Kissinger và ý nghĩa đích thực của tình trạng hòa hoãn (Kỳ cuối)

Foreign Affairs

Tác giả: Niall Ferguson

Đỗ Kim Thêm dịch

Số tháng 3 và tháng 4-2024

Tiếp theo kỳ 1kỳ 2kỳ 3

Giảm căng thẳng 2.0

Xét đến những rắc rối mà Hoa Kỳ đang phải đối mặt hồi đầu năm 1969, tình trạng hòa hoãn như Kissinger quan niệm về nó là hợp lý. Không thể đánh bại Bắc Việt Nam, bị ảnh hưởng bởi tình trạng vừa lạm phát vừa đình trệ, và phân hoá sâu đậm về mọi thứ, từ quan hệ chủng tộc đến nữ quyền, Washington không thể chơi trò cứng rắn với Moscow.

Thật vậy, nền kinh tế Mỹ trong thập niên 1970 không có điều kiện để duy trì kinh phí quốc phòng tăng trong tổng thể. (Giảm căng thẳng cũng có lý do về tài chính, mặc dù Kissinger hiếm khi đề cập đến vấn đề này).

Việc hoà hoãn không có nghĩa là – như giới chỉ trích Kissinger cáo buộc – chấp nhận, tin tưởng hay xoa dịu Liên Xô. Điều đó cũng không có nghĩa là cho phép họ đạt được ưu thế về hạt nhân, kiểm soát thường trực Đông Âu hoặc là một đế chế ở thế giới thứ ba. Điều đó có nghĩa là, nhận ra giới hạn về sức mạnh của Mỹ, giảm nguy cơ chiến tranh nhiệt hạch bằng cách sử dụng kết hợp cả hai chính sách dùng cà rốt và cây gậy, kéo dài thời gian để cho Mỹ phục hồi.

Việc này đã vận hành. Đúng vậy, Kissinger đã không bảo đảm “khoảng thời gian thích hợp” giữa việc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam và cuộc chinh phục miền Nam của miền Bắc, một khoảng thời gian mà ông hy vọng sẽ đủ dài để hạn chế thiệt hại cho uy tín và thanh danh của Washington.

Nhưng việc hòa hoãn cho phép Mỹ tập hợp lại các vấn đề trong nước và ổn định chiến lược của Mỹ về Chiến tranh Lạnh. Nền kinh tế Mỹ sớm đổi mới theo cách mà Liên Xô không bao giờ có thể, tạo ra các tài sản kinh tế và công nghệ, cho phép Washington giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh.

Giảm căng thẳng cũng cho Liên Xô sợi dây thòng lọng để tự treo cổ tự tử. Được khuyến khích bởi những thành công của họ ở Đông Nam Á và Nam Phi, họ đã thực hiện một loạt các can thiệp sai lầm và tốn kém trong thế giới kém phát triển, mà đỉnh điểm là cuộc xâm lược Afghanistan vào năm 1979.

Với sự thành công hiếm khi được thừa nhận của việc hòa hoãn trong các điều kiện này, vấn đề đáng để đặt ra là, liệu có những bài học nào mà Hoa Kỳ ngày nay có thể học được mà nó có liên quan đến cuộc cạnh tranh với Trung Quốc không. Kissinger chắc chắn tin như vậy.

Trong khi phát biểu tại Bắc Kinh hồi năm 2019, ông tuyên bố rằng Mỹ và Trung Quốc đã “ở chân đồi của một cuộc chiến tranh lạnh”. Năm 2020, giữa lòng trận đại dịch COVID -19, Kissinger đã nâng cấp nó thành “lối thoát trên núi”. Và một năm trước khi qua đời, ông cảnh báo rằng, cuộc chiến tranh lạnh mới sẽ nguy hiểm hơn cuộc chiến đầu tiên vì những tiến bộ trong công nghệ, chẳng hạn như về trí tuệ nhân tạo, đe dọa chế tạo vũ khí không chỉ nhanh hơn và chính xác hơn mà còn có tiềm năng tự động. Ông kêu gọi cả hai siêu cường hợp tác bất cứ khi nào có thể được để hạn chế những nguy cơ sinh tồn của cuộc chiến tranh lạnh mới này – và đặc biệt là để tránh một cuộc hạ màn đầy thảm khốc trong tiềm tàng về tình trạng tranh chấp của Đài Loan.

Như trong thập niên 1970, nhiều chuyên gia chỉ trích phương cách này trong cuộc tranh luận hiện nay về chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc.

Elbridge Colby, người có suy nghĩ sâu sắc nhất trong thế hệ mới của các chiến lược gia bảo thủ, đã khuyến khích chính quyền Biden áp dụng “chiến lược phủ nhận” để ngăn chặn Trung Quốc thách thức về mặt quân sự trong hiện trạng mà Đài Loan được hưởng quyền tự trị trên thực tế và một nền dân chủ thịnh vượng.

Đôi khi, dường như chính quyền Biden tự đặt vấn đề về chính sách mơ hồ trong chiến lược về Đài Loan kéo dài nửa thế kỷ, trong đó không rõ liệu Mỹ có sử dụng quân lực để bảo vệ hòn đảo này không. Và gần như có một sự đồng thuận trong lưỡng đảng rằng, kỷ nguyên cam kết trước đây với Bắc Kinh là một sai lầm, dựa trên giả định lầm lạc rằng, tăng cường thương mại với Trung Quốc sẽ tự do hóa hệ thống chính trị một cách kỳ diệu.

Tuy nhiên, không có lý do chính đáng là tại sao các siêu cường của thời đại chúng ta, giống như những người tiền nhiệm của họ trong thập niên 1950 và 1960, phải chịu đựng 20 năm bên miệng hố của chiến tranh trước khi có giai đoạn giảm căng thẳng của Chiến tranh Lạnh.

Giảm căng thẳng 2.0 chắc chắn sẽ được yêu chuộng hơn là chạy theo một phiên bản mới như cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba hay đối với Đài Loan, nhưng với vai trò đảo ngược: Nhà nước cộng sản phong tỏa hòn đảo tranh chấp gần đó và Hoa Kỳ phải tiến hành phong tỏa, với tất cả các rủi ro kèm theo. Đó chắc chắn là những gì mà Kissinger tin tưởng trong năm cuối cùng của cuộc đời dài của mình. Đó là động lực chính cho chuyến thăm cuối cùng của Kissinger tới Bắc Kinh ngay sau sinh nhật lần thứ 100 của ông.

Giống như tình trạng hòa hoãn 1.0, một sự hòa hoãn mới sẽ không có nghĩa là xoa dịu Trung Quốc, càng không mong đợi đất nước này thay đổi. Điều đó có nghĩa là, lại một lần nữa, tham gia vào vô số cuộc đàm phán: Về kiểm soát vũ khí (rất cần thiết khi Trung Quốc điên cuồng xây dựng lực lượng của mình trong mọi lĩnh vực); về thương mại; về chuyển giao công nghệ, biến đổi khí hậu, trí tuệ nhân tạo; và trên không gian. Giống như SALT, các cuộc đàm phán này sẽ kéo dài và tẻ nhạt – thậm chí có thể không có kết quả. Nhưng chúng sẽ là “cuộc chạm trán” mà Thủ tướng Anh Winston Churchill thường thích là có chiến tranh hơn. Đối với Đài Loan, các siêu cường có thể làm tồi tệ hơn là phủi sạch lời hứa cũ của họ, do Kissinger đưa ra, là đồng ý các vấn đề không đồng ý.

Tất nhiên, tình trạng giảm căng thẳng không làm nên điều kỳ diệu. Trong thập niên 1970, nó đã bị bán đổ bán tháo và mua với giá quá mắc. Chính sách này chắc chắn đã mang lại cho Hoa Kỳ nhiều thời gian, nhưng đó là một chiến lược cờ vua có lẽ đòi hỏi quá nhiều sự hy sinh nhẫn tâm của các quân cờ nhỏ hơn trên bàn cờ.

Bối rối trước sự phản đối của Hoa Kỳ đối với sự can thiệp của đất nước ông vào Angola, một nhà phân tích Liên Xô đã nhận xét: “Người Mỹ các bạn đã cố gắng bán việc hòa hoãn như chất tẩy rửa và tuyên bố rằng nó sẽ làm mọi thứ mà một chất tẩy rửa có thể làm”.

Cuối cùng, giới phê bình đã thành công trong việc đầu độc thuật ngữ này. Vào tháng 3 năm 1976, Ford đã cấm sử dụng nó trong chiến dịch tái tranh cử của ông. Nhưng không bao giờ có một sự thay thế khả thi.

Khi được hỏi liệu ông có một thuật ngữ thay thế không, Kissinger đưa ra một câu trả lời dí dỏm đặc trưng. Ông nói: “Tôi đã nhảy múa xung quanh mình để tìm một người, giảm căng thẳng, giảm căng thẳng. Chúng ta cũng có thể kết thúc với từ cũ một lần nữa”.

Hiện nay, chính quyền Biden đã giải quyết vấn đề bằng cách dùng từ riêng của mình: “giảm rủi ro”. Nó không phải là tiếng Pháp, nhưng nó hầu như cũng không phải là tiếng Anh. Mặc dù khởi điểm của cuộc chiến tranh lạnh này là khác biệt, vì sự tương thuộc về kinh tế ngày nay lớn hơn nhiều giữa các siêu cường, về cơ bản, chiến lược tối ưu có thể trở nên giống như trước đây.

Nếu sự hòa hoãn mới bị chỉ trích, thì giới phê bình không nên giải thích sự sai lầm của nó theo cách mà sự hòa hoãn của Kissinger thường bị xuyên tạc bởi nhiều kẻ thù của ông – kẻo họ thấy mình giống như Reagan trước đây, về cơ bản cũng làm như vậy khi họ ngồi ở Phòng Phân tích Tình hình.

_______

Tác giả: Naill Ferguson là thành viên nghiên cứu cấp cao của Học viện Hoover, Đại học Standford. Ông là tác giả cuốn sách Kissinger: 1923–1968; The Idealist.

Bài liên quan: Đánh giá Henry KissingerDi sản của Henry KissingerHenry Kissinger đã bỏ rơi miền Nam như thế nào?Richard Nixon, Henry Kissinger và Sự Sụp Đổ Của Miền NamHồ sơ tội trạng của Henry Kissinger

(Hết)

Bình Luận từ Facebook

1 BÌNH LUẬN

  1. Nói chung, cứng rắn (cương) và hoà hoãn (nhu) là 2 mặt của một vấn đề (chính sách)
    mà nhà chính trị nào cũng cần phải căn cứ vào mà hành động (tùy cơ ứng biến).
    Riêng trong trường hợp Kissinger thì có lẽ động cơ làm việc của ông ta thiên về tâm lý
    nhiều hơn ở những năm hậu chiến tranh VN. Lý do chính là vì ông ta bị giới thiên tả a
    dua nhắm vào để đổ hết mọi tội cho ông ta, thậm chí tội diệt chủng. Sở dĩ giới thiên tả
    phản chiến (VN).này cố ý làm vậy là nhằm làm nhẹ tội họ đã giúp sức cho Hà Nội qua
    phong trào phản chiến khiến Mỹ phải bỏ chạy khỏi miền Nam VN., bất chấp hậu qủa là
    miền Nam rơi vào tay CS. và hàng ngàn ngưòi “boat people” không ngớt bỏ chạy khỏi
    chế độ CS. hàng loạt và kéo dài hàng chục năm sau đó.
    Chính vì thế mà càng về sau này, ông ta xoay qua quan điểm “hoà hoãn” trên phạm vi
    toàn cầu để mong được tiếng “bồ câu” hơn là “diều hâu” trước đây chăng ?
    Tất nhiên, đó là thiển kiến cá nhân của tôi !

BÌNH LUẬN

Xin bình luận ở đây
Xin nhập tên của bạn ở đây