Masan với những quảng cáo siêu bịp bợm

FB Vũ Cận

12-3-2019

1. Hạt nêm Chin-su “không bột ngọt”:

Phiếu kiểm nghiệm của Trung Tâm dịch vụ phân tích thí nghiệm thuộc Sở Khoa học công nghệ TP.HCM năm 2008 cho thấy: bột nêm “không bột ngọt” Chin-su không có bột ngọt nhưng lại có hàm lượng 1,21% monosodium glumate (là tên khoa học của… mỳ chính, hổng có phải bột ngọt nha, hic).

Tiền đề để giành lại Hoàng Sa

Trần Trung Đạo

17-1-2023

Lịch sử đã chứng minh Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh chính trị kinh tế quân sự hiện nay, việc giành lại Hoàng Sa và những đảo đã mất của Trường Sa, trong thực tế, là một điều ngoài tầm tay của đảng Cộng sản Việt Nam.

Nguyễn Tiến Hưng: Siêu mẫu hạm Mỹ vào Đà Nẵng: Bốn bước ngoặt của bang giao Việt – Mỹ

Diễn đàn Thế kỷ

6-3-2018

Tác giả Nguyễn Tiến Hưng. Ảnh: DĐTK

Khi nghe tin hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson vào Đà Nẵng tháng Ba, 2018, tôi tự hỏi: tại sao không phải Cam Ranh mà là Đà Nẵng, và tại sao lại tháng Ba?

Nhìn lại lịch sử thì ta thấy cái địa danh Đà Nẵng hay gắn liền với những bước ngoặt của chiến lược Mỹ tại Biển Đông.

Mà kể cũng lạ, những bước ngoặt ấy lại có một sự trùng hợp: đó là nó thường hay xảy ra vào tháng Ba:

  • Tháng Ba, 1965 sau bao nhiêu thẩm định, cân nhắc, Washington đi tới quyết định đưa quân tác chiến vào Việt Nam. Đà Nẵng được chọn làm nơi để bắt đầu. Quyết định này phản ảnh một bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc chiến: sự thay đổi chiến lược từ chiến tranh du kích, chống nổi dậy tới chiến tranh quy ước.
  • Tháng Ba, 1973: sau Hiệp định Paris, lễ chính thức hạ cờ Mỹ để kết thúc vai trò của quân đội tác chiến tại Việt Nam lại được tổ chức tại sân bay Đà Nẵng.
  • Tháng Ba, 1975: Tòa Lãnh Sự Mỹ – bộ phận dân sự còn lại của Mỹ – đóng cửa hoàn toàn và rút đi trên con tầu cuối cùng rời cảng Đà Nẵng. 

Bây giờ – tháng Ba, 2018 – siêu hàng không mẫu hạm cập cảng Đà Nẵng. Liệu nó có đánh dấu một bước ngoặt khác hay không?

Trước hết ta nhìn lại những mốc lịch sử của Đà Nẵng liên hệ tới chiến lược của Mỹ:

Tháng Ba, 1965: đổ bộ Đà Nẵng

Sau khi TT John F. Kennedy bị sát hại vào tháng 11, 1963, Phó TT Lyndon B. Johnson lên kế vị. Tuy có lập trường cứng rắn về Việt Nam, ông cố gắng kìm hãm, không leo thang cuộc chiến vì đã đặt ra mục tiêu ưu tiên cho chính quyền ông là War on Poverty– chiến đấu để khắc phục sự nghèo khó của lớp người thiểu số ở Mỹ.

Cuối năm 1964, dù sau khi đã đại thắng trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11, nhiều người khuyên ông nên có hành động mạnh ở Việt Nam nhưng ông vẫn tiếp tục tự chế.

Nhưng rồi biến cố Pleiku đã thay đổi hẳn lập trường của ông. Cuộc tấn công vào doanh trại cố vấn Mỹ tại Pleiku và căn cứ trực thăng Holloway (cách đó khoảng bốn dặm) vào lúc 2:00 giờ sáng ngày 7 tháng 2, 1965 đã gây nên thiệt hại lớn : trong số 137 quân nhân Mỹ ở căn cứ này thì 9 người bị tử thương và 76 người bị trọng thương. Những tổn thất về thiết bị cũng rất nặng nề: 16 trực thăng và 6 máy bay các loại khác bị hư hại. Đó là cuộc tấn công lớn nhất vào các cơ sở của Mỹ tại miền Nam Việt Nam cho tới thời gian đó.

Nó đã đưa tới một quyết định mau lẹ của Tổng thống Johnson để trả đũa. Ông nhóm họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và nói:

“Tôi đã gác khẩu súng ở phía trên lò sưởi và cất đạn ở dưới hầm nhà từ lâu rồi, nhưng địch quân đang giết hại người của ta… Hèn nhát đã đưa chúng ta vào nhiều cuộc chiến hơn là trả đũa: nếu như Hoa kỳ đã mạnh dạn hơn ngay từ đầu thì đã tránh được Thế Chiến I và II.”

 Sau đó ông cho khởi động chiến dịch Rolling Thunder: từng lớp máy bay khu trục bay xuyên qua những đám mây dầy đặc tới oanh tạc các doanh trại Bắc Việt cách Vĩ tuyến 17 khoảng 40 dặm về phía bắc tại Đồng Hới. Việc trả đũa này đã bắt đầu một chiến dịch oanh tạc kéo dài với Linebacker I và Linebacker II.

Đưa nhiều máy bay oanh tạc vào tham gia cuộc chiến thì phải bảo vệ phi trường Đà Nẵng và khu vực chung quanh phi trường để tránh bị pháo kích như ở Pleiku. Vì vậy Washington tính đến việc mang quân vào để đáp ứng.

Nhưng nếu mang quân tác chiến vào thì vi phạm Hiệp định Geneve và có khả năng là chiến tranh sẽ leo thang.

Bàn đi bàn lại thật kỹ nhưng rồi Washington đi tới kết luận phải chấp nhận mọi rủi ro.

Ngày 23 tháng 2 năm 1965, tại Sài Gòn, Tướng Westmoreland đề nghị với Tư lệnh Thái Bình Dương và Bộ Tổng Tham Mưu:

“Đưa một Lữ đoàn Viễn chinh Thủy Quân Lục Chiến MEB (Marine Expeditianory Brigade) để giữ an ninh cho Đà Nẵng. Việc đưa quân vào tiếp theo sẽ được triển khai theo từng giai đoạn, tùy thuộc vào sự đồng ý của thượng cấp trên căn bản chính trị. Đại sứ Taylor cũng sẽ đề nghị đưa một đội Tiểu Đoàn Đổ Bộ BLT (Battalion Landing Team) vào Đà Nẵng ngay.”

Ngày 26 tháng 2 năm 1965, Bộ Ngoại giao Mỹ gửi Sứ quán tại Việt Nam:

“Thượng cấp đã có quyết định tiến hành đổ bộ cùng một lúc một đơn vị MEB, một đơn vị BLT, và một phi đội trực thăng… rồi sẽ thêm BLT thứ hai, tất cả đều trong Khu vực Đà Nẵng …”

Ngày 8 tháng Ba, bốn con tầu USS Henrico, Union, and Vancouver đưa một lữ đoàn 3,500 TQLC vào đổ bộ ở bãi biển “Red Beach.”

Hành động này là bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc chiến: sự thay đổi chiến lược từ trợ giúp, cố vấn trong chiến tranh du kích, chống nổi dậy (counterinsurgency) tới chiến lược đem đại quân tác chiến (combat troops), tham gia trực tiếp vào cuộc chiến.

Lữ đoàn TQLC Viễn chinh Số 9 đã là đội tiền phong dẫn đường cho trên một nửa triệu quân nhân Mỹ vào Việt Nam.

Tháng Ba, 1973: rút khỏi Đà Nẵng

Theo Hiệp định Paris ký kết ngày 27 tháng 1, 1973 thì Mỹ phải đơn phương rút khỏi Miền Nam.

Điều 5 quy định: “Nội trong 60 ngày sau khi bản Hiệp Định được ký kết, tất cả quân đội, cố vấn quân sự, và nhân viên dân chính làm việc cho quân đội… phải được hoàn toàn triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam…” Vì Hiệp định được ký ngày 27 tháng 1 cho nên ngày 27 tháng Ba là hạn chót của việc rút quân. Vào thời điểm ấy thì một số quân đội Mỹ còn đóng ở Đà Nẵng.

Điều 6 của Hiệp định quy định thêm: “ Các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam của Hoa Kỳ và các quốc gia khác, đã dẫn ở Điều Một, phải được giải tỏa trong hạn 60 ngày, sau khi Hiệp định được ký kết.” Đà Nẵng là căn cứ không quân quan trọng nhất yểm trợ hai Quân Khu I và II. Nó đã được chọn để tổ chức một nghi lễ biểu tượng quan trọng: lễ hạ lá cờ Mỹ và mang đi, đánh dấu việc chấm dứt sự có mặt của quân đội tác chiếnMỹ tại Miền Nam.

Lễ nghi được diễn ra rất trang trọng với sự hiện diện của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Việc “Cuốn Cờ” (Flag Folding) đã theo đúng thủ tục gồm năm bước, bắt đầu bằng việc trải lá cờ ra cho thật thẳng và gấp lại theo chiều dài lần thứ nhất (độc giả vào mạng xem để tìm hiểu thủ tục cầu kỳ và đầy ý nghĩa này).

Tháng Ba, 1975: Lãnh sự cuối cùng rời Đà Nẵng

Tuần lễ cuối tháng Ba, sau khi có tới gần một triệu người dân từ Huế, Quảng Trị và vùng lân cận di tản đổ dồn và tràn đầy Đà Nẵng, thành phố này bị tràn ngập và hỗn loạn trước sự tiến quân của quân đội Bắc Việt. Tình hình an ninh trở nên tuyệt vọng.

Mỹ điều động hai con tầu Pioneer Contender và Miller tới hải cảng Đà Nẵng để giúp di tản những nhân viên Mỹ làm ở Tòa Lãnh sự với hàng trăm ngàn người Việt. Ngoài số tầu biển còn có chiếc máy bay Boeing 727 của hãng hàng không Air America đã hạ rồi cất cánh trong cảnh hỗn loạn tại phi trường Đà Nẵng.

Sau cùng thì viên lãnh sự Mỹ, ông Al Francis đã ra đi bằng đường biển.

Sự tham gia của Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam đến đây đã chấm dứt hoàn toàn.

Tháng Ba, 2018: hàng không mẫu hạm vào Đà Nẵng

Mỹ đi rồi Mỹ lại về… vào Đà Nẵng?

Lich sử sẽ ghi nhận sự kiện này thế nào?

Ta có thể tạm thời nhận xét như sau:

Thứ nhất, về chiến lược ở Biển Đông: Mỹ đang xúc tiến cho thật nhanh diễn tiến ‘Xoay Trục.’ Như chúng tôi đã đề cập trong cuốn ‘Khi Đồng Minh Nhảy Vào’: hoàn cảnh lịch sử hiện nay hết sức khó khăn. Nó khác hẳn với hoàn cảnh trong những thập niên 60 và 70. Trong hai thập niên ấy, chiến lược của Mỹ là “ngăn chận Trung Quốc,” còn bây giờ là phải “trực diện đối đầu với Trung Quốc.

Từ khi Mỹ rút khỏi Đài Loan, rồi mặc kệ, không giúp Miền Nam Việt Nam trong việc bảo vệ Hoàng Sa chống Trung Quốc, và sau đó là bỏ rơi Miền Nam, TQ hết bị ngăn chận nên đã thực sự tràn xuống Biển Đông và đang thâu tóm trọn vẹn khu vực này, tiến trình theo đúng như thuyết Đôminô.

Nhưng Xoay Trục khó có thể hoàn thành mau lẹ và thành công nếu không có sự cộng tác của Việt Nam, vì đây là địa điểm chiến lược quan trọng nhất như Bộ Quốc Phòng Mỹ đã xác định ngay từ đầu thập niên 50 (xem ‘Khi Đồng Minh Nhảy Vào,’ Chương 2).

Vì vậy Mỹ muốn thúc đẩy hợp tác quân sự chặt chẽ hơn đối với Việt Nam.

Thông cáo chung về chuyến viếng thăm Việt Nam của TT Trump tháng 11, 2017 xác định hai điểm:

  • Hai bên “khẳng định kế hoạch hợp tác quốc phòng Việt – Mỹ trong giai đoạn 2018-2020.” Ta thấy giai đoạn 2018-2020 là trùng hợp với khung thời gian Mỹ đặt ra cho mục tiêu hoàn thành bước đầu của chiến lược Xoay Trục khi 60% của hải lực Mỹ sẽ có mặt ở Thái Bình Dương.
  • Hai bên hoan nghênh hàng không mẫu hạm Mỹ lần đầu tiên tới thăm một hải cảng của Việt Nam trong năm 2018.”

Lưu ý độc giả một điểm có ý nghĩa: cho tới nay, chúng tôi thấy tất cả truyền thông quốc tế đều loan tin sai lầm rằng “đây là hàng không mẫu hạm đầu tiên cập bến Việt Nam kể từ năm 1975” hay “kể từ sau cuộc chiến,” hay “kể từ khi chiến tranh kết thúc cách đây hơn 40 năm.”

Không đúng, đây là lần đầu tiên kể từ trước tới nay. Trong Chiến tranh Việt Nam, nhiều hàng không mẫu hạm Mỹ như USS Constellation, Hancock, Ticonderoga có tham chiến, nhưng chỉ đậu ở Subic Bay (Phi Luật Tân), Yokosuka (Nhật Bản) hay thả neo ở ngoài khơi, chưa bao giờ vào Đà Nẵng (hay Cam Ranh). Năm 1964 chỉ có một hàng không mẫu hạm USS Card chở quân trang, quân cụ và thiết bị vào Sài Gòn (và bị đánh bom). Nhưng tầu này nhỏ, thuộc vào loại hộ tống Bogue, cũ kĩ vì sản xuất từ năm 1941.

Đưa nhiều hàng không mẫu hạm, chiến hạm vào Biển Đông thì cần phải có cơ sơ hỗ trợ từ đất liền – hải cảng, sân bay, bảo trì, tiếp vận xăng nhớt, thực phẩm, tiện nghi. Những cơ sở ấy thì thực tế nhất, tiện lợi nhất là vùng duyên hải của Việt Nam – đặc biệt là Cam Ranh và Đà Nẵng. Đây là hai nơi mà Mỹ đã xây cất, xử dụng trong nhiều năm nên đã quá quen thuộc.

Nhưng tại sao Mỹ không đưa hàng không mẫu hạm vào Cam Ranh có vịnh nước sâu mà lại đem vào Đà Nẵng? Về phương diện logistic, tầu Carl Vinson quá lớn, khó mà thả neo ở Hải cảng Quốc Tế Cam Ranh.

Lại nữa, có thể vì lý do Thành phố Đà Nẵng có giá trị tượng trưng cho vai trò của người Mỹ ở Việt Nam trước đây – qua các biến cố như đã đề cập. Ngoài ra, còn có khả năng là sẽ có đông dân chúng Việt Nam chào đón USS Carl Vinson, giống như thời xưa (1965) có các thiếu nữ ra bãi biển choàng hoa lên cổ các chiến sĩ thuỷ quân lục chiến Mỹ, hay gần đây nhiều người Việt leo lên chiến hạm Mỹ do hạm trưởng người Mỹ gốc Việt lái tới Đà Nẵng, hoan hỉ đón tiếp.

Và như vậy là để nêu cao sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam đối với cuộc thăm viếng hữu nghị này?

Xác định xong về cuộc viếng thăm là có hành động cụ thể ngay: tại Hà Nội ngày 25 tháng 1, Bộ trưởng Quốc Phòng Jim Mattis đã chính thức tuyên bố là sự việc này sẽ diễn ra vào tháng Ba.

Trong mấy năm vừa qua, đã có tầu ngầm và chiến hạm Mỹ ra vào Cam Ranh, nhưng đây là lần đầu tiên một Hàng Không Mẫu Hạm tiến vào hải phận và cập cảng Đà Nẵng.

Thứ hai, phô trương lực lượng: hàng không mẫu hạm là tiêu biểu cho sức mạnh hải và không lực Mỹ. Nó được gọi là một “không quân nhỏ” (small air force) lưu động.

USS Carl Vinson thuộc loại “Nemitz,” một siêu mẫu hạm loại mới (2009), chạy bằng nguyên tử. Nó chính là tầu chỉ huy của Đội Mẫu Hạm Tấn Công Số I (Carrier Strike Group 1) mới thành lập, có trụ sở tại San Diego. Đây là một phần của Đệ Tam Hạm Đội, mạnh mẽ nhất thế giới, thường thả neo ở các đại dương khác chứ không phải ở Thái Bình Dương (trách nhiệm của Đệ Thất Hạm Đội). Tầu này thực sự chứa những khí giới gì ngoài những phi đội khu trục thì còn là một bí mật quân sự – nhưng có thể Trung Quốc cũng đã biết.

Hiện tại tất cả thế giới chỉ có 19 hàng không mẫu hạm đang hoạt động (và 6 cái đang được sản xuất). Trong số 19 tàu này thì Mỹ đã chiếm tới 10 cái, tức là hơn một nửa. Số còn lại thì hầu hết thuộc các nước đồng minh của Mỹ như Anh Quốc (4 cái), Pháp (2), Ý (1). Nước Nga chỉ có một cái còn đang hoạt động là Admiral Kuznetsov. Nga có 4 cái khác nữa nhưng thuộc vào loại Kiev (như Minks, Novorossiysk): tất cả đều đã “về hưu.”

Như vậy, nếu số mẫu hạm của Mỹ cộng với của các đồng minh thì hải lực tổng hợp này thực sự bá chủ cả bốn đại dương.

Thứ ba, gửi tín hiệu cho Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc đã lên hàng cường quốc, nhưng về mặt hải lực thì còn rất yếu kém. Đó là vì chỉ mới có được một con tầu cũ tên là Varyag mua lại của Ukraine năm 1998 rồi đưa về tân trang tại xưởng đóng tầu Đại Liên (Dalian) ở đông bắc TQ, đổi tên là Liêu Ninh. Tầu được đưa vào hoạt động năm 2012, mục đích là để tập luyện.

Hè 1974 chúng tôi có dịp thăm viếng Trung Tâm Hành Quân của Đệ Thất Hạm Đội ở Honolulu và được chỉ dẫn về các hoạt động chính yếu của một hàng không mẫu hạm. Các chuyên gia cho thấy: việc điều khiển một hàng không mẫu hạm trên đại dương, nhất là giữa một cuộc chiến là hết sức phức tạp, nó đòi hỏi nhiều kỹ năng và kinh nghiệm. Nguyên công tác “roping” (buộc giây, thả neo) đã rất phức tạp. Rồi đến việc điều khiển từng lớp khu trục cất cánh, hạ cánh, đến công tác phòng không, chống tầu ngầm, điều hợp với các tầu hộ tống, với trung tâm hành quân và các lực lượng hỗ trợ từ trên bờ.

Ngoài số lượng, TQ chưa bao giờ có kinh nghiệm về hải chiến lớn chứ chưa cần nói tới hàng không mẫu hạm. Trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), khi đoàn quân của Tướng Mỹ Douglas MacArthur từ ngoài khơi đổ bộ vào hải cảng chiến lược Inchon (phía tây của Nam Hàn, khoảng 100 dặm về phía nam vĩ tuyến 38 và 25 dặm từ Seoul) vào ngày 15/9/1950, quân đội TQ và Bắc Hàn phải vội vã cuốn gói rút về qua vĩ tuyến 38.

Tới Trận Hoàng Sa: tuy là nhỏ mà TQ cũng đã bị Hải Quân VNCH gây tổn thất nặng nề. Ngược lại, Mỹ thì đã có kinh nghiệm về đại hải chiến và xử dụng hàng không mẫu hạm từ cả một thế kỷ: trong Đệ Nhất, rồi Đệ Nhị Thế Chiến, tới chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, và ngày nay, chiến tranh vùng Trung Đông. TQ có nhiều tiền, có thể mua tất cả những khí giới tối tân trên thế giới này nhưng không thể nào mua được một thế kỷ kinh nghiệm về đại hải chiến.

Mở ra một chương lịch sử mới?

Như chúng tôi đã có dịp đề cập trước đây, trong chuyến công du tại Hà Nội năm 2016, TT Barrack Obama đã gợi ý về trang sử mới này khi ông trích Nguyễn Du trong truyện Kiều:

Rằng trăm năm cũng từ đây.

Của tin gọi một chút này làm ghi

Tiếp theo, TT Trump đã đi thẳng vào vấn đề và phát biểu “Chúng ta đã gắn kết dần với nhau để tìm được những mục tiêu chung, những lợi ích chung. Và đó là điều đang diễn ra. Chúng tôi tới đây hôm nay để tái khẳng định những gắn kết đó.”

Thông cáo chung cũng xác định việc“mở rộng quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước trên cơ sở … các lợi ích chung và mong muốn chung.”

Tại Hà Nội ngày 25 tháng 1 vừa qua, Bộ trưởng QP Jim Mattis đã cám ơn Việt Nam về sự phát triển của quan hệ đối tác ấy, qua việc hàng không mẫu hạm tới Đà Nẵng (nguyên văn: “Thank you for increasing partnership, with our aircraft carrier coming into Danang here in March” ).

Thứ tư, tác động vào đồng minh: qua hành động này, Mỹ cũng muốn gián tiếp trấn an các quốc gia đồng minh tại Á Châu . Họ đang lo ngại về quyết tâm của Mỹ. Lại nữa, cho tới nay chính sách ngoại giao của TT Trump chưa rõ ràng về Biển Đông. Bây giờ, với việc tầu USS Carl Vinson cập bến Đà Nẵng – lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam (nhắc lại, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam chứ không phải từ khi cuộc chiến kết thúc năm 1975 như truyền thông thế giới đã loan tin) – bất chấp sự phản đối của TQ, đồng minh Á Châu sẽ thấy – từng bước một – chính quyền Trump có lập trường bảo vệ Biển Đông – bằng hành động – và cứng rắn hơn thời TT Obama nhiều.

Đã không phải là ngẫu nhiên mà TT Trump lại tăng thuế mạnh tới 25% vào nhập cảng thép (phần lớn là từ TQ) cùng một thời điểm với sự có mặt của siêu hàng không mẫu hạm ở Đà Nẵng – ngay sát Hoàng Sa và chỉ cách căn cứ hải quân lớn của TQ trên 400 km.

Thứ năm: lợi ích chiến thuật: đó là để chính thế hệ trẻ của hải quân Mỹ – những quân nhân mới vào cuộc sau chiến tranh Việt Nam, gồm cả trên hai lữ đoàn trên USS Carl Vinson có dịp làm quen với bãi biển, hải cảng và sân bay Đà Nẵng.

Cách đây 6 năm, khi thấy Mỹ trực tiếp giúp Việt Nam dọn dẹp, làm sạch chất độc da cam tại sân bay Đà Nẵng vào mùa hè 2012 (mà không phải trên dẫy Trường Sơn), chúng tôi cho rằng Mỹ khó mà quên được cái địa danh Đà Nẵng.

Rõ ràng là bang giao mang tính chiến lược và tiến tới toàn diện Việt – Mỹ đã đi được một bước đáng ghi nhận.

Tuy nhiên, bước ấy dài hay ngắn thì còn tùy thuộc vào việc có hay không những hành động có thực chất tiếp theo. Cụ thể, ta có để đặt câu hỏi liệu sẽ có những cuộc tập trận giả, thao diễn quân sự Việt – Mỹ có tầm cỡ lớn với sự tham gia của Hải Đội Tấn Công USS Carl Vinson trong năm 2018 hay không?

Thay lời cuối: hôm nay, ngày 6/3/1018 thấy trên mạng chiếu cảnh người dân Đà Nẵng bắt nhịp với ban nhạc Hạm Đội 7 hát bài “Nối VòngTay Lớn” tôi không thể không nghĩ tới khả năng rằng: biết đâu biết đâu đấy, một trang sử mới của bang giao Việt-Mỹ đã thực sự bắt đầu – như cựu TT Obama đã có dịp gợi ý: “Rằng trăm năm cũng từ đây?”

Muốn cho chương lịch sử này kéo dài và bền vững thì nó phải dựa trên căn bản dài lâu và vững chắc.

Căn bản ấy chính là quyền lợi hỗ tương của cả hai nước: chống lại tham vọng chiếm trọn Biển Đông của Trung Quốc và bảo vệ tuyến hàng hải vào hàng quan trọng nhất thế giới ($3,000 tỷ lưu thông mỗi ngày) (*) – hai mục tiêu hoàn toàn là tự vệ chứ không phải khiêu khích hay tấn công. Tuyến hàng hải này nằm chỉ cách vùng duyên hải của Việt Nam 12 hải lý.

Việt Nam, lại một lần nữa có cơ hội đóng vai trò địa chính trị chiến lược trên thế giới, nhờ vào vị trí nhìn ra Biển Đông của Đà Nẵng.

____

(*) Ghi chú của Tiếng Dân: Có lẽ tác giả Nguyễn Tiến Hưng nhầm, con số 3,000 hàng hóa lưu thông qua Biển Đông mỗi ngày là không chính xác. Theo số liệu của Trung tâm CSIS, hàng hóa lưu thông qua Biển Đông hàng năm trị giá 5.3 trillion dollars, tức 5,300 tỷ Mỹ kim. Lấy con số này chia cho 365 ngày trong năm, mỗi ngày chỉ có 14,5 tỷ hàng hóa lưu thông qua Biển Đông.

Cảm ơn một vị khách phát hiện sai sót này và bình luận bên dưới.

Quốc hội của ai chứ không phải của tôi

Nguyễn Thông

17-7-2021

Thấy báo chí nói nhiều về kỳ họp thứ nhất quốc hội khóa mới sắp diễn ra. Ông chủ tịch, ông chủ nhiệm văn phòng, bà trưởng ban công tác… của quốc hội đều đăng đàn tuyên bố, giải thích này nọ, rằng tại sao phải bầu lại, tại sao phải tuyên thệ, chính phủ mới sẽ ra sao, có mấy phó thủ tướng, v.v..

Đôi lời cùng ông Nguyễn Thiện Nhân

Mai Quốc Ấn

17-3-2020

Bí thư thành uỷ Tp.HCM Nguyễn Thiện Nhân có phát ngôn về việc thành phố thiếu khẩu trang: “Nếu không hạn chế bằng biện pháp đeo khẩu trang, cộng với phát hiện khoanh vùng sớm để cách ly thì chỉ cần mất 2 tuần một thành phố có thể có 4.000 người nhiễm, 2 tuần tiếp sẽ có 12.000 người nhiễm.”

Mấy cái này có phải PVN quyết đâu

FB Lê Hồng Giang

17-3-2019

Cách đây gần 30 năm anh dắt tôi xuống Vũng Tàu xin vào Vietsovpetro, một trong những chỗ làm mơ ước của nhiều người thời đó. Cầm tấm bằng đỏ kỹ sư điện ở Nga về, đúng chuyên môn, biết tiếng Nga, lại gặp thời VSP đang muốn nâng số lượng kỹ sư người Việt, cả tôi và anh rất tự tin nộp hồ sơ vào phòng tổ chức của Liên doanh (tên bình dân của VSP thời đó) rồi ra về, chắc mẩm vài tuần nữa sẽ được gọi đi làm.

Văn chương ám chỉ và tâm lý ám thị

Chu Mộng Long

30-1-2023

Biếm họa của báo Tuổi Trẻ Cười

‘Muốn giàu thì chơi với Mỹ – muốn làm đĩ thì đi với Tàu’

VNTB

Tâm Don

10-3-2018

Thủy thủ hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson và lính hải quân VN. Ảnh: FB USS Carl Vinson

Xung quanh việc Việt Nam đón tiếp hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson và thủy thủ đoàn đã diễn ra hai trạng thái hoàn toàn đối chọi nhau: ít quan chức Việt Nam khi đón tiếp và sự đón chào không trọng thị, trong khi đó, rất đông người dân Đà Nẵng nói riêng và Việt Nam nói chung đã hân hoan, hồ hởi đón chào. Và nữa, cộng đồng mạng xã hội như dậy sóng khi USS Carl Vinson xuất hiện. Tại sao lại thế?

Sài Gòn ngày phong tỏa thứ mười hai: Chuyện ổ bánh mì và nỗi lo còn đó

Đỗ Duy Ngọc

20-7-2021

Tiếp theo phần 1 — phần 2 — phần 3 — phần 4phần 5 phần 6phần 7phần 8phần 9phần 10phần 11

Trên mạng xã hội và dư luận ở Việt Nam ngày hôm qua, có lẽ từ bánh mì và lương thực là từ được nhắc đến nhiều nhất. Và nhân vật Trần Lê Hữu Thọ, Phó Chủ tịch UBND phường Vĩnh Hòa, tỉnh Khánh Hòa bỗng dưng nổi tiếng như cồn. Nổi đến độ giờ đây lên google gõ “bánh mì không phải là lương thực” sẽ cho ra kết quả 25.900.00 tin liên quan trong 0,57 giây.

Thế giới hậu đại dịch Corona

Financial Times

Tác giả: Yuval Harari

Dịch giả: Phạm Hạnh

21-3-2020

Cơn bão này rồi sẽ qua đi nhưng những lựa chọn bây giờ có thể sẽ thay đổi cuộc sống của chúng ta trong tương lai.

Biển Đông, tới lượt lục quân Mỹ

Blog VOA

Trân Văn

22-3-2019

Hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan trong một cuộc diễn tập cùng Lực Lượng Phòng Vệ Biển Nhật Bản. Hình minh họa. Nguồn: Reuters

Sau Hải quân, Không quân, tới lượt Lục quân Mỹ gia tăng chuẩn bị cho việc đối phó với các tình huống có thể xảy ra ở biển Đông.

Tiền chôn vô đất đếch đào được đâu!

Mai Bá Kiếm

8-2-2023

Báo chí đưa tin có ngân hàng lớn ôm hàng tỷ USD trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), như MB nắm giữ TPDN trị giá 46.870 tỷ đồng, Techcombank: 41.000 tỷ đồng, VPBank: 32.800 tỷ đồng, TPBank: 21.600 tỷ đồng, SHB: 13.185 tỷ đồng…

Trường Sa 1988: không nổ súng trước nhưng phải nổ súng

FB Lê Mạnh Hà

14-3-2018

1. Quá trình đóng giữ của các bên tại Trường Sa

Đây là một quá trình dài, phức tạp, tôi chỉ nêu một số điểm chính. Hiện nay các bên đóng giữ 47 thực thể địa lý (gọi tắt là đảo). Không phải ngay từ đầu Việt Nam có 21 đảo (33 điểm đảo) như hiện nay. Trước 30/4/1975 và cho đến 1986 Việt Nam chỉ đóng giữ 7 đảo. Nhưng đến năm 1988 Việt Nam đóng quân trên 21 đảo, nhiều gấp 3 lần trước đó. 1971-1973 Philippines đóng giữ 5 đảo, đến nay họ giữ 10 đảo. Năm 1946, quân đội Trung Hoa dân quốc đóng giữ đảo Ba Bình. Năm 1956 quân đội Đài Loan tái chiếm đảo này.

Hà Nội – Bắc Kinh và việc gọi đúng tên cuộc chiến

Huy Đức

24-7-2021

Ngày 21-7-2021, thượng tướng Đỗ Căn đã lên Hà Giang viếng các liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến tranh Biên giới (1979 – 1989). Đặc biệt, Thượng tướng đã thay mặt Đại tướng Phan Văn Giang, trao số tiền 50 tỷ đồng (do các doanh nghiệp Quân đội đóng góp) để nâng cấp Nghĩa Trang Liệt Sĩ Quốc Gia Vị Xuyên. Thượng tướng Đỗ Căn cũng đã thăm, tặng quà Đội Tìm kiếm, Quy tập hài cốt liệt sĩ, Bộ CHQS tỉnh.

Đúng là… chỉ Việt Nam mới thế!

Blog VOA

Trân Văn

25-3-2020

Bộ Quốc phòng vừa tổ chức một hội nghị toàn quân để thảo luận về hoạt động tham gia phòng, chống dịch viêm phổi corona. Quân đội Việt Nam hiện là lực lượng đảm trách việc tiếp nhận những cá nhân thuộc diện cần cách ly và vận hành các cơ sở cách ly để ngăn chặn lây nhiễm. Tại hội nghị vừa kể, Cục trưởng Quân y đã chính thức cảnh báo về nguy cơ quân nhân bị lây nhiễm khi thực hiện nhiệm vụ (1).

Ta về một bóng trên đường lớn…

FB Tô Thùy Yên

25-3-2019

Chúng tôi hân hạnh giới thiệu bài viết của cô Thảo Dân, bình luận rất sâu sắc bài thơ Ta Về của Tô Thùy Yên. Càng ngạc nhiên biết cô là giáo viên miền Bắc, sinh năm 1974:

____

Xưa giờ, tôi vẫn tự nhận mình mê thơ Nam hơn thơ Bắc. Bởi lẽ, với riêng tôi, thơ là tiếng nói thốt lên tự đáy lòng, không cần phiên dịch, không cần triết lý, không cần gò bó trong những trúc trắc diễm lệ câu từ. Thơ càng chau chuốt, bóng bẩy thì, hình như, cái tình càng ơ hờ, nhạt nhẽo. Thơ cũng không phải nơi để gửi gắm triết lý. Làm việc đó, văn xuôi và triết học tốt hơn nhiều. Thơ để cảm, để yêu, để nơi trái tim gặp gỡ trái tim. Vậy mà có một ngoại lệ, nhà thơ tôi yêu thích trong âm thầm, khá lâu bền, lại là người được giới phê bình nhận xét “Người Nam nhưng mang hồn thơ Bắc”: Nhà thơ Tô Thùy Yên.

Thật ra, trong cảm nhận của tôi, thơ Tô Thùy Yên có cả Nam, Trung và Bắc, có đủ triết, sử, đời. Nếu chọn đại diện duy nhất thơ cho một nước Việt Nam thống nhất, tôi trân trọng đề cử Tô Thùy Yên. Trong cái hệ lụy chung của Hiệp định Geneve chia đôi đất nước, thì nó cũng để lại một trái đẹp lạ lùng, đó là sự pha trộn, làm phong phú thêm ngôn ngữ, văn hóa miền Nam, và dường như, Tô Thùy Yên là thi nhân đặc biệt bắt được nhịp thở thời ông sống và nhập cả vào thơ điệu tâm hồn Bắc Trung Nam, làm nên một vóc dáng thơ vạm vỡ, uy nghi, lạ lẫm trong dòng chảy văn chương dân tộc với ngôn ngữ vừa dân dã vừa bác học, vừa bình dị vừa sang trọng, không lẫn vào ai khác.

Nếu nói thơ Chế Lan Viên độc đáo ở siêu hình, thì thơ Tô Thùy Yên siêu hình không kém. Nếu nói sự tráng lệ của câu chữ trong thơ Yến Lan, sự cổ điển của Quách Tấn, tìm trong thơ Tô Thùy Yên, đủ cả. Cảm hứng về thiện nhiên, vũ trụ trong thơ Huy Cận, Tô Thùy Yên không thua, chưa muốn nói còn rợn ngợp hơn. Về lối viết cách tân của Trần Dần hay sự tài hoa của Quang Dũng, Tô Thùy Yên có nhiều câu không hề kém cạnh. Thơ Tô Thùy Yên mang phong vị thơ Bắc ở cách diễn đạt văn chương, ở lớp lang từ ngữ ước lệ, tượng trưng của Đường luật, ở cách dùng ca dao độc đáo, duyên dáng. Tôi gọi Tô Thùy Yên là Nhà thơ không quê hương. Ông sinh ra ở Gia Định nhưng quê hương ông là Việt Nam. Thơ ông nói với ta như thế.

Thơ Tô Thùy Yên thể hiện một sự trái ngược khá lạ lùng. Ông là một trong 5 thành viên của nhóm Sáng Tạo (mà duy nhất ông là người Nam), một nhóm thơ mong muốn thổi vào thi ca Saigon khi đó một sự cách tân cả về nội dung lẫn hình thức, nhưng trong những sáng tác của ông, ta thấy ông lại dùng tấm áo gấm cổ điển để gói bọc nội dung siêu hình, giàu tính triết học, vô cùng hiện đại. Bài thơ Cánh đồng con ngựa chuyến tàu viết năm 1956 khá tân kỳ. Đặt vào hoàn cảnh quốc gia Việt Nam Cộng Hòa khi đó, nó mang tính thời sự rất cao nhưng vẫn không bớt chất lãng mạn, bay bổng. Bài thơ mở ra bức tranh động với hình ảnh cánh đồng một màu xanh cây cỏ nhưng không bằng phẳng êm xuôi mà có “gò nổng cao” và “thung lũng sâu”, như ẩn dụ về đường đời đầy thử thách. Trên nền màu xanh của cỏ cây, chú ngựa nâu đang rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu, còn đoàn tàu vẫn vô tri vô giác chạy mau, chạy mau, chạy mau để rồi rốt cuộc ngựa thua. Gục đầu, gục đầu, gục đầu ngã lăn và để lại trên tấm thảm xanh trải dài hút mắt một vết nâu.

Dường như, trong hai hình ảnh sóng đôi con ngựa và toa tàu không chỉ là cuộc phân tranh giữa “thảo mộc phương Đông và Tây phương cơ giới” như nhà phê bình Đặng Tiến nhận xét, mà dường như, ý thơ còn muốn mở ra điều sâu kín hơn: Con tàu văn minh rất hiện đại nhưng không có hồn vía, không có sự sống, không có cảm xúc và vẫn chịu sự điều khiển của con người. Con ngựa (phải chăng là ẩn dụ về con người?), tuy phải trải qua những cung đường gập ghềnh, thử thách, nhưng luôn được sống trong những giây phút thăng hoa, có thể thắng thua trên đường đời nhưng luôn được làm chủ cảm xúc, luôn được là mình. Bài thơ là khúc hoan ca về cái tôi kiêu hãnh. Hoặc nữa, nó còn là một lời dự báo, một âu lo ngấm ngầm trong tiềm thức: Một ngày nào đó, nền văn minh công nghiệp sẽ tàn phá tất cả, bỏ lại loài người bị tước bỏ môi trường sống, không còn được thung dung như chú ngựa nâu an nhiên thuộc về cội nguồn thiên nhiên cây cỏ đồng hoang?

Nhưng, trong phạm vi một bài viết ngắn, không thể ôm đồm. Chỉ xin mạo muội chia sẻ một số suy cảm sơ sài về bản trường thi lộng lẫy trong kho tàng văn chương Việt Nam, được nhiều người ca tụng: TA VỀ.

TA VỀ- bản trường thi nhiều lớp lang, cảnh trí: cảnh trí đất trời, cảnh trí con người và cảnh trí của cõi lòng thê thiết. Mỗi khổ thơ tách riêng có thể thành một bài thất ngôn tứ tuyệt độc lập, chặt chẽ, hoàn hảo. Điệp ngữ “Ta về” được dùng như chiếc chìa khóa mở ra nội tâm nhà thơ từ lúc đặt chân xuống đường lớn, trả lại thân phận tự do. Bài thơ là tiếng lòng của một người, cũng là tiếng lòng của hàng ngàn người miền Nam bị đày ải khắp các nhà tù từ Nam chí Bắc, từ rừng hoang heo hút, hiểm trở đến những nơi đồng chua nước mặn… Đọc bài thơ, ta hiểu về lịch sử, tâm sử, chứ không chỉ là lời giãi bày khi trở lại quê nhà, thậm chí nhóm câu thơ tình ái trong bài cũng gợi về dòng lệ tràn của bao nhiêu thân phận thiếu phụ chờ chồng từ những trại cải tạo sau 1975. Không riêng bài thơ này, mà trong toàn bộ sáng tác của Tô Thùy Yên, dường như ông luôn là người chép sử, luận triết bằng thơ. Ta gặp ở đây lối kết cấu nghệ thuật như trong thơ cổ. Trang đời mới mở ra sau cánh cổng nhà tù: Trở về, qua truông qua phá, gặp người quen cũ trên đường, gặp cha mẹ, gặp vợ con, đi thăm làng xóm, nhớ người còn người mất, tìm lại chính mình những ngày tháng cũ, đan xen là những suy tưởng để tìm lại mình và phá bỏ những xiềng xích tâm hồn 10 năm dằng dặc.

“Mười năm”, không phải quãng thời gian dài nhất mà một người tù VNCH phải trải qua. Lâu nhất phải kể đên Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Thiếu tướng Đỗ Kế Giai, Thiếu tướng Trần Quang Khôi, Thiếu tướng Phạm Ngọc Sang, Thiếu tướng Phạm Duy Tất, Thiếu tướng Lê Văn Thân, Thiếu tướng Mạch Văn Trường… đều bị tù từ tháng 5/1975- 1992, tức là 17 năm tù. Những người bị tù ít nhất cũng vài ba năm. Bản thân Tô Thùy Yên có tổng cộng 13 năm trong tù. Nhưng lần đầu, cũng là lần lâu nhất: 10 năm. Như vậy, nên hiểu “mười năm” vừa chỉ thời gian có thật, vừa là khái niệm ẩn dụ, tròn một thập kỷ, đủ để thương hải tang điền, đủ cho người thay đổi và đời thay đổi.

Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai 
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ 
Mười năm đá vẫn ngậm ngùi thay.

“Ta về” được nhắc đi nhắc lại 16 lần, không phải tiếng reo vui, không phải lời báo tin mừng mà cả bài thơ nặng trĩu trầm ngâm suy tưởng. Ta về là kết thúc một phần đời đau khổ. Ta về để mở ra chương đời khác chưa biết có đỡ bi thảm hơn không. Ta về với những giấc mơ mười năm xóa trắng. Ta về mà như tiếng địch ngân xót xa sầu thảm của tráng sĩ thất trận qua sông.

Tôi hình dung ra một con người quần nâu, áo vải phai màu bởi nắng mưa xứ Bắc, thập thững đi cô độc trên đường. Đường vắng. Người gầy, bóng đổ. Cả bóng lẫn người đều câm lặng. Một cuộc trở về ngậm ngùi, không người thân đưa tiễn, không ai biết mà đón đợi. Ca dao có câu Mình về em chẳng cho về/ Em níu vạt áo em đề câu thơ. Phút chia tay, bút mực đâu mà đề thơ lên áo. Là dòng lệ của nàng vẽ lên áo một chữ Tình đó thôi. Đề thơ chỉ là cái cớ để bên nhau lâu thêm một chút. Cuộc tiễn đưa dùng dằng, lưu luyến. Nhưng với thân phận người tù cải tạo khi đó, còn sống mà trở về đã là việc thần kỳ, được rời bỏ địa ngục trần gian phút nào là biết mình được sống phút đó, còn có mong chi ai đề thơ vạt áo. Mười năm mong mỏi.

Vậy mà sao khi trở về lại “đau mềm phế phủ” đau thấu tâm can, đến nỗi đá cũng còn thay người ngậm ngùi rơi lệ? Bởi nhớ lại những đọa đày khó giấy bút nào tả xiết? Là nhớ những đoạn trường mẹ già, vợ dại con thơ truân chuyên đường xa dặm thẳm tàu xe cả tuần lễ mới tới nơi thăm nom, để dành cho một chút thức ăn từ những chắt chiu tằn tiện? Hay đau đứt ruột bởi những huynh đệ chi binh chia ngọt xẻ bùi, bảo bọc nhau qua ngày tháng khó, giờ chỉ là những nấm mồ hoang cô quạnh nằm lại nơi đất khách?

Trong bài “Tàu đêm” tái hiện cảnh đoàn tàu chở những người tù miền Nam đi đày biệt xứ, Tô Thùy Yên viết những dòng rền vang, chát chúa như lời trăng trối tuyệt vọng khi đoàn tàu như trong một cơn giông lửa, giữa đêm chạy về nơi vô định, về nơi cuối trời, và với nhiều thân phận, đó là chuyến đi về nơi cuối đời. Khi chạy qua những xóm làng tối đen im lìm của miền Bắc, những bến cảng, nhà kho, người tù nhớ mẹ, nhớ em, nhớ phố phường hoa lệ…, hình dung mình như một thứ sinh vật khổ đau bị nghiến dưới đường ray lịch sử vô tình, người tù tuyệt vọng thốt lên những tiếng kêu bi thảm để mong loài người mê sảng trong thứ chủ nghĩa giáo điều tăm tối đang im lìm kia, thức dậy để biết có những đồng bào, đồng loại đang còn có linh hồn, để cùng nhau sống.

Tàu ơi hãy kéo còi liên tục
Cho tiếng rền vang dậy địa cầu
Lay động những tầng mê sảng tối
Loài người hãy thức, thức cùng nhau

Ngược lại, khi trở về, chỉ là những thanh âm im lặng. Một mình một bóng. Và khi trở về, người tù hồi tưởng lại đoạn đời lao tù.

Vĩnh biệt ta- mười- năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.

Khổ thơ này là lời đoạn tuyệt 10 năm xa loài người, 10 năm sống trong âm ty địa ngục nhưng, ta vẫn bắt gặp tâm trạng kiêu hãnh kín đáo của kẻ chiến bại. Tựa vào rừng mà tồn tại. Câm lặng như rừng để giữ gìn chất Người dù cho bị đày đọa đến suy thoái cả hình hài, hoang dã như thời tiền sử. Thân bại nhưng vẫn âm thầm sống, mãnh liệt sống để danh không liệt.

Có lẽ, khổ thơ này chỉ nên đọc và cảm nhận, không cần bình luận gì nhiều về thân phận người tù. Để hiểu thêm, xin giới thiệu một vài khổ thơ trong bài “Mùa Hạn” nói về cảnh ngộ người tù, ông viết năm 1979 ở Nghệ An nhưng phải tới 15 năm sau nó mới được in trong “Thơ Tuyển”, năm 1995 ở Mỹ.

Ở đây địa ngục chín tầng sâu
Cả giống nòi im lặng gục đầu
Cắn chết hàm răng, ứa máu mắt,
Chung xiềng nhưng chẳng dám nhìn nhau.
Bước tới, chân không đè đá sắc
Vai trần chín rạn gánh oan khiên
Nước khe, cơm độn, thân tàn rạc
Sống chẳng khôn, cầu được thác thiêng.

Tô Thùy Yên đã chép lại một thời kỳ tăm tối mà ông và chiến hữu đã trải qua, thời kỳ kinh khủng, giữa thời đại văn minh mà con người bị đày đọa như súc vật đến nỗi, chung xiềng mà không dám nhìn mặt, nghiến đến chết cứng hàm răng, mắt ứa máu, vì thương bạn, thương mình, vì thân phận bị cầm tù đau xót, vì mang nỗi hận của hùm thiêng khi đã sa cơ, chỉ tồn tại với nước khe, cơm độn, nắng cháy, cát bay, rừng khô rụm, sông hồ nẻ, đá nứt, muông thú không còn, khoai sắn cũng bị dân làng đào sạch, thú hóa con người đến mức cầu được chết đi vì sống nhục nhằn hơn đau khổ hơn là chết.

Để tồn tại và vượt thoát, có người tù còn nói câu để đời: “Con gì nhúc nhích được là ăn hết”. Đó vừa là bản năng sống, vừa là bản lĩnh người. A.I.Solzhenitsyn có tác phẩm Tầng đầu địa ngục đoạt giải Nobel Văn chương năm 1970, tái hiện cuộc sống của những nhà khoa học hàng đầu của Liên xô bị giam cầm như trong địa ngục dưới thời Stalin, khiến cả thế giới bàng hoàng về sự độc ác mà con người phải trải qua. Nhưng đó vẫn là Tầng đầu, tầng cao nhất mà Dante có thể nghĩ ra trong Thần khúc để dành chỗ cho khoa học gia, những người dám chống lại cả Chúa, còn những người tù trong thơ Tô Thùy Yên, thì đó là Tầng thứ 9. Đủ cho người đọc lạnh người.

Hành trình trở về qua truông qua phá, lặng lẽ, im lìm, trời câm đất nín, đời im lìm, đóng váng. Người tù trở về, là người tự do trong thân phận cá chậu chim lồng đâu còn có thể hót lên bài ca cũ. Nhưng may mắn, họ không bị chai sạn tâm hồn, vẫn có thể “ngẩn ngơ trông trời đất cũ” cho dù đó không phải sự “ngẩn ngơ” lãng mạn tìm thi hứng, mà đó là nỗi xót xa cho phận người, phận mình, xót xa cho nỗi hưng phế suy vong của lịch sử.

Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu.

Thời gian mười năm được nhắc lại, nhẹ như hơi thở mà chất chứa bao điều. Thế giới già đi, quê hương tan nát sau bao mùa bom đạn, quê hương tàn tạ sau mỗi chuyển dời. Đất bạc màu bởi người chết, người bị tù đày, người đi lên vùng kinh tế mới? Chỉ biết quê hương không còn là quê cũ trù phú, xanh tươi, sum vầy. Điệp ngữ “đất bạc màu” nghe như tiếng thở dài nuối tiếc, xót xa, bất lực. Trước sau, tấm lòng kẻ sĩ vẫn là nỗi trăn trở khi đặt những bước chân đầu tiên trở lại sau mười năm xa vắng.

Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió chuyển mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ.
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy ghi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi.

Có lẽ ám ảnh bởi không gian vũ trụ siêu hình, nên trong thơ Tô Thùy Yên hay nhắc về các loài chim, dường như nó trở thành một hệ thống thi pháp khi ông diễn tả về thời gian, không gian: Con chim thần thoại mắt khoen sâu/ Giật mình như đã ngàn năm ngủ/ Giữ bụi lông, cất khản tiếng gào (Em nhỏ, làm chi chim biển Bắc) Ở đâu còn bóng chim huyền diệu/ Hót gọi tiền thân ta tái sinh (Mùa hạn) Núi xa chim giục giã hoàng hôn (Tưởng tượng ta về nơi Bản Trạch) Con chim nào hớt hải kêu van (Bất tận nỗi đời hung hãn đó) Con chim động giấc gào cô đơn (Trường Sa hành) Biển Bắc tuyệt mù con nhạn lạc (Mòn gót chân sương nắng tháng năm) Con chim lạc bạn kêu vườn rộng (Vườn hạ), Giữ khuya có tiếng chim ai oán (Nỗi đợi) Thương nhớ nghe chừng sông biển cạn/ Nghe chừng gãy những cánh chim bay (Tháng Chạp buồn)…

Hình ảnh “bóng chim qua trễ” như một ám ảnh cô độc, lẻ bầy, cũng là chỉ sự trễ muộn của đời người, đi với “gió chuyển mùa” càng gợi sự trống vắng. Tất cả đều đã hư hao, muộn màng, tất cả đã lỡ thời theo ngọn gió heo may của tuổi chớm đông. Để rồi còn lại, vẫn là nỗi trăn trở khi những vọng động của lịch sử sẽ ngưng ngơi, rơi vào thinh không im lặng, mười năm, bao nỗi bi thương của dịch chuyển thời thế, bao đau khổ của núi lở sông bồi, đau thương, ly tán. Đã ai ghi…vừa là câu hỏi, vừa là lời tự sự mà lại như một tiếng than thầm. Mười năm ấy, cổ lục chưa từng có sử gia biên chép. Biết bao nhiêu máu lệ, ghi mấy cho vừa. Phải vậy chăng, mà Tô Thùy Yên tình nguyện làm người chép sử bằng thơ?

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở 
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.

Đây là một khổ thơ có thể cắt riêng thành một bài tứ tuyêt tài hoa, chứa đựng những triết lý nhân sinh sâu sắc. Người xưa dạy, rộng lớn nhất là đại dương, rộng hơn đại dương là bầu trời, rộng lớn hơn cả bầu trời chính là lòng người. Tô Thùy Yên đã giải phóng mình khỏi nỗi hận thù, thấm nhuần giáo lý từ bi hỉ xả của nhà Phật, để lòng mình sánh ngang với trời đất, lắng nghe và cảm tạ lượng đất trời. Vì mình từ tâm nên mới nhìn thấu đất trời từ tâm. Ai đã từng trải qua những cảnh ngộ mà nhà thơ từng trải, sẽ hiểu rằng, được sống, được trở về từ nơi đã từng đày đọa mình “thành vượn cổ sơ”, là may mắn đến nhường nào. Chính vì thế, cuộc đời dù cay đắng vẫn đáng yêu đáng sống, khi vượt qua địa ngục trần gian càng biết trân quý những vẻ đẹp quanh mình. Ngắm một đóa hoa nở cũng đủ coi như ân điển.

Thấp thoáng từ những câu thơ tài hoa là nụ cười an nhiên của người đã qua kiếp nạn, thấm đẫm tinh thần của Lão, Trang, nhìn thấy Đạo ngay từ cánh hoa, ngọn cỏ. Tâm thiện mở ra tận cùng mới cảm nhận được sự từ tâm vô lượng của vũ trụ. Tô Thùy Yên đã chạm tới cái vô hạn của nhân chi sơ tính bổn thiện. Không phải tới khi trải qua khổ nạn, Tô Thùy Yên mới thấu lẽ vô vi. Trong thời kỳ chiến tranh, ông đã có những vần thơ xót xa cho người lính phía bên kia chiến tuyến vừa sốt rét vừa đói lả nhưng vẫn xích lời nguyền sinh Bắc tử Nam để rồi từ đó bật lên khát khao nhân bản, giá như cả hai đều gom góp sức lại thì mặt đất này khác đến bao nhiêu. Ngay thời điểm chiến tranh đang hồi ác liệt, mà có sự bao dung, vượt lên trên chiến tuyến đó, còn là gì nếu không phải tâm thế của người vượt thoát giỏi các giới hạn, mà cụ thể trong hoàn cảnh này, là vượt lên hận thù ý thức hệ để nhìn xa hơn cho tương lai dân tộc, bởi nhân thức được sự hữu hạn của kiếp người?

Khổ thơ tiếp theo bừng thức như ánh sáng chói lòa trong một giấc mơ:

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng.

Ngập tràn không khí cổ thi của một thời chinh chiến. Nhà nhà, người người lên đường theo tiếng trống trận, theo điệu kèn xuất binh hùng tráng. Nô nức ra đi nô nức lên đường. Đến cả con ngựa đá cũng không cầm lòng được, cũng biết sang sông. Những câu thơ linh hoạt hẳn lên, bừng sáng, giàu màu sắc, hình ảnh, âm thanh, gợi tôi nhớ tới lời sấm Ngựa đá sang sông của cụ Trạng Trình, sông đổi dòng để ngựa đá qua bờ bên kia, thời cuộc thay đổi. Phải chăng, đó chính là ước mộng của một chiến binh kiêu dũng, vừa thoát ngục tù từ bên kia chiến tuyến đã mơ tìm lại nước, ước mơ tìm được đấng minh quân để tạo dựng cơ đồ? Không hiểu sao, đọc khổ thơ này, trong trí óc tôi lại cứ hiện lên hình ảnh bao con người có vẻ ngoài lầm lũi, cam chịu, nhẫn nại đang ngày đêm âm thầm cho những cuộc vượt thoát. Bằng đường biển, đến con ngựa đá cũng sang sông, cũng muốn ra đi. Giấc mộng mãi mãi chẳng viên thành, chỉ còn lại thực tại ê chề cay đắng nên lời thơ như có máu lệ sa xuống đầu ngọn bút.

Ta về như lá rơi về cội… đoàn tụ, xum vầy, nhân quần tề tựu quanh bếp lửa. Bởi mười năm mới được trở lại nhà. Giang hồ có kẻ “một tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà”, huống chi người mười năm mới được ngồi bên bếp lửa đang độ cuối thu. Chén rượu hồng đây rưới xuống. Cho bạn. Cho thù. Cho những ai còn sống và đã khuất. Cho chiến hữu còn âm u đất lạ quê người trong cảnh lao tù, cho cả những người đã tự chọn cho mình một con đường, bỏ nước ra đi. Tha thứ và làm lại từ đầu cho được thành người, không để kẻ nào vùi dập. Ngôn từ ngậm ngùi, hình ảnh đẹp bi tráng, không khí cổ thi vẫn đậm đặc.

Ta về như hạt sương trên cỏ… hạt sương đẹp, khúc xạ cả mặt trời, trong sáng, tinh khôi nhưng lại ngắn ngủi, phù du đến vô thường, nên người ta hay ví sự ngắn ngủi của kiếp người, của cuộc đời như là sương trắng. Hạt sương trên cỏ chính là bước đi của thời gian, ngắn ngủi hữu hạn đặt cạnh vô cùng vô tận để rồi chợt nhận ra satna bên cạnh vĩnh hằng. Tuy mong manh nhưng lại chứa sức sống mãnh liệt của không gian, thời gian, đa diện, đa sắc, phải vì thế chăng mà ở câu thơ sau tác giả nhắc tới sinh, dị, diệt trong Đạo Phật để tìm cho thấy cái tâm thế an nhiên tự tại. Đời người như gió như sương. Đời người như chớp mắt. Đặt cạnh số phận dân tộc, nó càng mong manh, vô thường. Ai rồi cũng hư vô. Vậy mà hạt sương bé bỏng vẫn phải tội tình. Hãy liên hệ với thực tại khi đó của thân phận những người tù vừa ở trại cải tạo về để cảm nhận tâm thế chấp nhận hoàn cảnh và lời than thầm của nhân vật trữ tình.

Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh…
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên…

Một loạt hình ảnh tỉ dụ với những hình ảnh chỉ sự hữu hạn, mong manh, hư vô, đẹp đến mơ hồ.

Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi.

Có bùa thiêng nào kể lại được nỗi nhà mười năm xa vắng? Gỗ đá không thức dậy. Nhưng cảnh đấy người đây luống đoạn trường. Từng mái, vách, tường xiêu, nhện giăng, khói ám, mối xông, giậu nghiêng cổng đổ, thềm cỏ um tùm, khách cũ không còn ai, người mất, người tù, người biệt tích… há chẳng phải cảnh vật đang kể lại một câu chuyện vô ngôn của cảnh nhà đơn chiếc, cha mẹ già như đĩa dầu hao, vợ lặn lội chạy ăn từng bữa nuôi con chờ chồng, những đứa con lớn lên không có bóng dáng cha đó sao? Đoạn thơ nói về cảnh vật mà người đọc hình dung ra bao biến cải bể dâu, nhớ tới câu thơ của Nguyễn Gia Thiều: “Phong trần đến cả sơn khê/ Tang thương đến cả hoa kia cỏ này”. Chỉ cần nhắc một lần để rồi phải sống. Hãy nhớ, bên cạnh yếu tố triết học, những ám ảnh không gian, thời gian, cảm thức sâu sắc về lẽ biến dịch, về sự tuần hoàn, thơ Tô Thùy Yên chính là thi sử, là những trang đời âm thầm máu lệ của ông và những đồng hữu thời hậu chiến, và vượt lên tất cả là khí phách là thái độ sống của một người quân tử, không trói buộc lòng mình vào hận thù, khắc hận thù vào trong dạ nhưng không để nó làm vẩn đục đời sống tinh thần.

Những câu thơ dành cho người vợ tào khang khiến người đọc không khỏi xúc động.

Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng 
Chờ anh như biển vẫn chờ sông.

Ca dao Nam Bộ có câu: Chờ anh em quá sức chờ/ Chờ cho rau mác lên bờ trổ bông. Rau mác cùng họ với lục bình, nhưng lá nhọn như hình lưỡi mác. Hoa cũng tim tím như lục bình nhưng bông nhỏ và ít hoa hơn. Nếu lục bình nổi lênh đênh trên mặt sông, kênh rạch, thời gian sinh trưởng ngắn thì rau mác có thể sống nhiều năm, mọc cố định ở đồng bưng, về mùa nước nổi, rau mác theo nước vươn lên, cọng trắng phau, mập tròn, có thể bứt làm thức ăn. Rau mác luôn mọc chòi lên bờ, như ước muốn thoát khỏi thân phận cây dại. Rau mác trổ bông quanh năm, vậy mà cô gái đã trách chàng trai để mình “quá sức chờ” lối nói thậm xưng chỉ sự ngóng trông đằng đẵng. Vậy mà 10 năm đợi chờ, bao nhiêu mùa rau mác trổ bông? Đủ thấy tấm lòng người vợ trung trinh với tiếng lòng đồng vọng. Em vẫn chung thủy đợi chờ, như lẽ tất nhiên, như điều bình dị, như lòng biển mênh mông nhẫn nại.

Có người cho rằng, đây là so sánh thiếu tế nhị, thiếu mềm mại và không thích đáng. Kể ra không phải không có lý. Biển vĩ đại, sóng ngầm, bão tố, phong ba…đặt người đàn bà trong so sánh với biển, dữ dội quá, tuồng như không giống với những phẩm chất dịu hiền, thương khó mặc định của đàn bà Việt. Nhưng hãy đọc lại bao trang viết về những người vợ có chồng đi cải tạo, vừa lặng thầm chăm lo cha mẹ, vừa như con gà mẹ xù cánh che chở nuôi dạy con khỏi sự cô lập, kỳ thị của người đời, vừa thu vén chắt bóp thăm chồng đường xa vạn dặm, không chỉ đối mặt với bao khó khăn về vật chất, mà cái khổ lớn nhất là sự chịu đựng, o ép, đe dọa về tinh thần, thì không so sánh nào sâu sắc, hàm ơn bằng hình ảnh người vợ chờ chồng như biển chờ sông.

Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm đã nhạt mờ…
…Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao.

Những câu thơ này đặc phong vị Bắc. Nó làm người đọc liên tưởng tới câu ca dao thao thiết Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn/ Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ và Đêm qua ra đứng bờ ao/ Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ. Tôi không biết khi viết những điển tích, những chỉ dấu Bắc kỳ tuyệt đẹp này, ông đã đọc những câu ca dao Bắc này chưa, nếu chưa, thì quả thực chất Bắc đã ngấm vào hồn thơ ông hồn nhiên, nhuần nhị như năm xưa Tướng quân Trần Nhật Duật lên miền ngược uống rượu với người Man, thuần thục đến mức được coi như gã người Man chính hiệu.

Tôi đặc biệt thích khổ thơ:

Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh.

Tại sao lại là “bóng ma hờn tủi”? Là bởi vì bị bức tử về tinh thần, bị o ép về mặt thân xác, đã thành một con ma người tồn tại ở cái buổi nghi kị, tố giác, căm thù và độc địa. Nhưng nhân vật trữ tình trong thơ Tô Thùy Yên, luôn luôn cảm nhận rõ cảnh ngộ, thân phận, và có phần nào an phận, nhưng tuyệt đối không cúi đầu. Vượt lên tất cả nghịch cảnh là sự tiếc nuối, xót xa, thương yêu, bao dung và tha thứ. Buộc phải “chết”, bị ép vào tuyệt lộ nhưng vẫn không bao giờ đánh mất mình. Mười năm ta vẫn cứ là ta. Điềm đạm, ngang tàng, uy vũ bất năng khuất. Nếu ở khổ thơ trên, một bông hoa nở cũng đủ để nhà thơ cúi đầu cảm tạ, thì tới đây, ông lại “thương từng phế liệu”, những dấu tích thời chiến, dấu tích của cuộc đời khác, thuở được làm người.

Một mối tương liên khi nhìn những mảnh phế liệu mà nghĩ tới phận mình, mình giờ đây có khác gì mảnh phế liệu thành vô danh ngay trên mảnh vườn nhà. Nhìn thấy ở mỗi sự vật đều có linh hồn, để mà thương lấy mình, để mà sống cho nhân ái khoan hòa. Tâm thế đó dường như là một chất riêng của thơ Tô Thùy Yên. Ông vượt thoát các giới hạn, không phải để lảng tránh, mà để đối mặt, nhìn rõ bản chất, không để hận thù mà để thứ tha. Bởi thế, tôi cho rằng, thơ Tô Thùy Yên còn giàu Phật tính, không chỉ riêng trong bài thơ này.

Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thuở trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.

Từ ngàn xưa, trong tâm thức văn hóa Á Đông, Hạc được ví như chim thiêng, là linh vật bất tử trong thế giới loài chim. Hạc có sải cánh dài rộng, bay vút trời cao, vượt muôn trùng mây, sánh với người ưu tú có năng lượng sống dồi dào, mạnh mẽ đương đầu khó khăn sóng gió, lại trong sạch thuần khiết giống bậc quân tử, tiếng kêu thánh thót của nhân tài. Do đó, Hạc được xem như biểu tượng của trí tuệ và cốt cách thanh cao, vượt khỏi đời tầm thường tục lụy. Đây là khổ thơ xứng làm cái kết cho bản trường thi lộng lẫy, thể hiện sự song hành giữa cái hữu hạn bên cạnh cái vô hạn, giữa thanh cao và tục lụy, giữa buông xả và luyến thương. Đời là cõi tạm, còn ta chỉ như loài chim quý trót nặng lòng thương nhớ trần gian một thuở làm người mà về lại bên đời, để rồi vỗ cánh. Thế thì những tù đầy, oan trái còn xảy ra thêm vài lần nữa cũng có gì đáng sợ. Trong tầm vòng giới hạn của kiếp người, Tô Thùy Yên đã làm được điều mà ông hằng trăn trở. Dù đời người hữu hạn, vũ trụ vô cùng, nhưng bằng những thi phẩm để lại cho đời, ông xứng là con chim hạc bay qua miền đất này và cất tiếng lòng bi tráng, thống thiết, thánh thót, chạm tới tận cùng những cung bậc cảm xúc.

TA VỀ- Đâu chỉ là về với quê hương bản quán mà nó còn là cuộc trở về với bản thể, trở về với chính mình để truy tìm những câu hỏi lớn: Rốt cuộc, sau bao nhiêu thống khổ, ta là ai? Ta là cánh hạc vàng bay trong chiều thương nhớ để dâng đời khúc hát của một đời ly loạn, không phải để hận thù, chia biệt, mà để loài người biết thương xót nhau thêm.

Trong lần trả lời phỏng vấn của báo Người Việt gần đây, Tô Thùy Yên có kể lại một kỷ niệm rằng, thập niên 90, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền trong khi thu xếp để chờ đi Mỹ, khi đến nhà chơi có nói: “Đất nước này rồi sẽ phải trải qua những biến động lịch sử tan tác kinh hồn chẳng thể cản tránh được, tôi ra đi xa lánh, anh còn ở lại, anh hoặc là ai đó sẽ phải viết một bài thơ mà chất liệu là núi xương sông máu, là hàng triệu cái xác chết”. May mắn, tới bây giờ thi nhân Việt Nam chưa ai phải viết ra tác phẩm như Thanh Tâm Tuyền dự đoán, nhưng với khối lượng sáng tác đáng nể, Tô Thùy Yên đã tạc lên một Cõi Người, một Cõi Phật, một Cõi Lão, Trang, một Thời Đại đặc biệt bằng thi ca, và như thế, trong mắt những người yêu thơ Tô Thùy Yên, thì ông mãi mãi MỘT BÓNG TRÊN ĐƯỜNG LỚN.

Người sáng lập VinFast chưa có kế hoạch rót thêm tiền vào công ty xe điện này

Bloomberg

Tác giả: Katrina Nicholas Nguyen Kieu Giang

Cù Tuấn, dịch

14-2-2023

Ông Phạm Nhật Vượng. Ảnh: Linh Phạm/Bloomberg

Giám đốc điều hành của VinFast cho biết, tỷ phú Phạm Nhật Vượng vẫn chưa có kế hoạch đầu tư thêm tiền vào VinFast, ngay cả khi hãng xe điện Việt Nam này bị buộc phải trì hoãn kế hoạch xây dựng nhà máy ở Mỹ và đang cắt giảm nhân sự.

Ở đâu ra từ THU GIÁ quái đản?

Nguyễn Vạn Phú

19-3-2018

Không được độc quyền chữ “phí”

Mỗi lần nhìn thấy cụm từ “thu giá”, người viết bài này không khỏi nổi gai ốc vì sự xâm phạm thô bạo tiếng Việt bởi từ đời thuở nào tiếng Việt của chúng ta có cách nói như thế này. Căn do là bởi những người liên quan đến Luật Phí và lệ phí cứ khăng khăng bám vào từng câu chữ của luật này để giành lấy quyền sử dụng từ “phí” và “lệ phí” chỉ trong một số trường hợp luật có quy định; còn lại phải gọi là giá dịch vụ hết thảy.

Để khỏi trích dẫn dài dòng định nghĩa từ “phí” và “lệ phí” ghi trong luật, chúng ta biết chỉ dùng “phí” và “lệ phí” khi liên quan đến dịch vụ công và có trong danh mục ban hành kèm theo luật. Vì thế tiền chúng ta trả khi sử dụng các con đường xây theo dạng BOT không được gọi là phí vì không phải dịch vụ công và không nằm trong danh mục phí. Đơn giản vậy thôi và nghe qua cũng khá hợp lý!

Thế nhưng những người nằng nặc đòi công chúng phải sử dụng cụm từ “thu giá” phải hiểu một điều rất quan trọng: định nghĩa từ ngữ như trong luật là chỉ để dùng trong luật (Luật Phí và lệ phí cũng ghi rõ: “Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:) Luật định nghĩa xong không có nghĩa xã hội từ nay không được dùng “phí” và “lệ phí” theo cách xã hội đã dùng bấy lâu nay.

Trước đây tại Quốc hội nhiều đại biểu hay nói “phí chồng lên phí” nay những đại biểu này nếu phát biểu lại, e phải chuyển sang dùng “giá chồng lên giá”! Các nơi từng in tờ rơi giới thiệu “biểu phí dịch vụ”, “phí giao dịch môi giới”, “biểu phí dành cho khách hàng cá nhân”… nay phải sửa lại hết sao.

Chỉ cần nhìn hai ví dụ sau đây, chúng ta sẽ thấy ngay việc độc quyền từ “phí” nó phi lý như thế nào. Lâu nay ai cũng nói “viện phí” và “học phí”. Nay chiếu theo danh mục tiền đóng cho bệnh viện hay trường học không hiện diện nên không được gọi là phí nữa. Và theo những người chủ trương “thu giá”, không lẽ bây giờ chúng ta phải nói “viện giá” và “học giá” theo họ? Chắc chắn không có chuyện này, vậy tại sao cứ đòi dùng “thu giá”.

Nói tóm lại, mỗi từ thường có nhiều nghĩa; “phí” và “lệ phí” như định nghĩa trong luật là một trong những nghĩa này. Bộ Giao thông Vận tải cứ dùng theo luật và xã hội cứ dùng theo các nghĩa khác của từ “phí” mà tự điển đã ghi nhận. Như từ “học phí”, đố ai cấm được và đòi thay bằng giá?

Điểm thứ hai, cho dù rạch ròi như cách hiểu của những người chủ trương nói “thu giá” thì cách hiểu và áp dụng Luật Phí và lệ phí của họ cũng có vấn đề. Trong phụ lục số 2 kèm theo luật, là danh mục các sản phẩm, dịch vụ chuyển từ phí sang giá dịch vụ, “phí sử dụng đường bộ” được chuyển thành “dịch vụ sử dụng đường bộ của các dự án đầu tư xây dựng đường bộ để kinh doanh”. Tức trước nói “thu phí” thì nay phải nói là “thu tiền dịch vụ…” chứ sao lại gọi là “thu giá”.

Giá là biểu hiện trị giá của hàng hóa hay dịch vụ; còn khi mua bán, trao đổi, nó chuyển thành tiền hay các đơn vị đo lường khác của giá. Một căn nhà có giá 1 tỷ đồng hay 100 lượng vàng thì khi mua người mua trả tiền hay trả vàng để nhận nhà; người bán thu tiền hay thu vàng để giao nhà chứ có ai nói trả giá hay thu giá!

Lấy một ví dụ đơn giản khác trong danh mục này, phí trông giữ xe được chuyển thành dịch vụ trông giữ xe. Bạn đến gởi xe tại một bãi giữ xe, trước đây bạn nói trả phí giữ xe nay ắt do thói quen bạn cũng sẽ giữ nguyên cách nói này. Quan chức, để đúng theo luật, sẽ nói thu tiền giữ xe? Giá dịch vụ giữ xe là tên gọi cho biết dịch vụ đó tốn bao nhiêu tiền; còn khi miêu tả hành động thanh toán giá dịch vụ này, người ta sẽ nói trả tiền, thu tiền chứ có ai nói “trả giá” “thu giá” đâu?

Cho dù nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, dùng từ cho chính xác theo luật thì cũng nên viết cho đúng tiếng Việt. Chẳng hạn, chi phí cho việc khám chữa bệnh gọi là giá dịch vụ khám chữa bệnh chứ không dùng phí như trong cụm từ phổ biến “viện phí” nữa thì cũng nên nói thu tiền dịch vụ chứ đừng o ép tiếng Việt đẻ ra cái cụm từ “thu giá” không giống ai.

John McCain bị mất “tên”

Ted Osius

27-7-2021

TNS John McCain và cựu đại sứ Mỹ tại Hà Nội Ted Osius. Ảnh: FB tác giả

Ngay khi tôi đến Hà Nội, dòng chữ khắc về ông John McCain trên tượng đài cạnh hồ Trúc Bạch đã được sửa lại. Khi ông McCain thăm Việt Nam vào tháng 5/2015, tôi dẫn ông cùng một số thượng nghị sĩ khác đến thăm tượng đài này, sau khi nó được chỉnh trang và trùng tu.

Tuyên giáo, tuyên truyền và…. Y học bó tay!

RFA

Đồng Phụng Việt

29-3-2020

Hình minh hoạ. Khách du lịch đeo khẩu trang đi bộ trên phố ở Hà Nội hôm 17/3/2020. Nguồn: AFP

Dẫu dịch viêm phổi Vũ Hán do COVID-19 tiếp tục lan rộng, số người bị lây nhiễm và số người chết trên toàn thế giới tăng từng giờ nhưng nhân loại vẫn tin rằng y học sẽ tìm ra thuốc đặc trị, cũng như vaccine phòng ngừa loại virus này…

Một cuộc lột trần xã hội khủng hoảng

FB Nguyễn Tiến Tường

31-3-2019

5 đứa trẻ hành hạ thể xác và tinh thần, lột quần áo và dí điện thoại vào vùng kín của cô bé dậy thì. Đây là một vụ việc hình sự cần được khởi tố. Vì dù những đứa trẻ vị thành niên kia chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì ông hiệu trưởng có hành vi không tố giác tội phạm và nhất là cô giáo chủ nhiệm với việc bắt học sinh xoá clip, đã có hành vi che dấu tội phạm.

Thử ngắm xe VF8

Tiến Nguyễn

19-2-2023

Ảnh: FB tác giả

Hôm nay, nhà hết bánh đậu xanh. Lên khu Century mall mua. Thấy để hai chiếc xe VF8 quảng cáo. A ha! Thử xem sao, biết đâu mình bớt thành kiến.

Trước nhất đi một vòng xem bên ngoài. Nói chung thì cũng khá… sexy!

Mở cốp trước, cốp sau xem sao. Thì nói chung có cảm giác thế này:

– Những nơi ‘khuất mắt trông coi’ thì làm ẩu! Ngược hẳn lại với vẻ ngoài.

– Vật dụng trong cốp xe có chất liệu rẻ tiền, nhựa mỏng, lót vải nỉ xù xì.

– Cả đến chỗ nối bình điện xem cũng rất thô sơ. Vẻ ngoài cũng thế.

Nói chung thì được, nhưng có cái tay cầm mở cửa xe thì nó không ăn nhập gì đến design chung. Nếu toàn vẻ chiếc xe thì cốt làm cho thanh thì cái tay cầm nó lồi ra như… cái quai nồi. Như chiếc xe rẻ tiền hàng mấy chục năm trước.

Từ cách đây cả chục năm, người ta đã làm cho cửa xe lõm xuống, khiến cho tay mở cửa chỉ nhô ra rất ít. Các xe gần đây, như Tesla, nó làm ẩn hẳn, phẳng lì trên cửa xe, nhấn vào thì nó mới lộ ra, trông rất thanh.

Bên trong nội thất thì OK.

Ghế da: Da chất lượng tốt, hầm hố hơn chiếc Tesla Y của mình. Thế nhưng dáng vẻ ghế Tesla lại thanh lịch hơn. Đó là do với Model Y. Chứ nếu so với Model S, X của Tesla thì nội thất VF8 không cùng ‘đẳng cấp’. Dẫu sao thì cũng cho điểm là OK.

Mình táy máy thử nghịch với màn hình xem sao.

Vừa bấm mấy nhát nó nhảy lên màn hình… báo lỗi: ‘Electric park brake fault. Service required’.

Thấy mẹ! Cái thắng tay nó hư rồi! Thôi cũng hổng sao. Mình táy máy bấm tiếp. Bấm vừa hai phát nó lại báo lỗi!

Lần này, lỗi khác, thực sáng tạo: ‘Emergency call system – fault. Service required’. Lần này là lỗi ‘nghiêm trọng’.

Nó hiển thị màu đỏ le đỏ lét!

Má ơi! Thấy ghê quá… hổng giám táy máy bấm tiếp. Lỡ nó cháy nổ thì tiêu.

Ảnh: FB tác giả

Mình vô cùng ngạc nhiên! Xe này là xe mới toanh. Hơn nữa nó là xe ‘biểu diễn’ để câu khách. Bởi thế, nó phải được chăm chút kỹ lưỡng, không để ‘lộ hàng’. Như thế này thì cũng như cô ca sĩ… ẩu đến nỗi ra trước ánh đèn sân khấu mà để mặt mộc, đầu tóc bù xù, không chút phấn son, còn ho sù sụ như người mắc covid!

Xuống xe, cô bán hàng người Mexico đon đả hỏi han: ‘What were you thinking about the car? You like it?’

Khó nói ghê!

Mình trả lời nước đôi: It’s really cute! But I prefer the Tesla model Y, it’s much more cheaper than the VF8!

Cô ấy cũng cười, có vẻ đồng ý và cám ơn mình… thành thật.

Mình chỉ cho cô ấy xem màn hình lỗi và hỏi tại sao. Cổ lúng túng bảo:

– Thì chắc tại xe để đây, cửa mở toang nãy giờ, chắc nó sắp… hết điện.

Rõ ràng là cổ nói đại!

Mình tức cười quá xá, cũng thông cảm. Nếu mình đứng đây bán hàng như cổ, mình cũng phải tìm cách ‘giải thích’ cho qua chuyện. Mình biểu cổ là mình cũng là kỹ sư, thấy mấy lỗi này là biết ngay lý do.

– Cô biết sao hông?

Cổ hỏi… sao?

Mình biểu… vì mấy thằng kỹ sư VinFast nó bị thúc sau đ*t, phải ra sản phẩm cho thiệt lẹ. Nó cắm đầu cắm cổ làm… cho xong. Nên nó ẩu tả! Kệ m* nó, miễn sao xong thì thôi!

Sản phẩm như vầy mà mang ra đây biểu diễn, làm khổ dân bán hàng như các em. Anh thông cảm với nỗi khổ của dân Sales lắm!

Cổ cười tươi và hai bên ‘say good bye, take care!’

Một lần nữa, Hà Nội lại nhục nhã cúi đầu

VNTB

Phương Thảo

24-3-2018

Theo nguồn tin của BBC, Việt Nam đã hủy bỏ một dự án dầu lớn tại Biển Đông lần thứ hai trong vòng một năm, do áp lực của Trung Quốc.

PetroVietnam – tập đoàn dầu khí thuộc sở hữu nhà nước yêu cầu Repsol – công ty năng lượng của Tây Ban Nha phải hoãn dự án ngoài khơi bờ biển phía đông nam. Điều đó có nghĩa là Repsol và đối tác có thể mất đến 200 triệu đô la đã được đầu tư lần này.

Tin tức này hết sức bất ngờ khi các công việc chuẩn bị cuối cùng cho việc khai thác thương mại đang được tiến hành.

Bill Hayton nhận định rằng “với Trung Quốc có thể coi đây là một thắng lợi đáng kể. Quyết định yêu cầu Repsol hoãn khoan dầu lần thứ hai của Việt Nam dường như chứng minh rằng việc Hoa Kỳ phô diễn sức mạnh vừa rồi đã không có tác dụng làm thay đổi các tính toán chiến lược của Việt Nam”.

Việt Nam đã và đang tìm thăm dò và khai thác mỏ khí Cá Rồng Đỏ từ năm 2009. Tháng 4 năm 2017, Chính phủ Việt nam đã chấp thuận dự án phát triển mỏ khí Cá Rồng Đỏ cách bờ biển Vũng tàu 440km. Được biết mỏ dầu sâu nhất này có với trữ lượng 45 triệu thùng dầu có thể cho phép khai thác 25.000 – 30.000 thùng dầu và 60 triệu m3 khí mỗi ngày.

Theo dự tính, hôm thứ Năm giàn khoan Ensco 8504 sẽ khởi hành từ Singapore đến khu vực Block 07/03 để tiến hành khai thác thương mại. Đây là một phần của dự án Cá Rồng Đỏ mà Hà Nội kỳ vọng sẽ mang lại 15% lợi ròng cho PVS nhằm bù đắp cho việc PVS đã và đang chịu sụt giảm doanh thu 3 năm liền do giá dầu sụt giảm. Nếu thông suốt thì dự án sẽ mang lại lợi nhuận ổn định từ quý một năm 2020 và có lợi nhuận sau thuế là 180 tỷ đồng.

Thông tin từ CTCK KIS Việt Nam cho biết giá trị hợp đồng của PVS với công ty Yinson Malaysia có giá trị ước tính khoảng 1,2 tỷ USD. Liên doanh PVS (51%) và Yinson (49%) cũng đã ký kết được hợp đồng cung ứng FPSO trị giá 800 triệu USD cho mỏ Cá Rồng Đỏ.

Tháng 7 năm 2017 Hà nội đã lật đật cho Repsol rút lui ở bãkhu vực Block 136/03 sau khi bị Trung quốc đe doạ tấn công vào khu vực đảo Vành Khăn ở Biển Đông. Việc rút lui lần dầu tiên được cho là tránh đối đầu với Trung quốc theo lệnh của Nguyễn Phú Trọng và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Đinh Xuân Lịch. Cuộc rút lui ấy được coi là sự cúi đầu nhục nhã của Hà nội trước sức ép của Trung quốc.

Hàng không Mẫu hạm Carl Vinson vừa mới rời Việt nam hai tuần lễ, Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa mới kết thúc các chuyến công du đến Ấn Độ, New Zealand, Australia. Các ký kết song phương về đối tác chiến lược vẫn chưa kịp ráo mực với một kỳ vọng Việt nam với sự ủng hộ của bộ tứ – Hoa kỳ Ấn Độ Australia Nhật – sẽ dám đứng thẳng lưng, nhìn thẳng vào mắt đối đầu với Trung quốc.

Nhưng không, một lần nữa, Hà nội lại nhục nhã cúi đầu…

Chống dịch như chống giặc, chống giặc như con… cá sặc!

Mai Bá Kiếm

30-7-2021

Tiền đề của Chỉ thị 16 đặt ra: “Gia đình cách ly với gia đình, thôn bản cách ly với thôn bản, xã cách ly với xã, huyện cách ly với huyện, tỉnh cách ly với tỉnh…”

“Tâm thư” gửi tân Giám đốc BV Bạch Mai

Thanh Hằng

2-4-2020

Từ sáng đến giờ, MXH cãi nhau chí chóe về những phát ngôn của lãnh đạo BV Bạch Mai trên báo. Nhiều người gửi link cho tôi hỏi, tôi cũng chịu.

Chuyện của bên thắng và bên thua cuộc (Phần 2)

Nguyễn Thúy Hạnh

2-4-2019

Tiếp theo phần 1: Bác Hiền. Phần 2: Chuyện tù cộng sản của một người lính VNCH

Binh lính VNCH bị bắt tập trung vào ngày 30/4/1975. Nguồn: AFP/Getty Images.

Chỉ một ngày sau 30/4, chính quyền mới đã cho loa gọi những binh lính VNCH ra trình diện để “nhận khoan hồng, về sống với gia đình”. Họ ra rả nói về chính sách hoà hợp hoà giải, toàn những điều tốt đẹp.

Buồn và ngán ngẩm!

Nguyên Tống

23-2-2023

Thái Hạo và GS Hoàng Dũng. Ảnh: FB Thái Hạo

Mình vừa đọc một stt của facebooker Thái Hạo, nói rằng anh ta được mời đến nói chuyện với phụ huynh học sinh về chủ đề sách vở, giáo dục tại Thanh Hoá vào sáng mai, nhưng sát giờ thì Ban tổ chức nói là huỷ lời mời vì có ý kiến của bên an ninh gì đó là không nên mời diễn giả Thái Hạo. Mình thấy thực sự buồn và ngán ngẩm.

Khi những hung thần quyền lực tự biến thành tội đồ

Blog VOA

Bùi Tín

27-3-2018

Ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị của ông rất e ngại phải mở những phiên tòa xét xử những công thần của chế độ, những hung thần quyền lực đã tha hóa, nhưng đã chót hẹn cho củi khô hay củi tươi vào lò đã cháy to, ông không thể nào chơi bài lùi. Ảnh: AP

Chính quyền cộng sản trong cơn suy thoái không sao kiềm chế nổi đang phơi bày những thảm cảnh chưa từng có.

Ủy viên Bộ chính trị, ủy viên trung ương đảng, bộ trưởng, cán bộ cao cấp bị trói tay, ra tòa, xộ khám, các cán bộ cộng sản cấp cao bắn giết nhau, các đồng chí thù địch triệt hạ nhau là bức tranh diễn ra hầu như hàng ngày.

Vaccine và tấm gương các bộ

Mai Quốc Ấn

1-8-2021

Có câu cán bộ là “đầu tàu gương mẫu”. Tôi thấy cán bộ nước ta thực hiện rất tốt tấm gương cho nhân dân trong việc tiêm vaccine.

Khẩu trang và Zoom

Nguyễn Hà Quân

6-4-2020

Trung Quốc và Mỹ đang so găng quyết liệt trong bão covid-19. Tờ New York Times đay nghiến: “Bỏ qua nhu cầu hiển nhiên trong việc ứng phó với đại dịch ngay từ đầu, chính quyền Trump đã gia tăng xuất khẩu các mặt hàng như khẩu trang y tế, máy thở cùng các thiết bị thiết yếu khác tới Trung Quốc hơn là trù bị cho các nhân viên y tế của mình. Cụ thể khi đại dịch chưa bùng lên ở Mỹ, trong tháng 1 và 2, xuất khẩu từ Mỹ các mặt hàng máy thở và bơm oxy (oxynation) tăng 138%, khẩu trang y tế tăng 1315%, thiết bị bảo hộ tăng 493%, sản phẩm khử trùng tăng 225% (theo khảo sát của Census Bureau). Nhiều người Mỹ đang phải đánh cược mạng sống vì sự thờ ơ, chậm trễ, dối trá của chính quyền Trump“.