2.0 chắc chắn sẽ được yêu chuộng hơn là chạy theo một phiên bản mới như cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba hay đối với Đài Loan, nhưng với vai trò đảo ngược: Nhà nước cộng sản phong tỏa hòn đảo tranh chấp gần đó và Hoa Kỳ phải tiến hành phong tỏa, với tất cả các rủi ro kèm theo. Đó chắc chắn là những gì mà Kissinger tin tưởng trong năm cuối cùng của cuộc đời dài của mình. Đó là động lực chính cho chuyến thăm cuối cùng của Kissinger tới Bắc Kinh ngay sau sinh nhật lần thứ 100 của ông.
Giống như tình trạng hòa hoãn 1.0, một sự hòa hoãn mới sẽ không có nghĩa là xoa dịu Trung Quốc, càng không mong đợi đất nước này thay đổi. Điều đó có nghĩa là, lại một lần nữa, tham gia vào vô số cuộc đàm phán: Về kiểm soát vũ khí (rất cần thiết khi Trung Quốc điên cuồng xây dựng lực lượng của mình trong mọi lĩnh vực); về thương mại; về chuyển giao công nghệ, biến đổi khí hậu, trí tuệ nhân tạo; và trên không gian. Giống như SALT, các cuộc đàm phán này sẽ kéo dài và tẻ nhạt – thậm chí có thể không có kết quả. Nhưng chúng sẽ là “cuộc chạm trán” mà Thủ tướng Anh Winston Churchill thường thích là có chiến tranh hơn. Đối với Đài Loan, các siêu cường có thể làm tồi tệ hơn là phủi sạch lời hứa cũ của họ, do Kissinger đưa ra, là đồng ý các vấn đề không đồng ý.
Tất nhiên, tình trạng giảm căng thẳng không làm nên điều kỳ diệu. Trong thập niên 1970, nó đã bị bán đổ bán tháo và mua với giá quá mắc. Chính sách này chắc chắn đã mang lại cho Hoa Kỳ nhiều thời gian, nhưng đó là một chiến lược cờ vua có lẽ đòi hỏi quá nhiều sự hy sinh nhẫn tâm của các quân cờ nhỏ hơn trên bàn cờ.
Bối rối trước sự phản đối của Hoa Kỳ đối với sự can thiệp của đất nước ông vào Angola, một nhà phân tích Liên Xô đã nhận xét: “Người Mỹ các bạn đã cố gắng bán việc hòa hoãn như chất tẩy rửa và tuyên bố rằng nó sẽ làm mọi thứ mà một chất tẩy rửa có thể làm”.
Cuối cùng, giới phê bình đã thành công trong việc đầu độc thuật ngữ này. Vào tháng 3 năm 1976, Ford đã cấm sử dụng nó trong chiến dịch tái tranh cử của ông. Nhưng không bao giờ có một sự thay thế khả thi.
Khi được hỏi liệu ông có một thuật ngữ thay thế không, Kissinger đưa ra một câu trả lời dí dỏm đặc trưng. Ông nói: “Tôi đã nhảy múa xung quanh mình để tìm một người, giảm căng thẳng, giảm căng thẳng. Chúng ta cũng có thể kết thúc với từ cũ một lần nữa”.
Hiện nay, chính quyền Biden đã giải quyết vấn đề bằng cách dùng từ riêng của mình: “giảm rủi ro”. Nó không phải là tiếng Pháp, nhưng nó hầu như cũng không phải là tiếng Anh. Mặc dù khởi điểm của cuộc chiến tranh lạnh này là khác biệt, vì sự tương thuộc về kinh tế ngày nay lớn hơn nhiều giữa các siêu cường, về cơ bản, chiến lược tối ưu có thể trở nên giống như trước đây.
Nếu sự hòa hoãn mới bị chỉ trích, thì giới phê bình không nên giải thích sự sai lầm của nó theo cách mà sự hòa hoãn của Kissinger thường bị xuyên tạc bởi nhiều kẻ thù của ông – kẻo họ thấy mình giống như Reagan trước đây, về cơ bản cũng làm như vậy khi họ ngồi ở Phòng Phân tích Tình hình.
_______
Tác giả: Naill Ferguson là thành viên nghiên cứu cấp cao của Học viện Hoover, Đại học Standford. Ông là tác giả cuốn sách Kissinger: 1923–1968; The Idealist.
“Tôi tin vào hòa bình mà ông Ford nói, nhiều như bất kỳ người nào nói. Nhưng ở những nơi như Angola, Campuchia và Việt Nam, sự bình an mà họ đã biết là sự bình an của nấm mồ. Tất cả những gì tôi có thể thấy là những gì mà các quốc gia khác trên thế giới nhìn thấy: Sự sụp đổ của ý chí Mỹ và sự rút lui của sức mạnh Mỹ”.
Thua trong trận, nhưng thắng trong cuộc chiến
Giới bảo thủ phản đối Kissinger vì những lý do vượt ra ngoài sự khoan dung của ông đối với sự ngang bằng về hạt nhân của Liên Xô. Phe diều hâu cũng lập luận rằng, Kissinger đã quá sẵn sàng để chấp nhận điểm bất công của hệ thống Xô Viết – mặt trái lời phàn nàn của những người theo chủ thuyết tự do, rằng ông đã quá sẵn sàng để dung thứ cho đặc điểm bất công của các chế độ độc tài theo cánh hữu.
Vấn đề này đã trở nên nổi bật về hạn chế của Liên Xô đối với việc di cư của người Do Thái và đối xử với những người bất đồng chính kiến của Liên Xô, chẳng hạn như tác giả Aleksandr Solzhenitsyn. Khi Solzhenitsyn đến Hoa Kỳ trong thập niên 1970 (sau khi bị trục xuất khỏi Liên Xô), Kissinger đã chọc giận giới bảo thủ bằng cách khuyên Tổng thống Gerald Ford không nên gặp ông [Solzhenitsyn].
Solzhenitsyn trở thành một trong những đối thủ khó chịu nhất của Kissinger. Tiểu thuyết gia này nói hồi năm 1975: “Một nền hòa bình bao dung cho bất kỳ hình thức bạo lực tàn bạo nào và bất kỳ liều lượng lớn nào của nó chống lại hàng triệu người, nó không có sự cao cả về đạo đức ngay cả trong thời đại hạt nhân”. Ông và giới phê bình bảo thủ khác lập luận rằng, thông qua việc hòa hoãn, Kissinger chỉ đơn thuần cho phép mở rộng chủ nghĩa cộng sản Liên Xô. Sự sụp đổ của Sài Gòn năm 1975, Campuchia rơi vào địa ngục của chế độ độc tài cộng sản Pol Pot, sự can thiệp của Cuba – Liên Xô vào cuộc xung đột tại Angola trong thời hậu thuộc địa – những thất bại này và những thất bại địa chính trị khác, dường như minh chứng cho tuyên bố của họ.
Reagan tuyên bố hồi năm 1976, khi ông vận động chống lại Ford trong cuộc bầu cử sơ bộ tổng thống của đảng Cộng hòa: “Tôi tin vào hòa bình mà ông Ford nói, nhiều như bất kỳ người nào nói. Nhưng ở những nơi như Angola, Campuchia và Việt Nam, sự bình an mà họ đã biết là sự bình an của nấm mồ. Tất cả những gì tôi có thể thấy là những gì mà các quốc gia khác trên thế giới nhìn thấy: Sự sụp đổ của ý chí Mỹ và sự rút lui của sức mạnh Mỹ”.
Không giống như cáo buộc về tình trạng ưu thế trong hạt nhân của Liên Xô, Kissinger không bao giờ phủ nhận rằng, chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô ở thế giới thứ ba đặt ra một mối đe dọa đối với sự hòa hoãn và sức mạnh của Mỹ. Ông nói trong một bài phát biểu hồi tháng 11-1975: “Thời gian không còn nhiều; việc tiếp tục cho một chính sách can thiệp chắc chắn phải đe dọa các mối quan hệ khác. Chúng ta sẽ linh hoạt và hợp tác trong việc giải quyết các xung đột, . . . Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ cho phép việc hòa hoãn biến thành một sự che đậy lợi thế đơn phương”.
Tuy nhiên, thực tế là trong trường hợp không có được sự ủng hộ của Quốc hội – dù là để bảo vệ cho miền Nam Việt Nam hay Angola – chính quyền Ford không có lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận cho sự bành trướng quân sự của Liên Xô, hoặc ít nhất là chiến thắng của các lực lượng ủy nhiệm của Liên Xô.
Kissinger nói hồi tháng 12 năm 1975: “Các tranh chấp trong nước của chúng ta đang tước đi khả năng của chúng ta cả trong việc cung cấp các động lực cho sự ôn hòa [của Liên Xô] như trong các hạn chế đối với đạo luật thương mại, cũng như khả năng chống lại các hành động quân sự của Liên Xô như ở Angola”.
Tất nhiên, có thể tranh luận ở mức độ nào mà Kissinger hợp lý khi tuyên bố rằng, với sự hỗ trợ liên tục của Quốc hội trong việc viện trợ của Hoa Kỳ, miền Nam Việt Nam và ngay cả Angola có thể đã thoát ra khỏi được sự kiểm soát của Cộng sản.
Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, khi Kissinger quan tâm đến việc ngăn chặn sự lan rộng của các hệ thống Xô Viết. Ông nói hồi năm 1974: “Sự cần thiết cho việc hoà hoãn như chúng ta quan niệm về nó không phản ánh sự tán thành về cấu trúc trong nội địa của Liên Xô. Hoa Kỳ luôn nhìn với sự cảm thông, với sự đánh giá cao, về việc thể hiện tự do tư tưởng trong tất cả các xã hội”. Nếu Kissinger từ chối ủng hộ Solzhenitsyn, đó không phải là vì Kissinger khoan dung (ít có thiện cảm bí mật hơn) với mô hình Xô Viết. Đó là bởi vì ông tin rằng Washington có thể đạt được nhiều hơn bằng cách duy trì mối quan hệ đang vận hành với Moscow.
Và trong việc này, Kissinger chắc chắn đã có lý. Bằng cách giảm bớt các căng thẳng cả ở châu Âu và các nơi khác trên thế giới, việc hòa hoãn đã giúp cải thiện cuộc sống của ít nhất một số người dưới sự cai trị của Cộng sản. Việc di cư của người Do Thái ra khỏi Liên Xô tăng lên trong giai đoạn khi Kissinger đặc trách việc hòa hoãn.
Sau khi Thượng nghị sĩ Dân chủ Henry “Scoop” Jackson của Washington và giới diều hâu khác trong Quốc hội tìm cách công khai gây áp lực buộc Moscow thả thêm người Do Thái qua việc duy trì thỏa thuận thương mại Mỹ – Xô Viết, việc di cư đã giảm xuống.
Giới phê bình bảo thủ của Kissinger đã kịch liệt phản đối việc Hoa Kỳ ký các Hiệp định Helsinki vào mùa hè năm 1975, họ lập luận rằng, chúng thể hiện cho việc phê chuẩn các cuộc chinh phục của Liên Xô ở châu Âu trong thời hậu chiến.
Nhưng bằng cách nhận cam kết của các nhà lãnh đạo Liên Xô về việc tôn trọng một số quyền dân sự cơ bản của công dân của họ như một phần của các hiệp định – một cam kết mà họ không có ý định tôn trọng – thỏa thuận cuối cùng đã làm xói mòn tính hợp pháp của việc cai trị của Liên Xô ở Đông Âu.
Không có sự thật nào trong số này có thể cứu vãn sự nghiệp của Kissinger trong chính phủ. Ngay sau khi Ford ra đi, Ngoại trưởng của ông cũng vậy, không bao giờ trở lại nhiệm sở quan yếu. Nhưng khái niệm chính về chiến lược của Kissinger tiếp tục phát huy thành quả trong nhiều năm sau, bao gồm cả các chỉ trích chính về hòa hoãn: Carter và Reagan.
Carter đã chỉ trích Nixon, Ford và Kissinger vì không đủ lòng thương cảm trong chủ thuyết hiện thực của họ, nhưng Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh quốc gia của chính ông [Carter], đã thuyết phục ông nên cứng rắn với Moscow. Đến cuối năm 1979, Carter buộc phải cảnh báo Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan, nếu không sẽ phải đối mặt với “hậu quả nghiêm trọng”.
Về phần mình, Reagan cuối cùng đã chấp nhận việc hòa hoãn như là một chính sách của riêng mình trong toàn diện ngoại trừ tên gọi – và thực sự đã vượt xa những gì mà Kissinger đã làm để giảm bớt căng thẳng. Trong khi theo đuổi việc xít lại gần nhau, Reagan đã đồng ý giảm kho vũ khí hạt nhân của Washington xuống một lượng lớn hơn nhiều so với những gì Kissinger nghĩ đã là thận trọng. “Kỷ nguyên Kissinger” không kết thúc khi ông rời chính phủ hồi tháng Giêng năm 1977.
Mặc dù đã bị lãng quên, sự thật này được công nhận bởi những người đương thời nhiều tinh ý hơn của Kissinger. Chẳng hạn như nhà bình luận bảo thủ William Safire lưu ý rằng, chính quyền Reagan đã nhanh chóng bị thâm nhập bởi “những người thuộc phe Kissinger” và “những người theo tinh thần hòa hoãn”, ngay cả khi bản thân Kissinger bị ngăn chặn.
Thật ra, chính quyền Reagan đã trở nên quá thích ứng đến mức bây giờ đến lượt Kissinger lại cáo buộc Reagan là quá mềm mỏng, chẳng hạn như trong phản ứng của Reagan trước việc áp đặt tình trạng thiết quân luật ở Ba Lan. Kissinger phản đối các kế hoạch xây dựng một đường ống dẫn khí đốt tự nhiên từ Liên Xô đến Tây Âu với lý donó , sẽ khiến phương Tây “trở thành đối tượng bị thao túng chính trị nhiều hơn so với hiện nay”. (Về sau được phát hiện lời cảnh báo này là tiên đoán).
Năm 1987, Nixon và Kissinger đã lên tiếng trong trang xã luận của tờ Los Angeles Times để cảnh báo rằng, việc Reagan sẵn sàng thực hiện một thỏa thuận với Mikhail Gorbachev, nhà lãnh đạo Liên Xô, đã đi quá xa, khi cả hai quốc gia sẽ loại bỏ tất cả vũ khí hạt nhân tầm trung của họ. Đối với lời chỉ trích như vậy, Ngoại trưởng George Shultz đã đưa ra một câu trả lời, tiết lộ: “Bây giờ chúng ta đã vượt quá sự hòa hoãn”.
Lầu Năm Góc đề xuất bắn khoảng 200 vũ khí hạt nhân vào các cơ sở quân sự của Liên Xô gần biên giới Iran. Kissinger hét lên: ‘Các anh mất trí rồi sao? Đây là một lựa chọn hạn chế sao?’
Nhiều lần mấy nhân viên an ninh trò chuyện thân mật với mình, cứ bảo: Xã hội nào chẳng có cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu, chú cứ nhìn vào mặt tiêu cực rồi phê phán nhiều không có lợi…
“Một người thầy tốt như một ngọn nến – cháy hết mình để soi đường cho những người khác” – Mustafa Kemal Atatürk (1881 – 1938)
Dưới thời vua Trần Thái Tông (1226-1258), sau chiến thắng quân Nguyên -Mông lần thứ nhất, nước ta vẫn luôn được đặt trong tình trạng chuẩn bị cho chiến tranh. Sống cạnh một đế quốc hùng mạnh, đã từng xâm lấn và san bằng một nửa thế giới đâu có dễ dàng.
Có lẽ điều ấy đã thúc đẩy vua Trần Thái Tông giao trọng trách viết sử cho Lê Văn Hưu, gia sư của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải. Với cái văn hoá của người Việt Nam “người thầy là một người dẫn đường” Lê Văn Hưu đã hoàn tất bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư gồm 30 quyển vào mùa xuân tháng giêng năm 1272.
Tiếc rằng bộ sách đã không còn tồn tại để ta có thể đọc lại tấm lòng của một người viết sử đã sống qua hai cuộc chiến gian khổ chống quân Nguyên – Mông. Tuy nhiên, nội dung và tư tưởng của người thầy giáo ấy vẫn bàng bạc trong những bộ sử được soạn lại sau này từ các sử gia đời sau như Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ, …
Là con dân của một đất nước chiến tranh triền miên, ta tiếp xúc với lịch sử khi ta hoang mang. Sử giúp ta đứng vững khi soi bóng mình trên dòng sông Bặch Đằng. Biết bao nhiêu nỗ lực, biết bao nhiêu hy sinh; sử cho ta hoa trái, cho ta lý do để tồn tại, để tiếp nối.
Không có gì đẹp bằng, nhìn sâu vào lịch sử ta thấy mình hiện diện ở đó. Ta thấy mình quỳ nơi bãi sậy lau, ta thấy mình đang đóng cọc ở dòng sông Bạch Đằng, ta thấy mình là sứ thần Giang Văn Minh hiên ngang đối đáp với vua nhà Hán rồi bình thản trở về trên cỗ quan tài khi đã hoàn tất sứ mệnh.
Không có lịch sử, chúng ta không còn là ta, có thể chúng ta đang mang một họ khác: Chang hay Cheng, hay gì gì đó… Sử có mặt cho ta, ta có mặt cho sử. Và hôm nay trên trang viết này, ta lại gặp ta, một Lê Văn Hưu tóc để chỏm, đi tung tăng trên con đường quê, yêu đất nước mình bằng tất cả trái tim.
***
Thuở ấy, ở đầu làng Thần Hậu thuộc tỉnh Thanh Hoá có một gian nhà tranh gọi là quán học. Các chức sắc trong làng đã cùng nhau dựng nên quán học để cho những người biết chữ nghĩa đến đây giảng thơ, bình văn. Đây cũng là nơi chốn để cho các con em trong làng đến học hành, dùi mài kinh sử.
Ngày ấy, Lê Văn Hưu tuổi tuy còn nhỏ nhưng cũng thường mon men ra đấy để xem lóm các anh trong làng học tập. Rồi một hôm, thầy đồ dạy học chợt nhận ra có điều kỳ lạ. Rất nhiều lần thầy nhìn thấy cậu bé hay chơi quẩn quanh nơi quán học lại thường hay nhắc bài cho các anh.
Để thử tài, thầy bèn gọi cậu vào, viết mấy chữ Nho lên một tấm giấy rồi giảng giải cho cậu bé. Sau đó, thầy viết sang một tờ giấy khác, thì ngay lập tức cậu lặp lại không sai một chữ nào. Hỏi ra mới biết, cậu bé đang sống cùng người mẹ trong làng, tên là Lê Văn Hưu, mồ côi cha khi còn trong bụng mẹ.
Lê Văn Hưu có một giai thoại vui với bác thợ lò rèn, cho ta thấy sự nặng lòng về giáo dục, cái tâm sính chữ nghĩa của người đời xưa. Chuyện như sau: Năm Lê Văn Hưu lên 11 tuổi, trên đường đi học từ Kẻ Rị sang Phúc Triền, cậu thường đi ngang qua một lò rèn dựng ngay bên đường. Một hôm, trông thấy những chiếc dùi của bác thợ rèn treo trong quán, cậu thích lắm. Cậu cứ tần ngần, ngắm nghía, ước ao có một cái để đóng vở học. Thấy cậu học trò khuôn mặt sáng sủa, khôi ngô, bác thợ rèn bèn gạn hỏi:
– Này, cậu bé muốn gì thế?
– Thưa ông, cháu muốn có một chiếc dùi để đóng vở.
Bác thợ rèn bèn ra một câu đối, bảo cậu, nếu đối được bác sẽ biếu không một cái dùi. Câu đối như sau: “Than trong lò, lửa trong lò, sắt trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi vở”.
Ngẫm nghĩ một lát, Lê Văn Hưu đối lại: “Giấy trong túi, bút trong túi, mực trong túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên”.
Thế là, không những cậu bé được tặng chiếc dùi vở đẹp nhất, cậu còn được bác thợ rèn tặng thêm những 3 quan tiền. Năm lên mười bảy tuổi, Lê Văn Hưu đỗ Bảng Nhãn. Ông được nhà vua giữ lại chốn cung đình để dạy dỗ hoàng tử thứ ba là Trần Quang Khải. Người sau này dược sắc phong chức Thượng tướng Thái sư, tài cao học rộng, lập nhiều công trạng trong cuộc chiến chống quân Nguyên – Mông.
Nếu William Butler Yeats, thi sĩ người Ireland cho rằng,“dạy học không phải là làm đầy một thùng nước mà là thắp sáng một ngọn lửa” thì Lê Văn Hưu thực sự là người đã thổi bùng lên ngọn lửa ấy. Sống giữa hai cuộc chiến tranh, đất nước phải đối mặt với một đối thủ mạnh nhất thế giới, Lê Văn Hưu đã dùng những dữ kiện thật từ những bài học lịch sử để khơi dậy lòng tự hào dân tộc: Những chiến công của Ngô Quyền khi đánh tan hàng trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, hoặc chiến công của Lê Đại Hành trong những trận đánh Tống, bình Chiêm.
Lê Văn Hưu đã khẳng định được năng lực của quân dân Đại Việt và khơi dậy khí phách ở mỗi người dân triều Trần. Có lẽ, chính ngọn lửa từ người thầy giáo ấy đã giúp dân ta đánh bại được một đội quân bách chiến bách thắng không chỉ một mà đến cả ba lần.
Tư tưởng của Lê Văn Hưu cho đến tận giờ vẫn còn nguyên vẹn giá trị. Bàn về điềm lành, ông cho rằng “phàm người xưa gọi là điềm lành là nói việc dùng được người hiền và được mùa, ngoài ra không có cái gì gọi là điềm lành cả”. Hay: “của cải không phải là trời mưa xuống, sức không phải là trời làm thay, há không phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm việc phúc được chăng?”.
Nay, chính quyền nước ta thiếu hẳn những điều căn bản cốt lõi để trị nước. Người hiền không được dùng đã gây ra tình trạng tham ô nhũng nhiễu đến mức báo động. Ở các nước tân tiến, chuyện tham ô chỉ nằm trong mức độ kiểm soát, ở nước ta đã biến thành quốc nạn.
Đọc về Lê Văn Hưu sẽ thấy rõ, chúng ta sinh ra không để sống một mình mà để sống với nhau và vì nhau. Đặt tay trên trang sử, tôi tự hỏi chúng ta là ai, chúng ta là gì trong dòng chảy của đất nước mình? Chúng ta có sống với nhiệt huyết và tình yêu cho đất nước này như chúng ta đã từng không? Những trang sử ngày nào như những tờ lịch rơi trong gió, và chúng ta tựa như bao lớp học trò rồi cũng ra đi, khi bóng dáng người thầy vẫn còn đó nơi cửa lớp. Bụi thời gian đã xoá nhoà nước mắt, xoá nhoà những vinh quang cùng bóng dáng của người thầy năm nào.
Lê Văn Hưu làm quan tới chức Binh bộ Thượng thư, được sắc phong Hàn Lâm viện Thị độc, kiêm Chưởng sử, tước Nhân Uyên hầu, hiệu Tu Hi. Ông mất ngày 23 tháng 3 năm Nhâm Tuất – 1322 và được táng ở cánh đồng xứ Mả Giòm, tỉnh Thanh Hoá.
Có điều trước ngày mất, vị Binh bộ Thượng thư ấy đã cởi áo quan về làm thầy đồ nơi Kẻ Rị. Ba quan tiền tặng và chiếc dùi đóng vở của bác thợ rèn ngày nào đã nuôi lớn tâm hồn cậu bé Lê Văn Hưu. Chúng ta sống với nhau và vì nhau. Để cậu bé ngày nào mon men nơi quán học, nay lại về làm thầy đồ nơi làng quê để dạy những đứa trẻ chân đất ba chỏm.
Lịch sử không ghi rõ, nhưng ngoài Trạng nguyên Bạch Liên, tôi nghĩ còn có những văn nhân, những tể tướng có lẽ đã đi ra từ cái chiếu học ấy, nơi thầy đồ Lê Văn Hưu đã trải qua những năm tháng cuối đời ở quê nhà.
Người dân Ðức, cũng như nhiều người Âu châu vẫn chưa thực sự hiểu những gì đang xảy ra trong hai năm qua. Phải chi các nhà lãnh đạo giải thích với họ rõ ràng hơn.
Cứ lần nào nhắc đến chuyện thực dân đô hộ là anh em thiện lành, bò đỏ nhảy dựng lên chửi phản động, tự hào dân tộc dâng lên cuồn cuộn. Đọc thấy buồn cười. Đấy là do anh em không có góc nhìn đủ rộng mà thôi.
Hôm qua, ngày 26 tháng 2 năm 2024, một phụ nữ gốc Việt là Lê Ngọc Mai Nhi, 27 tuổi, đã bị tòa kết án 10 ngày tù giam vì đã nhận tội tham gia vào cuộc bạo loạn tại tòa Quốc Hội Hoa Kỳ vào tháng 1 năm 2021.
Hai năm trước, vào ngày 24-2-2022, Nga đã công khai vi phạm luật pháp quốc tế khi dùng quân đội để tấn công vào lãnh thổ Ukraine. Trước sự ngạc nhiên của chính giới và công luận, Ukraine đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ đất nước. Cuộc chiến tàn khốc đã gây bao tổn hại vật chất, cướp đi bao sinh mạng của hai phía. Cuộc chiến này đang bước vào năm thứ ba, nhưng vẫn chưa có triển vọng kết thúc. Đâu là hiện trạng của cuộc chiến và triển vọng tái lập hoà bình?
Hiện trạng
Nhân ngày kỷ niệm lần thứ hai của cuộc chiến, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky cho biết rằng đất nước ông còn phải đối mặt với nhiều thách thức quan trọng, nhất là tình hình miền Đông trở nên vô cùng khó khăn, nhưng nghiêm trọng nhất là càng phụ thuộc vào quân viện của các nước phương Tây.
Quân đội Nga bắt đầu tấn công Ukraine ngày 24-2-2022 từ các phía bắc, đông và nam. Tuy nhiên, kế hoạch chiếm thủ đô Kiev trong vòng vài ngày đã thất bại vì các đơn vị Ukraine đã đẩy lùi được quân Nga, rồi sau đó đã tái chiếm được gần một nửa lãnh thổ ở phía đông. Hiện nay, Nga còn đang chiếm 18% lãnh thổ Ukraine.
Kể từ đầu năm 2023, diễn biến chiến trường không thay đổi ngoạn mục cho Nga, mà chỉ gây tiếng vang khi Nga chiếm được Bakhmut và gần đây nhất là Avdiivka, nhưng phải trả bằng cái giá là tổn thất nặng nề.
Trong khi các phương tiện truyền thông Nga hết lòng ca ngợi việc đánh chiếm Avdiivka, xem đây là một chiến thắng quan trọng về mặt chiến lược, thì các chuyên gia độc lập nghi ngờ thành quả này, vì các diễn biến của tiền tuyến chứng tỏ ngược lại. Quân đội Nga khó có thể tái chiếm các thành phố quan trọng ở Donbass, Kramatorsk và Sloviansk đang do Ukraine kiểm soát. Trong dịp kỷ niệm hai năm ngày tấn công, một lần nữa, Nga tuyên bố, thành phố cảng Odessa và thủ đô Kiev sẽ là mục tiêu chiếm đóng ưu tiên.
Đối với Ukraine, Avdiivka, một thành phố ở phía đông với dân số 30.000, sụp đổ là một thất bại đáng kể mà lý do chính là việc triệt thoái quá muộn và trong hỗn loạn. Quân đội Nga hiện đang trên đường tiến xa hơn về phía tây và nhắm vào các thị trấn gần nhất. Trong khi đó, Ukraine đã đẩy hải quân Nga lùi xa ra khỏi Hắc Hải và liên tục đe doạ Crimea.
Giao tranh còn đang diễn ra ở phía đông nam và nam Ukraine. Đầu cầu Ukraine tại Kynky đang nhiều chịu áp lực nặng nề, nhưng quân đội Ukraine phủ nhận việc chuẩn bị rút quân. Kynky nằm trên bờ phía nam của sông Dnepr.
Theo quan điểm chiến lược của Ukraine, các khu vực ở hướng Crimea là mục tiêu quan trọng cần tập trung, vì đó là nơi mà quân đội Nga nhận được các nguồn cung ứng quân cụ. Chỉ khi nào Ukraine tái chiếm khu vực này, thì Nga sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng và nhờ thế, may ra Ukraine sẽ có vị thế đàm phán tốt hơn. Tuy nhiên, trước tình hình hiện nay, Ukraine không có đủ điều kiện quân cụ và binh sĩ để tổng tiến công theo như dự kiến.
Tổn thất
Sau hai năm chiến tranh, cả hai bên đều không đưa ra con số nào đáng tin cậy về tình trạng tổn thất. Ước tính chung cho rằng, gần 200.000 binh sĩ của hai bên bị thiệt mạng. Hồi tháng 8-2023, New York Times đưa tin, chính phủ Mỹ ước tính, có hơn 100.000 binh sĩ Nga và khoảng 70.000 người Ukraine tử vong.
Hai cơ quan truyền thông độc lập của Nga là Medusa và Mediazona cho rằng khoảng 75.000 binh sĩ Nga hy sinh. Ngược lại, dựa trên con số đăng ký tử vong của các gia đình binh sĩ, sở thống kê Nga ước tính, khoảng từ 66.000 cho đến 88.000 người chết và 130.000 bị thương. Nguồn tin của cơ quan Projekt UALosses nhận định, có khoảng 47.000 binh sĩ Ukraine thương vong. Không ai có đủ thẩm quyền và cơ sở nào để kiểm chứng các con số này.
Những thách thức cho Ukraine
Trước những tổn thất nặng nề của Ukraine, gần đây, các nước phương Tây cam kết là sẽ tiếp tục viện trợ để giúp ổn định tình hình. Bằng chứng là Tổng thống Zelensky đã ký kết các thỏa thuận an ninh song phương với Đức và Pháp hồi tháng 2. Tổng thống Mỹ Joe Biden cũng cam kết viện trợ thêm cho nước này.
Theo dự kiến, khoảng thời gian trong sáu tháng tới sẽ có các quyết định, liệu xem Ukraine có đủ khả năng để xoay chuyển tiến trình của cuộc chiến theo hướng tốt hơn hay không. Các dấu hiệu chung cho thấy, Ukraine lâm cảnh bi quan.
Những gì được cung cấp cho Ukraine không thể đáp ứng được nhu cầu chiến trường. Giải pháp khẩn thiết cho Ukraine là cần thêm nhiều vũ khí và binh sĩ. Mặc dù đang cố gắng tăng cường sản xuất vũ khí và đạn dược, nhưng trong tương lai gần, ít nhất là đến cuối năm 2025, Ukraine sẽ còn phụ thuộc vào các quốc gia phương Tây trong vấn đề quân viện, nhất là các hệ thống thiết bị nhằm tấn công tầm xa, thiết giáp và máy bay không người lái.
Do đó, Tổng thống Zelensky đang khẩn thiết kêu gọi các nước tiếp tục ủng hộ, và nguy cơ trước mắt là quân viện của Mỹ khó khả thi vì gặp sự chống đối của đảng Cộng hòa trong Quốc hội Mỹ, hoặc Donald Trump sẽ có thể cản trở sau tháng 11 năm nay nếu ông ta tái đắc cử.
Liệu châu Âu có thể thay thế Mỹ trong vai trò quân viện hay không, đó là một vấn đề đang được chính giới quan tâm. Về mặt tài chính, châu Âu có thể đảm nhận, nhưng về mặt chính trị, có sẵn sàng để lãnh trách nhiệm viện trợ cho Ukraine không? Vấn đề này còn nhiều tranh cãi nên thật khó lường đoán. Tuy nhiên, cũng có nhiều dấu hiệu cho thấy, ý thức về trách nhiệm này trong các nước Liên Âu đang tăng lên.
Mặt khác, thực tế là nhiều binh sĩ thiệt mạng hoặc bị thương, nên tình trạng thiếu binh sĩ là một nhu cầu cấp bách. Thách thức này nan giải và vẫn còn nằm trong tay chính phủ Ukraine vì việc tuyển dụng tân binh cho chiến trường không tiến triển. Theo dự kiến, quân đội Ukraine cần thêm khoảng 500.000 quân, nhưng cho đến nay, luật động viên vẫn chưa được thông qua; dù nếu có thông qua, con số này cũng khó đạt được.
Một nguyên nhân của các tổn thất là do thiếu trang thiết bị quốc phòng. Ukraine không còn đủ đạn dược tối thiểu hàng ngày để có thể tự vệ hiệu quả hơn. Nếu tình trạng này còn tiếp tục kéo dài, các vùng lãnh thổ đã tái chiếm có thể gặp nguy cơ thất thủ.
Ukraine cần một cuộc huy động toàn diện, hiệu quả và minh bạch, nhưng vấn đề này không chỉ thuần tuý về mặt quân sự, mà còn là tinh thần nhạy cảm và đoàn kết của toàn thể quân dân về mặt chính trị.
Do việc bất đồng quan điểm, vào đầu tháng 2, Tổng thống Zelensky đã thay thế vị Tổng tư lệnh Valerii Zaluzhnyi bằng Tướng Oleksandr Syrskyi, vị chỉ huy của lực lượng bộ binh trước đây. Zelensky và Zaluzhny đã tranh cãi về các biện pháp quân sự khả thi. Qua tranh cãi, người ta cũng nhận ra rằng, Tổng thống cũng coi vị tư lệnh quân đội này là một đối thủ có nhiều tiềm năng cạnh tranh về mặt chính trị.
Tuy nhiên, việc sa thải Zaluzhnyi cũng gây ra nhiều chỉ trích bất lợi cho Zelensky, người đang mất dần sự ủng hộ trong công luận. Dân chúng đang bắt đầu có cảm giác mệt mỏi. Cảm giác chung là, có quá nhiều trì trệ ở phía nam và những khó khăn ở khu vực Donetsk, cả hai gây thêm bi quan cho giới đối lập và dư luận, cho dù tinh thần chiến đấu của Ukraine vẫn chưa bị dập tắt.
Những thách thức cho Nga
Nhu cầu to lớn về trang bị vũ khí và tăng cường quân số để tiếp tục công cuộc chiến đấu sang năm thứ ba cũng là một thách thức đối với Moscow.
Khả năng chiến đấu của Nga không bị suy giảm vì với sự giúp đỡ của Iran và Bắc Triều Tiên; nhờ thế, Moscow có thể sẽ lấp đầy khoảng trống về đạn dược và thiết bị quân sự. Ngành công nghiệp của Nga đã chuyển đổi sang nền kinh tế chiến tranh và đang sản xuất càng nhiều nguồn cung ứng cho chiến trường.
Thuận lợi nhất cho Nga là có ưu thế về pháo binh, tỷ lệ áp đảo là 10 trên 1. So với Hoa Kỳ, phí tổn sản xuất quân cụ ở Nga tương đối rẻ hơn. Vấn đề lớn nhất cho tương lai là quân đội Nga phải sẵn sàng chấp nhận thêm những tổn thất nặng nề hơn để cuộc chiến kéo dài hơn.
Từ một năm rưỡi trước, Nga nhận thấy rằng cần phải huy động thêm 300.000 binh sĩ, việc tuyển mộ đặt ra trên cơ sở tự nguyện. Mặc dù theo tiêu chuẩn của Nga, mức lương tương đối khá hậu hĩ, tương đương 2.000 euro mỗi tháng cho một tân binh, nhưng cho đến nay, số lượng tình nguyện viên không đủ để bù đắp cho những khiếm khuyết. Để trấn an tâm lý dân chúng, Tổng thống Putin tỏ ra dè đặt trong việc đề ra một cuộc tổng động viên cưỡng bức.
Các cuộc thăm dò gần đây cho thấy, dân chúng tỏ ra ít ủng hộ cuộc chiến hơn. Bằng chứng là, khoảng 70.000 người thuộc các gia đình binh sĩ Nga đã lên tiếng chỉ trích cuộc chiến, số người tham gia ngày càng tăng. Các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh đang bị chính quyền Nga truy tố gay gắt. Gần đây nhất, việc bày tỏ thương tiếc đối với lãnh đạo đối lập Alexander Navalny, người phản đối cuộc chiến Ukraine, là một bằng chứng.
Một tiếng nói khác chống lại cuộc chiến đã bị gạt ra ngoài lề chính trị: Boris Nadezhdin, chính trị gia đối lập, sẽ không được phép tham gia cuộc bầu cử tổng thống vào tháng Ba.
Vladimir Putin thắng cử là điều chắc chắn và ông ta đang chờ đợi ngày trở lại Nhà Trắng của Donald Trump vào tháng 11 năm nay. Putin hy vọng sẽ nối lại tình thân thiết với Donald Trump và cả hai sẽ tạo ra nhiều chuyển biến khởi sắc để sớm kết thúc chiến cuộc.
Vai trò của Trump
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng rằng, sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ngoài ra, ông ta còn khuyến khích cho Nga tùy tiện hành động, dù không chính thức hỗ trợ Nga trong việc mở rộng xâm lăng các lãnh thổ khác.
Nhưng sau khi trở lại Nhà Trắng, Donald Trump sẽ đóng vai trò gì trong tương lai cuộc chiến Ukraine, đó là vấn đề khó lường đoán. Trump sẽ nhận làm trung gian hoà giải như các nước khác hay có quyết định cắt đứt mọi quân viện như Putin đang hy vọng? Putin và Trump sẽ có quyết định nào cho tương lai của Ukraine, hiện nay chưa có cơ sở thực tế để nhận định.
Trước mắt, để kiếm phiếu trong chiến dịch tranh cử, Trump và nhóm cộng sự của ông ta đưa ra nhiều mục tiêu thuộc về chính trị quốc nội, thí dụ như sa thải những quan chức tham nhũng trong các cơ quan an ninh và tình báo, cải cách quy chế công vụ, cải cách chính sách nhập cư, trục xuất người nhập cư bất hợp pháp, tiếp tục thương chiến với Trung Quốc bằng các biện pháp áp thuế thật nặng hoặc cấm nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu như điện tử, thép và dược phẩm.
Do đó, trong khuôn khổ này, Trump sẽ đánh giá lại sứ mệnh của khối NATO và tương lai Ukraine với những mục tiêu đúng đắn mới nhất, nếu ông ta muốn thắng cử. Quan trọng không kém là Trump còn phải chờ đợi nhiều bất trắc khác từ các vụ kiện tụng.
1. Đứng đầu lực lượng công an thành phố lớn, thành phố cảng Hải Phòng, đại tá Đỗ Hữu Ca đã mang sức mạnh bạo lực nhà nước, cảnh sát vũ trang với đầy đủ súng đạn hiện đại, dàn thế trận, rải quân trên bộ, rải quân đường biển, vây chặt bốn hướng ngôi nhà dưới cả cấp bốn, nhỏ bé, mong manh, lẻ loi, chơ vơ trên bãi biển của gia đình người nông dân quả cảm khai hoang mở đất ở Cống Rộc, Tiên Lãng, Hải Phòng.
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công.
Tình cờ tôi đọc status của một Facebooker viết sơ sơ về bài: “Một sinh viên ‘ngoại’ năm 3 ngành điện ĐH Bách khoa Hà Nội đang rất ‘hot’ sau vai diễn nhỏ trong phim ‘Đào, phở và piano’ và bức tranh “chế” của cư dân mạng”.
Tôi chưa đến phi trường Nội Bài nên không biết ra sao, nhưng tình cờ hôm trước Tết, một cô em mà tôi quen, gốc Bắc, về thăm nhà, mang tới tặng tôi ít quà quê. Nghe cô kể chuyện hải quan Nội Bài, thấy câu chuyện cũng vui vui.
Tết nhất, đầu năm, mọi người hay cầu cúng khấn vái, ở đây chỉ bàn về đám đông thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu (bao gồm cả thánh thần, chó mèo, cây cối, đại khái bạ gì cũng thờ cúng, cắm hương…) và thờ Phật. Các tôn giáo, niềm tin khác không bàn ở đây. Những ai không tin có ma, không tin vào bất cứ tôn giáo nào, không tin vào việc có thế giới song song, cõi âm thì có thể dừng đọc ở đây, Tây gọi là next!