Giữa lúc chúng ta vừa có bản Tuyên Bố Biển Đông, dưới sự kiện căng thẳng nóng bỏng ở Bãi Tư Chính của 10 tổ chức và gần 600 chữ ký cá nhân, ca khúc của một Khuyết Danh nào đó bỗng nổi lên như một niềm thôi thúc mãnh liệt, hùng tráng.
Bộ Quốc phòng Nhật ngày 29.7 thông báo 2 tàu chiến Trung Quốc là tàu hộ vệ Kinh Châu (532, Jingzhou – Type 054A) và tàu khu trục Thái Nguyên (131, Taiyuan – Type 052D) đã băng qua eo biển Miyako hướng xuống phía nam vào sáng 27.7.
Trong động thái rõ ràng là uy hiếp Đài Loan, Trung Quốc liên tiếp thông báo tiến hành hai cuộc tập trận lớn ở Biển Đông và Hoa Đông.
Cụ thể, theo một thông báo của Cục Hải sự tỉnh Chiết Giang ngày 28.7, quân đội Trung Quốc sẽ tiến hành cuộc tập trận kéo dài 5 ngày từ 17 giờ ngày 28.7 đến 17 giờ ngày 1.8 ở khu vực biển Hoa Đông nối liền bởi 4 điểm có tọa độ(1)30°03′00″N、123°14′00″E;(2)30°03′00″N、124°44′00″E;(3)28°53′00″N、124°44′00″E;(4)28°53′00″N、123°14′00″E.
Hành động của nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 trong những ngày qua có các hoạt động vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông là rất nghiêm trọng nhưng người dân không hề xuống đường phản đối. Mà nó không ra đấy để hóng mát đâu, nếu thấy có dầu là nó hạ đặt giàn khoan trong tương lai đấy.
Trong post trước tôi viết VN có jurisdiction trên bãi Tư Chính, do đó có quyền chặn và yêu cầu tàu Haiyang Dizhi 8 rời vùng biển này nếu nó không chỉ đi qua vô hại. Tuy nhiên chắc chắn TQ sẽ không chấp nhận điều này vì bản chất TQ không chỉ tranh chấp sovereign rights của VN trên bãi Tư Chính (và cả lô 06.01) mà là phạm vi EEZ của VN dựa trên “đường lưỡi bò” của họ.
Hôm trước ngồi nói chuyện với một anh bạn ở SG về các đề tài đang “nóng” trên mạng gần đây tôi mới nhớ mình chưa viết gì về đường sắt cao tốc và Biển Đông dù trước đây rất “mạnh mồm” về những topic này. Nhân thấy nhiều người rất “phẫn nộ” về một bài viết của nhà báo Hoàng Hải Vân (HHV) liên quan đến Biển Đông tôi xin nêu một số ý kiến cá nhân về bài viết này như sau.
TQ cho tàu địa chất hoạt động thăm dò địa chấn bãi trầm tích Tư Chính-Vũng mây, thuộc hải phận Kinh tế độc quyền (Zone Economique Exclusive – 200 hải lý tính từ đường cơ bản) của VN liên tục đến nay đã sang tuần lễ thứ tư. Bãi này TQ đặt tên là Vạn An Bắc, bao gồm các lô 133, 134, 135, 136, 157, 158, 159 trên “bản đồ dầu khí” của VN. Đồng thời với việc thăm dò địa chấn, TQ cho tàu hải cảnh quấy rối sinh hoạt khai thác tại lô 6.1 thuộc bãi trầm tích Nam Côn sơn, do tập đoàn dầu khí Rosneft của Nga hiện đang khai thác. Nguyên nhân vụ “quấy rối” được (tờ báo SCMP – Hoa nam buổi sáng) cho biết là VN tiếp tục gia hạn giấy phép khai thác cho tập đoàn Rosneft ở lô 6.1.
Đây là bài lược thuật và phản biện của tôi (Trần Đức Anh Sơn) và chị Trần Thị Vĩnh Tường (ở Santa Ana, CA, USA) với một học giả Trung Quốc là Nông Hồng tại Hội thảo về xung đột trên Biển Đông tổ chức ở ĐH Yale vào tháng 5/2016.
Trong bối cảnh hội nhập hôm nay, bất luận tình hình chính trị có biến chuyển thế nào thì hướng phát triển của Việt Nam vẫn là hướng biển, tức hướng Đông. Ngay cả Chiến lược Kinh tế Biển của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã xác định tới năm 2020 kinh tế biển sẽ góp hơn 50% GDP cả nước, và con số này còn tăng lên nữa theo thời gian.
Hai đảng cộng sản Tàu và cộng sản Việt gần như trong bất cứ cuộc hội họp nào cũng đều nêu lên câu nói “Tình hữu nghị Việt – Trung đời đời bền vững”, rồi nhắc lại lịch sử quan hệ từ thời Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông… để làm bằng chứng!
Ông Ryan Martinson, trợ lý giáo sư của Trường Cao đẳng Hải Chiến Hoa Kỳ tiếp tục cập nhật tình hình vụ đối đầu xung quanh Bãi Tư Chính. Chiều ngày 25/7/2019 (giờ VN), ông Martinson viết: “Tôi nhận thấy rằng tàu tuần duyên Trung Quốc số hiệu 3501 nặng 5000 tấn cũng đang tham gia hộ tống [tàu Hải Dương Địa Chất 8]”.
Từ ngày 3 đến 21 tháng 7 năm 2019, Trung Quốc ngang nhiên đưa tàu thăm dò Hải Dương 8 với sự hộ tống của nhiều tàu cảnh sát biển và dân quân biển xâm nhập Vùng Đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa Việt Nam tại khu vực bãi Tư Chính, Vũng Mây, nơi Việt Nam đang thực hiện các hoạt động dầu khí của mình theo đúng Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS). Đây là một hành động rất nguy hiểm đối với an ninh, hoà bình của khu vực; tiếp tục leo thang trong quá trình nhất quán thực hiện tham vọng bá quyền biển Đông của Trung Quốc.
Hôm kia có người hỏi ý kiến ra sao về vụ “băng cháy”, sau bài phỏng vấn ông Nguyễn Trường Giang, nguyên đại sứ VN tại Brunei. Theo ông thi “chúng ta có khoảng 2.400 tỉ mét khối băng cháy”.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từng nói: “Quân đội Trung Quốc triệu tập là có, đến là có thể đánh và đánh là có thể thắng, để bảo vệ chủ quyền và các quyền liên quan ở Biển Đông”.
Thứ mà họ Tập gọi là “bảo vệ chủ quyền và các quyền liên quan ở Biển Đông” chính là bảo vệ 9 đoạn lưỡi bò bịa đặt mà tổ tiên của họ sau bao lần “sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ” còn chưa thể nghĩ ra.
Ngày 19/7/2019, lần đầu tiên Bộ Ngoại giao Việt Nam thừa nhận, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở biển Đông. Trước đó, ngày 16/7/2019, người phát ngôn Bộ Ngoại giao chỉ dám nói chung chung là các hoạt động của “nước ngoài” trên vùng biển Việt Nam, nếu không được sự đồng ý của Việt Nam là vô giá trị.
Hôm nay (21/7), trên Tuần Việt Nam có 1 bài báo ghi lại ý kiến rất đáng chú ý của ông Nguyễn Trường Giang, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Brunei, nguyên Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao. Bài này có tựa: “Mưu đồ chiến lược của Trung Quốc trên biển Đông”.
Mấy ngày nay Trung Quốc cho tàu ”Haiyang Dizhi-08” ngang nhiên thu nổ địa chấn tìm kiếm dầu khí tại khu vực bãi Tư Chính của Việt Nam tạo nên điểm nóng cực kỳ nguy hiểm khiến dư luận trong và ngoài nước vô cùng quan ngại làm tôi nhớ tới vùng biển đó thời TC-93 & PV-94.
TC-93 là chương trình thu nổ địa chấn đầu tiên nhằm đánh giá cấu trúc địa chất và tiềm năng dầu khí của khu vực bãi Tư Chính do Petrovietnam giao cho Công ty Thăm Dò & Khai Thác Dầu Khí PVEP triển khai. Chúng tôi đã thuê tàu khảo sát “M/V Akademik Gambursev” của “Liên Đoàn Địa Vật Lý Viễn Đông-DMNG” thực hiện thu nổ thành công 9.500km tuyến địa chấn 2D mạng khu vực và bán chi tiết từ tháng 3 đến đầu tháng 7 năm 1993.
Tham gia giám sát trên tàu có lão tướng Nguyễn Cường Binh và Nguyễn Trung Thành. Quá trình thu nổ thực địa, ta cũng gặp tàu Trung Quốc lởn vởn từ xa và máy bay lượn trên đầu. Tài liệu thực địa sau đó được DMNG đem về xử lý ở Xakhalin. Anh Trần Đức Chính và tôi có sang kiểm tra một lần, mang mặt cắt giấy về sau đó anh Hà Quốc Quân và Du Hưng sang nghiệm thu lần cuối mang băng đã xử lý về nước. Chuyến đi Xakhalin lần đó thật ấn tượng với cái lạnh âm 20-25 độ C, chủ nhật đi câu cá trên băng và tình cảm nồng hậu chân thật của các bạn người Nga. Tài liệu TC-93 sau xử lý được minh giải bởi nhóm chuyên gia DMNG do V.Kudelkin, V. Kuznetsov cầm đầu và PVEP do Trần Quang Hoan chủ trì tại số 4 Hoàng Diệu Vũng Tàu sử dụng trạm “Integral” thuê của hãng “Petrosystems”.
Tháng 11/1993 báo cáo hoàn thành, lần đầu tiên đưa ra bức tranh tổng thể về cấu trúc địa chất và tiềm năng của khu vực Tư Chính-Vũng Mây. Trên cơ sở báo cáo đó và thực hiện chỉ thị của Petrovietnam nhóm địa chất địa vật lý của PVEP tiếp tục đánh giá chi tiết, xác định được 3 vị trí trên cấu tạo Tư Chính chuẩn bị cho chiến dịch khoan năm 1994 mang tên PV-94.
Phương án khoan giếng thăm dò đầu tiên mang tên PV-94-2X trên cấu tạo Tư Chính do PVEP thiết lập, được Petrovietnam phê duyệt và Chính Phủ chấp thuận sử dụng giàn tự nâng “Tam Đảo-01” của Vietsovpetro. Giếng được khoan mở lỗ giữa tháng 5 và kết thúc vào nửa cuối tháng 10 năm 1994 đạt chiều sâu trên 3.300m. Trong quá trình khoan giếng gặp sự cố mất dung dịch trầm trọng. Được sự cho phép của PVN, chúng tôi đã nhờ chuyên gia khoan của BP và Mobil tổ chức trao đổi kinh nghiệm khắc phục với chuyên gia khoan của VSP, PVEP vào đầu tháng 7/1994.
Tôi nhớ đoàn BP do Harry Thierens Giám đốc khoan dẫn đầu; đoàn Mobil do Tổng Giám đốc William Darken cầm đầu. Nhờ áp dụng các giải pháp sau cuộc trao đổi này mà giếng khoan tiếp tục được thi công an toàn, vượt chiều sâu thiết kế. Để khoan được giếng PV-94-2X, trước tiên là sự cố gắng của Liên Doanh Vietsovpetro với các kỹ sư khoan như Vũ Thiện Lương, Trần Xuân Đào, Lê Quang Nhạc, tiến sỹ địa chất Trần Lê Đông, các kỹ sư Nguyễn Văn Đức, Vũ Tuấn Anh, Trần Sỹ Hậu, Hoàng Phước Sơn, Phạm Tất Đắc; của các anh Phan Văn Ngân, Hoàng Bá Cường, Cao Tất Toại, Nguyễn Văn Chiến ở PVEP… dưới sự chỉ đạo và ủng hộ hết mình của Petrovietnam và Chính Phủ.
Giếng khoan đã mở ra lát cắt địa chất quan trọng giúp các nhà khoa học của ngành dầu khí và của cả nước có những định hướng tốt hơn về kế hoạch tìm kiếm thăm dò dầu khí tiếp theo. Và trên tất cả là cho Trung Quốc và toàn thế giới thấy chúng ta đã thực thi chủ quyền tại bãi Tư Chính, vùng lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của Việt Nam.
Sau PV-94, Công Ty Thăm Dò Khai Thác Dầu Khí PVEP tiếp tục tiến hành khảo sát địa chấn phương án TC-95 với gần 3.000km tuyến. Phương án này do tàu Zephyr của DMNG thực hiện thu nổ, xử lý ngay tại Vũng Tàu và minh giải tại Thanh Đa do nhóm V. Kudelkin, V.Kuznetsov cùng nhóm của Du Hưng thực hiện có sự tham gia tích cực của các kỹ sư trẻ Hoàng Ngọc Đông và Nguyễn Thành Long.
Năm 1998, PVEP thu nổ phương án TC-98 với gần 4.000km tuyến và kết hợp thu nổ cho Conoco khoảng 2.000km lô 133,134; năm 2006 thu nổ phương án TC-06 gần 18.000km tuyến nữa cho ExxonMobil phục vụ chương trình nghiên cứu chung khu vực các lô 155-159. Cũng năm 2006, PVEP được Bộ Ngoại Giao ủy quyền ký hợp đồng với “Liên Đoàn Địa Vật Lý Biển Bắc-SMNG” trụ sở tại Murmansk thuê tàu “Polshkov” khảo sát địa chấn xác định ranh giới ngoài thềm lục địa Việt Nam nhưng bị Trung Quốc cản phá quyết liệt, phải làm đi làm lại nhiều lần, nhiều đợt mãi 2008 mới xong. Năm 2008, Công Ty ExxonMobil hoàn thành báo cáo nghiên cứu chung, trong đó có tên các anh Hoàng Ngọc Đang, Nguyễn Anh Đức, Nguyễn Du Hưng, Cù Minh Hoàng, Hoàng Việt Bách và tôi.
Nhắc lại chuyện cũ để tất cả những ai quan tâm nhớ lại một thời chúng tôi cùng đồng đội trong ngành dầu khí đã lăn lộn tìm dầu ở khu vực bãi Tư Chính, thực hiện chủ quyền thiêng liêng ở vùng biển đảo này.
Hôm nay, Trung Quốc không chỉ đe dọa, cản phá hoạt động dầu khí của PVN và các công ty nước ngoài làm ăn với Việt Nam mà còn ngang nhiên đem tàu vào khảo sát tìm dầu ở vùng lãnh thổ của ta, tạo nên điểm nóng cực kỳ nguy hiểm. Nếu nhớ những thất bại cay đắng khi xâm phạm bờ cõi Việt Nam thì Trung Quốc nên dừng ngay những hoạt động phi pháp và rút về nước. Tôi xin mượn lời sứ thần Giang Văn Minh khi đốp thẳng vào mặt hoàng đế Sùng Trinh của nhà Minh rằng “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” (Bạch Đằng từ xưa vẫn đỏ vì máu) để kết thúc bài viết này.
Tháng 7, 2016, từ các trang mạng xã hội, diễn đàn, cho đến các tầng lớp, thế hệ Việt Nam trong cũng như ngoài nước, một luồng sóng cảm tình dành cho Philippines tràn ngập, nhiều hơn cả khi quốc gia này bị cơn bão Yolanda càn quét cách đây ba năm.
Đây là một tình cảm rất tự nhiên giữa những người cùng số phận nhỏ nhoi nhưng phải đương đầu với một Trung Cộng to lớn và đầy tham vọng.
Ủng hộ Philippines không có nghĩa ủng hộ chủ quyền của Phi trên các đảo Philippines đòi hỏi mà là ủng hộ một nước dân chủ nhưng sức yếu chống lại một Trung Cộng bá quyền bành trướng.
Phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration, PCA) không có nghĩa sẽ làm ngưng tranh chấp và phần thắng chỉ thuộc về Philippines vì rất nhiều quốc gia trong vùng có quyền lợi trực tiếp nhưng chưa chọn cách giải quyết tranh chấp qua phương pháp trọng tài.
Ý nghĩa quan trọng trong phán quyết là quốc tế hóa được cuộc tranh chấp, tạo khả năng mặc cả đa phương giữa các bên liên hệ trước một hội nghị hay trước tổ chức trọng tài quốc tế, giới hạn chiếc bẫy “thảo luận song phương” chỉ nhằm “câu giờ” của Trung Cộng.
Với những quốc gia chủ trương quốc tế hóa Biển Đông, chiến thắng của Philippines mở ra cánh cửa đàm phán xa hơn về quyền lợi và trách nhiệm một cách bình đẳng giữa các nước trong vùng.
Với các cường quốc Mỹ, Nhật, chiến thắng của Philippines giúp cho họ thêm lý do quốc tế để can thiệp cụ thể và tích cực hơn trong tranh chấp.
Một cái tát của PCA chỉ nhắm vào mặt Trung Cộng thôi, đó là việc phủ nhận quan điểm “quyền lịch sử”, lý luận cốt tủy mà Trung Cộng dùng để biện hộ cho “đường lưỡi bò” trên Biển Đông.
Như chúng ta đều biết, trong hầu hết các văn bản, tuyên bố, phát biểu, các lãnh đạo Trung Cộng luôn nhắc tới nhắc lui câu “quyền lịch sử của Trung Quốc” để cho rằng 90% của Biển Đông vốn thuộc về Trung Quốc không phải hôm nay mà từ hai ngàn năm trước.
Nhưng tòa phán: Toà nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển, ngư dân từ Trung Quốc và các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây.
Vì vậy, toà kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong “đường 9 đoạn.”
Đặng Tiểu Bình và “quyền lịch sử”
Vào thập niên 1960, Đặng Tiểu Bình là trưởng phái đoàn đại diện Trung Cộng trong đàm phán với Liên Xô về chủ quyền của các đảo Trân Bảo, Ẩn Long và Hắc Hạt Tử trong khu vực sông Ussuri.
Khi có phiên họp, phái đoàn họ Đặng không chỉ mang theo giấy tờ tài liệu mà còn chở theo nhiều toa xe lửa chứa đầy sách vở và đồ vật để chứng minh “quyền lịch sử” của Trung Quốc trên các đảo này.
Trung Quốc vốn là một nước đông dân, diện tích rộng, có nền văn minh phát triển sớm, có chiều dài lịch sử mấy ngàn năm, do đó, việc tổ tiên họ đã từng đến, từng đi đánh cá, từng đặt chân một đôi ngày, từng mô tả trong văn chương thơ phú về các hòn đảo đó thì cũng không có gì là đáng ngạc nhiên.
Những tài liệu phía Đặng Tiểu Bình đưa ra hay vật dụng họ góp nhặt được dù bao nhiêu cũng không thuyết phục Liên Xô hay chứng minh những đảo đó thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Dĩ nhiên hai đàn anh CS không đưa tranh chấp ra PCA như ngày nay.
Sau hơn 20 năm vừa đánh vừa đàm, một hiệp ước biên giới Liên Xô – Trung Cộng đã được ký kết lần đầu vào tháng 10 năm 1991, lần nữa vào tháng 10 năm 2004 với Nga và lần cuối cùng vào tháng 7, 2008 cũng với Nga.
Cả Trung Cộng lẫn Nga đều biết, lý do chính của xung đột trước đây không phải là lãnh thổ mà là sự tranh chấp quyền lực của hai nước cộng sản đàn anh trong phong trào cộng sản quốc tế.
Khi Liên Xô sắp sụp đổ, chủ quyền trên các đảo vốn không chứng tỏ một tiềm năng kinh tế nào không còn là yếu tố quan trọng để giằng co, tranh chấp nữa. Cái gọi là “quyền lịch sử” không đóng vai trò gì trong hiệp ước biên giới giữa Liên Xô và sau đó là Nga với Trung Cộng.
Tân Hoa Xã giải thích “quyền lịch sử”
Theo báo Time, hôm 12 tháng 7, 2015 các đài truyền hình Trung Cộng cho chiếu một số tranh hoạt họa của Tân Hoa Xã như là cách để giải thích cái gọi là “quyền lịch sử” của Trung Cộng trên Biển Đông.
Một trong số tranh hoạt họa là mẩu đối thoại ngắn giữa ba con thú đại diện cho ba thành phần trong vụ kiện.
Một con cáo đại diện cho PCA, một con khỉ tí hon đại diện cho Philippines và con Panda dễ thương đại diện cho Trung Cộng.
Con Panda trả lời câu hỏi tại sao Trung Cộng có “quyền lịch sử”, bởi vì “chúng tôi đã giong buồm và đánh cá trên Biển Đông ngay cả trước khi Chúa Jesus ra đời.”
Việc cho rằng người dân Trung Hoa đã từng “giong buồm và đánh cá” nên Biển Đông thuộc Trung Cộng nghe phi lý đến mức buồn cười; tuy nhiên, đây lại là lý luận chiến lược mà Trung Cộng áp dụng trong đàm phán biên giới từ ngày lập quốc CS năm 1949 tới nay.
“Quyền lịch sử” của Trung Cộng đúng như PCA phán quyết không có giá trị gì nhưng với không ít dân Trung Cộng bị tuyên truyền tẩy não, đó lại là quyền “thiêng liêng, bất khả xâm phạm.”
Quan điểm cực đoan Đại Hán này là sản phẩm của bộ máy tuyên truyền bắt đầu từ thời Đặng Tiểu Bình và nâng lên thành “Giấc Mơ Trung Quốc” dưới thời Tập Cận Bình.
Họ Đặng và nay họ Tập cho rằng Trung Cộng không chủ trương xâm lược quốc gia nào hay dân tộc nào mà chỉ thu hồi lãnh thổ và lãnh hải vốn thuộc Trung Quốc.
Lý luận ngụy biện và điên cuồng này là bản sao quan điểm của Hitler đã dùng để khai mào cho Thế Chiến thứ Hai khi y cho rằng Đức chỉ nhằm “phục hồi những lãnh thổ vốn thuộc về Đức nhiều thế kỷ.”
Tương tự, khẩu hiệu “100 năm sỉ nhục” được các lãnh đạo Trung Cộng dùng làm củi để đun lò lửa dân tộc cực đoan tại Trung Cộng cũng không khác gì lời lẽ Hitler đã viết về hiệp ước Versailles trong Mein Kampf: “Mỗi điểm của hiệp ước đã ghi sâu vào ý thức và con tim của dân tộc Đức và đốt cháy họ cho đến khi tâm hồn của sáu chục triệu dân bùng lên ngọn lửa công phẫn và nhục nhã.”
Như vừa viết ở trên, ngay cả việc người dân Trung Hoa hai ngàn năm trước đã thật sự có giong buồm trên Biển Đông, có ghé Hoàng Sa, Trường Sa vài hôm để bắt yến, tức cảnh sinh tình hạ bút vài câu thơ và được đời sau ghi chép lại cũng không thể cho rằng Hoàng Sa, Trường Sa thuộc quyền lịch sử của Trung Cộng.
Lịch sử thế giới để lại vô số tài liệu của các nhà thám hiểm, thăm dò, kể cả dấu tích của đoàn viễn chinh lừng danh Viking do Leif Erikson chỉ huy từng khám phá ra Bắc Mỹ vào thế kỷ 11 trước Christopher Columbus vào thế kỷ 15, nhưng không tổ chức quốc tế nào căn cứ vào các tài liệu lưu trữ để cho rằng chủ quyền biển đảo của một quốc gia phát xuất từ người đã thăm dò, thám hiểm hay khám phá ra vùng đất đó.
Một lãnh thổ, đất hay đảo, của một quốc gia phải là lãnh thổ được phát hiện, chiếm hữu, điều hành trong hòa bình, có tính pháp lý, đơn vị hành chánh chính thức, được ghi lại trong bản đồ của quốc gia đó và được quốc tế công nhận chứ không phải cưỡng chiếm bằng võ lực như Trung Cộng đã làm đối với Philippines và Việt Nam.
Tập Cận Bình, kẻ nuôi cọp đang lo cọp sẽ ăn thịt mình, do đó, không lạ gì trong thời gian ngắn tới đây, y vẫn sẽ tuyên bố hung hăng kể cả những hành động gây hấn với các nước láng giềng để xoa dịu lò lửa cực đoan Đại Hán tại lục địa nhưng chính y cũng biết gió đã đổi chiều.
“Quyền lịch sử” của Trung Cộng về chủ quyền trên Biển Đông thực chất chỉ là quyền ăn cướp.
Đặng Tiểu Bình đã xổ toẹt lên ý thức hệ Marx Lenin, xua 60 vạn quân tấn công Việt Nam tháng 2/1979, rồi đánh chiếm biên giới Việt Nam ròng rã 10 năm trời, cướp đi núi Đất, một nửa thác Bản Giốc, chiếm trọn Ải Nam quan và cả ngàn km2 xâm canh xâm cư thời Cộng sản.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ, bà Morgan Ortagus vừa có tuyên bố với báo giới về “Sự ép buộc của Trung Quốc đối với hoạt động dầu khí ở Biển Đông”. Chúng tôi xin được dịch toàn bộ nội dung tuyên bố này, như sau:
Mấy đời bánh đúc có xương Mấy đời Tàu khựa lại thương dân mình.
Tôi không sợ Trung Quốc mạnh, tôi chỉ sợ đồng bào mình ngu. Khi một trận bóng đá giải “ao làng” diễn ra, rất nhiều “nghệ sĩ” cho tới các em học sinh, sinh viên lao ra đường hô to “Việt Nam, Việt Nam” rồi họ ôm nhau khóc, như để khẳng định mình tử tế, yêu nước lắm
I. MỀM DẺO NHƯNG ĐỪNG NHU NHƯỢC. KHÔN KHÉO NHƯNG ĐỪNG SỢ HÃI.
1. Trung Quốc mang tàu Hải Dương 8 vào thăm dò địa chất tại bãi Tư Chính từ hôm 03/7/2019 mà đến 16/7/2019 Việt Nam mới lên tiếng. Suốt thời gian 12 ngày, Việt Nam chỉ âm thầm phản đối. Như vậy là Trung Quốc nắm được thóp Việt Nam không muốn làm to chuyện đến nỗi không dám công khai sự thật. Cho nên Trung Quốc, đến cả khi bà Ngân sang thăm, đã không thèm nể mặt, không rút tàu mà còn trơ trẽn khuyên bảo “Nhìn vào đại cục”! Mềm dẻo nhưng đừng nhu nhược.
“Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hiệp Quốc (LHQ) về Luật biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên“, cuối cùng thì Bộ Ngoại giao đã lên tiếng, chỉ đích danh Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của nước ta.
Hoàn toàn là một case study có thể đưa vào giáo trình báo chí!
Có KOLs, có các nhà báo nổi tiếng tham gia trên mạng xã hội. Ai nói gì trước khi sự việc ngã ngũ tôi… kệ moẹ! Cái đáng quan tâm là trung tâm sự kiện bãi Tư Chính có xảy ra xung đột Việt – Trung hay không. Cho tới bản tin tối 19/7/2019, khi Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng yêu cầu Trung Quốc rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam thì mọi thứ mới ngả ngũ.
Đọc những phân tích và đề nghị của GS Carl Thayer hôm nay, 18/7 về tình hình diễn ra ở bãi Tư Chính-biển Đông từ 3/7 đến giờ, thấy nội dung thật trầm tĩnh và rất đáng suy nghĩ.
Phía Trung Quốc muốn gì? Muốn Việt Nam không đưa ra những tuyên bố công khai về chủ quyền không thể chối cãi đối với các thực thể ở vùng Biển Đông, nghĩa là chấp nhận các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc, và không tiếp tục tuyên bố công khai về chủ quyền mà Việt Nam vẫn nói là “không thể chối cãi là của VN”.