Trang chủ Quan Điểm

Quan Điểm

Kể điều bạn biết, nói điều bạn nghĩ

“Lưu manh chính trị” ngồi ghế Chánh án tỉnh Phú Yên là ai?

Đan Thanh

1-12-2021

Tuần trước, nhân vật Trần Huy Đức đã được bổ nhiệm vào ghế Chánh án Tòa án tỉnh Phú Yên, nhiệm kỳ 5 năm, có hiệu lực kể từ hôm nay. Trần Huy Đức là ai? Có tài cán gì để nắm giữ trọng trách này?

Trao đổi với tiên sinh Nguyễn Văn Nghệ

Nguyễn Đình Cống

1-12-2021

GS Trần Ngọc Thêm viết: “Cần chấm dứt sử dụng khẩu hiệu ‘Tiên học lễ, hậu học văn’ để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo”. Theo tôi, viết như thế không sai, nhưng chỉ đúng một phần. Không phải toàn bộ “lễ” cản trở tư duy phản biện mà chỉ một phần nào đó của “lễ” có tác dụng cản trở hành động phản biện của người dưới đối với người trên (bị cho là vô lễ vì dám cãi lại, dám phản bác).

Tâm tư gửi đến Bộ trưởng Quốc phòng

Mạc Văn Trang

1-12-2021

Kính thưa Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang,

Bộ trưởng là người được nhiều người dân kỳ vọng, nên tôi, một công dân 84 tuổi, tha thiết gửi đến Bộ trưởng mấy điều tâm tư sau đây.

Khi dân xa đảng

Lê Minh Nguyên

1-12-2021

Mỹ là siêu cường số một đóng vai trò lãnh đạo thế giới lâu nay. Mỹ đã làm nhiệm vụ gìn giữ an ninh trật tự thế giới và trách nhiệm này không nước nào muốn chia sẻ, bởi vì rất tốn kém.

Angela Merkel tổng kết thành tích trong thời gian tại chức

Deutsche Welle (DW)

Đỗ Kim Thêm dịch

Lần đầu bà Merkel xuất hiện trên chính trường, bên cạnh Thủ tướng Helmit Köln (2001). Nguồn ảnh: DPA/ M. Jung

Phỏng vấn độc quyền của Max Hofmann, Trưởng ban Tin tức DW thực hiện

Thế nào là “Tiên học LỄ, hậu học VĂN”?

Hà Sĩ Phu

30-11-2021

Về đề tài nên giữ hay nên bỏ khẩu hiệu “Tiên học Lễ, hậu học Văn” xin được góp với các Cụ mấy ý chắc còn thô lậu (Vì tôi đang bệnh):

Kiến nghị một biện pháp giáo dục góp phần “khai phóng”

Mạc Văn Trang

29-11-2021

Ý tưởng này nảy ra khi nhà giáo Thái Hạo cho biết, tình cờ thấy “một cô bé lớp 3 có ba mẹ là lao động chân tay, chứ không phải trí thức văn nghệ sĩ gì” vẽ bức tranh “lạ” và nhà giáo viết: “Tôi cũng không phải dân hội họa, không sành về tranh nhưng bằng cảm nhận thuần túy trực giác tôi thấy bức tranh có hồn và đẹp. Tôi nghĩ về giáo dục Việt Nam, đứa bé này có thể tiếp tục theo đuổi đam mê của nó với một núi bài tập, với môn chính môn phụ, với thi cử thành tích…?

Nho giáo và chữ “Lễ” có trói buộc con người?

Nguyễn Văn Nghệ

29-11-2021

Năm 2016 GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm khẳng định: “Giáo dục hỏng chính là do triết lý giáo dục sai lầm”. Ông phân tích: “Chính là do ảnh hưởng của triết lý giáo dục con ngoan trò giỏi mà chúng ta đã khôi phục khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” ở khắp nơi, cứ tưởng rằng xã hội lộn xộn thì chỉ cần gò trẻ em vào lễ là xong. Nề nếp do lễ mang lại ở đâu chưa thấy, trong khi ai cũng biết rằng, Nho giáo và chữ Lễ trói buộc con người, không cho sáng tạo thì rất rõ. Không sáng tạo làm sao có phát triển?

Rất thông cảm và quý trọng các vị, các bạn, nhưng…

Nguyễn Đình Cống

29-11-2021

Đó là các vị, các bạn đang ra sức bênh vực cho khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”.

Vài điều về chấn hưng văn hóa

Nguyễn Đình Cống

28-11-2021

Qua theo dõi hội nghị Diên Hồng về văn hóa ngày 24 tháng 11, tôi vừa phấn khởi vừa lo ngại. Phấn khởi vì thấy rằng một số cán bộ có trách nhiệm ở cấp cao đã thấy được tầm quan trọng của văn hóa, lãnh đạo Đảng đã công khai nói về yêu cầu chấn hưng văn hóa, từ đó  có hy vọng đất nước sẽ phát triển đúng hướng. Lo ngại vì thấy rằng nhận thức của một số cán bộ và nhân dân về văn hóa có phần lệch lạc, họ có thể làm chệch hướng của sự phát triển hoặc phạm vào lỗi ‘đánh trống bỏ dùi’.

Sự khốn cùng của công, nông Việt Nam, cần tái phục hồi vận động nghiệp đoàn tự do

Jackhammer Nguyễn

26-11-2021

Ông Đoàn Khắc Xuyên, một cây bút lâu năm của làng báo Việt Nam, hôm 16-11-2021 viết trên báo Người Đô thị, như sau: “Tăng trưởng cần hướng đến con người hơn, bằng không về lâu dài sẽ chẳng có tăng trưởng hay phát triển khi công nhân không còn muốn bán sức lao động với giá rẻ để nhận lấy cuộc sống bấp bênh, không biết ngày mai sẽ ra sao”.

Bỏ “Tiên học lễ” thì đạo đức xã hội sẽ ra sao?

Nguyễn Văn Nghệ

24-11-2021

Giải phóng miền Nam, “giải phóng” luôn cả “Tiên học lễ” ra khỏi học đường

Trước ngày 30/04/1975 tất cả các phòng học của Trường Tiểu học Công lập, cũng như Tư thục, thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa đều treo câu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Lễ và Văn là nền tảng đào tạo nên một con người tốt cho xã hội. Sách Luận ngữ có viết: “Bác ngã dĩ văn, ước ngã dĩ lễ” (dùng văn chương mở rộng kiến thức của ta, dùng lễ để ước thúc hành vi bản thân ta).

Còn ở miền Bắc Việt Nam thì sao? Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã ghi lại: “Thế hệ tôi, sinh trưởng ở miền Bắc, đi học trường phổ thông 10 năm (từ lớp 1 đến lớp 10) vào những năm 1954-1964, thì khẩu hiệu ‘tiên học lễ, hậu học văn’ hầu như không để lại ký ức gì. Là vì ở miền Bắc thời đó, những gì được xem như gắn với ‘tư tưởng phong kiến’ đều bị coi là lạc hậu, cần tránh xa, cần chống lại; mà ‘tiên học lễ, hậu học văn’ thì rõ ràng là tư tưởng của Nho giáo, là thuộc hệ tư tưởng phong kiến rồi! Cho nên dễ hiểu là không hề thấy khẩu hiệu ‘tiên học lễ, hậu học văn’ xuất hiện trong khuôn viên bất cứ ngôi trường nào trên miền Bắc thời gian ấy; cũng hầu như không có giáo viên hay cán bộ nào trong ngành giáo dục thời ấy dám nói đến khẩu hiệu đó trước các đám đông”.

Giữa đám người “có miệng ăn mà không có miệng nói” thì vào năm 1973, nhà giáo Nguyễn Lân (1906-2003) viết bài “Có nên vận dụng phương châm ‘tiên học lễ hậu học văn’ trong việc giáo dục thế hệ trẻ của ta ngày nay không?” [Bài đăng tạp chí “Văn hóa nghệ thuật” ở Hà Nội, số 31, tháng 7/1973] mà động cơ viết bài này, theo lời của chính tác giả Nguyễn Lân, là do thực tế “một số trẻ em không ngoan, trong nhà thì bướng bỉnh với cha mẹ, ra đường thì hỗn láo với mọi người, đến trường thì xấc xược với thầy giáo” (Trích bài báo đã dẫn).

Ngay sau khi bài báo xuất hiện, trên báo “Tiền phong” của Trung ương Đoàn (số 2351, ra ngày 16/08/1973) có bài báo dài của tác giả Thanh Bình, nhan đề “Quét sạch những tàn dư tệ hại của Khổng giáo”, với những kết luận chém đinh chặt sắt: “…chúng ta không thể dung hòa được với Khổng giáo và hệ tư tưởng phản động và bảo thủ của nó”… “Chúng ta phải kiên trì đấu tranh để quét sạch nó ra khỏi mọi lãnh vực của đời sống xã hội như quét sạch những đống rác bẩn vậy!”

Tiếp theo bài báo này, báo “Tiền phong” còn định ra cả một loạt bài khác nữa để công kích sự đề xuất kể trên của nhà giáo Nguyễn Lân, nhưng ông Phạm Văn Đồng đã can thiệp dừng lại.

Sau khi cộng sản vào “giải phóng” miền Nam câu khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” cũng được đảng “giải phóng” khỏi các trường học ở miền Nam Việt Nam và học sinh buộc phải học “đạo đức cách mạng” (Không có đạo đức nhân bản, con người ta dễ trở thành những kẻ máu lạnh, chỉ biết dùng thủ đoạn lao vào cắn xé nhau, lừa bịp nhau để tranh đoạt vật chất và quyền lực (…). Đạo đức cách mạng có phần giống đạo đức nhân bản, thí dụ chống tham nhũng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, nhưng cũng có phần mâu thuẫn với nó, thí dụ lòng căm thù và tiêu diệt những người của giai cấp đối kháng, đàn áp người bất đồng chính kiến).

Mãi đến những năm cuối của thập niên 80 và đầu những năm của thập niên 90 của thế kỷ trước mới thấy xuất hiện lại trong tất cả các trường học trên cả hai miền Nam và Bắc của đất nước ta. Biển hiệu “Tiên học lễ hậu học văn” được ngành giáo dục cho sơn phết thật to được treo ở mặt trước của mỗi trường học, nhưng dường như câu khẩu hiệu ấy chỉ là câu sáo rỗng vô hồn, được viết ra bởi quán tính mà thôi!

Bổng dưng vào năm 2014 Trường Trung học cơ sở Tô Hoàng (Hà Nội) đã đi tiên phong bỏ biển hiệu “Tiên học lễ hậu học văn”. Bài viết: “Đại học, học… đại và yêu nước có học” được đăng trên báo VietNamNet ngày 18/5/2014 đã đăng tải sự kiện ấy: “Không chỉ tổ chức chào cờ, xếp nghi thức, Trường Trung học cơ sở Tô Hoàng ở Hà Nội đã có cách biểu thị tinh thần tự tôn dân tộc “dài hơi” khi thể hiện tư tưởng thoát khỏi cái bóng ám ảnh của Khổng giáo trong trường học. Từ năm học này, trường đã thay biển hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” (của Khổng tử), bằng các câu của người Việt (‘Hiền tài là nguyên khí của quốc gia’) và UNESCO (‘Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình’)”

Giữa các quốc gia trên thế giới luôn có sự tiếp thu văn hóa lẫn nhau, không phân biệt Tây hoặc Tàu. Văn hóa hay chúng ta tiếp thu, văn hóa không hợp với thuần phong mỹ tục thì chúng ta chối từ. Để có câu nói “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” cụ Thân Nhân Trung cũng phải trải qua con đường “Tiên học lễ, hậu học văn” mới đúc kết nên câu nói ấy. Một quốc gia mà không có “Lễ” thì kẻ hiền tài sẽ không được trọng dụng và những kẻ trình độ “a, bờ, cờ” sẽ làm lãnh đạo!

Lễ là để cho con người ngày càng có văn hóa hơn

Để trở thành một con người có văn hóa, thì phải có “Lễ”. Sách Quản tử viết: “Lễ, nghĩa, liêm, sỉ thị vi tứ duy” (Lễ, nghĩa, liêm, sỉ là bốn giềng mối chính) và Lễ đứng đầu trong bốn giềng mối ấy. Không có Lễ sẽ trở nên vô thần, phủ nhận thần thánh: “Dân chi sở do sinh, lễ vi đại. Phi lễ vô dĩ tiết sự thiên địa chi thần dã…” (Trong những cái của dân cậy mà sinh hoạt thì lễ là to hơn cả. Không có lễ thì không thể thờ thần của trời đất cho có thứ bậc… Lễ ký: Ai Công vấn XXVII).

Lễ không chỉ gói gọn trong lễ nghi, lễ nghĩa mà còn là tôn ti trật tự… và cả luật pháp nữa. Lễ là cốt để giữ chừng mực cho sự hành vi của người ta: “Đạo đức nhân nghĩa, phi lễ bất thành; giáo huấn chính tục, phi lễ bất bị; phân tranh biện tụng, phi lễ bất quyết; quân thần, thượng hạ, phụ tử, huynh đệ, phi lễ bất định; hoạn học sự sư, phi lễ bất thân; ban triều, trị quân, lỵ quan, hành pháp, phi lễ uy nghiêm bất hành; đảo từ, tế tự, cung cấp quỷ thần, phi lễ bất thành, bất trang thị dĩ quân tử cung kính tổn tiết, thoái nhượng dĩ minh lễ”

(Đạo đức nhân nghĩa, không có lễ không thành; dạy bảo sửa đổi phong tục, không có lễ không đủ; xử việc phân tranh kiện tụng, không có lễ không quyết; vua tôi, trên dưới, cha con, anh em, không có lễ không định; học làm quan, thờ thầy, không có lễ không thân; xếp đặt vị thứ trong triều, cai trị quân lính, đi làm quan, thi hành pháp lệnh, không có lễ, không uy nghiêm; cầu khẩn, tế tự, cung cấp quỷ thần, không có lễ không thành kính, không trang chính. Bởi thế cho nên quân tử dung mạo phải cung, trong bụng phải kính, giữ gìn pháp độ, thoái nhượng để làm sáng rõ lễ – Lễ ký: Khúc lễ thượng).

Lễ khiến cho hành vi của người ta hợp với đạo Trung dung: “Cung nhi vô lễ tắc lao; thận nhi vô lễ tắc tỷ; dũng nhi vô lễ tắc loạn; trực nhi vô lễ tắc giảo” (Cung kính mà không có lễ thì phiền; cẩn thận mà không có lễ thành ra sợ hãi; dũng mà không có lễ thì loạn;trực mà không có lễ thành ra vội vã – Luận ngữ: Thái Bá VIII, 2).

Để cho người ta khỏi làm điều bậy bạ thì phải có Lễ: “Lễ giả, nhânnhân chi tình nhi vi chi tiết văn, dĩ vi dân phường giả dã”. (Lễ là nhân cái thường tình của người ta mà đặt ra tiết độ; văn vẻ, để làm cái ngăn giữ cho dân – Lễ ký: Phường ký, XXX).

“Nhìn tổng quát lại đất nước ta có bao giờ được thế này không?”

Vào tháng 11/2016 tại thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu: “Có lẽ nhìn lại chưa bao giờ quê hương ta đẹp như thế này, chưa bao giờ quê hương ta có đời sống văn hóa, kinh tế phát triển, xã hội ổn định…”, nhưng rồi sau đó ông lại nêu ra: “Mặc dù bây giờ ra đường lắm chuyện khó chịu, nghe báo chí nói rất nhiều chuyện tiêu cực hàng ngày, rất là bực mình. Tệ tham nhũng, cán bộ hư hỏng có cả nhưng nhìn tổng quát lại đất nước ta có bao giờ được thế này không?”

Trên khắp nước Việt Nam hiện nay, từ thành phố đến làng quê, đâu đâu cũng bắt gặp cổng chào ghi: “Tổ dân phố văn hóa”; “Làng (thôn) văn hóa”, đi đến đâu cũng nghe cái từ “văn hóa” nào là “văn hóa ứng xử”; “văn hóa ẩm thực”; “văn hóa phong bì”; “văn hóa từ chức”… Ấy vậy mà ngay trong môi trường giáo dục, tỷ lệ nói dối của học sinh tăng dần theo tuổi.

Tại hội thảo “Thực trạng văn hóa học đường và nhu cầu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học” tổ chức ngày 24/09/2013, GS-TSKH Trần Ngọc Thêm, Giám đốc Trung tâm Lý luận và Ứng dụng (ĐHQGTPHCM.) đã đưa ra một kết quả điều tra: Tỷ lệ nói dối cha mẹ ở học sinh cấp Tiểu học là 22%; cấp Trung học cơ sở là 50%; sinh viên là 80%.

Trong môi trường giáo dục mà còn như thế, hỏi thử ngoài xã hội sẽ như thế nào? Ngay tại thủ đô Hà Nội “nạn mất dạy” đang trong tình trạng báo động, “một bộ phận các bạn trẻ là học sinh trung học, các ca sĩ, người dẫn chương trình…có những lời nói thô tục, những ứng xử không có văn hóa nơi công cộng làm ảnh hưởng đến nếp sống văn minh của thành phố”.

UBND Thành phố Hà Nội có công văn số 3802/VP-VX do Phó Chủ tịch Thành phố Hà Nội Lê Hồng Sơn chỉ đạo gửi đến Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp cùng Sở Giáo dục và Đào tạo, UBND quận, huyện, thị xã kiểm tra, xem xét có biện pháp xử lí‎ cụ thể, nhằm hạn chế cao nhất những hành vi thiếu văn hóa trong nhà trường và ngoài xã hội. Trước đó nhiều tờ báo và trang tin đã có phản ánh về nạn “mất dạy” tràn lan ở Thành phố Hà Nội, trái tim, Thủ đô của cả nước khiến dư luận bất xúc.

Hàng loạt tiêu cực xảy ra trong xã hội khiến bà Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan phải lên tiếng: “Sáng nay tôi xem truyền hình biết tin một số cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại một số xã ở Hà Tĩnh biển thủ tiền của người nghèo, đau lòng quá. Tôi nghĩ bảo hiểm y tế có những mảng tối cần phải chỉ ra. Ví như chuyện những người có thẻ bảo hiểm y tế không được đối xử công bằng như những người có tiền. Địa phương muốn giữ người có bảo hiểm không muốn chuyển lên tuyến trên dẫn đến bệnh thêm trầm trọng. Rồi chuyện chi trả chậm, bớt xén. Vậy khắc phục tình trạng này thế nào?”

Bà Phó Chủ tịch nước còn tiết lộ: “Đến tiền của các cháu dân tộc thiểu số mà hiệu trưởng cùng với một số cán bộ còn biển thủ đến gần 3 tỷ, vừa rồi mới khởi tố. Cái liều vacxin tiêm cho một cháu lại san ra tiêm cho hai cháu ngay tại Hà Nội… Tôi càng đi càng thấy buồn, “ăn” của dân không từ một cái gì”.

Vụ học sinh Trần Chí Kiên lớp 2A4 trường Tiểu học Nam Trung Yên (Cầu Giấy- Hà Nội) bị xe ô tô chở bà Tạ Thị Bích Ngọc – Hiệu trưởng của trường – đâm gãy chân đã biến thành chuyện học sinh này tự ngã và bị gãy chân, bởi lẽ 100% con người ở ngôi trường này đều xác nhận vào thời điểm em Kiên gãy chân không có xe ô tô vào trường. “Những thầy cô quay lưng lại với lại với sự thật, quay lung lại với tai nạn thương tâm của chính học trò mình, những thầy cô có nhiệm vụ trồng người mà “làm chứng dối” như vậy sẽ cảm giác như thế nào khi đứng trên bục giảng nói về sự thật thà về đạo đức công dân?”.

Trước đó tại trường Tiểu học Nguyễn Khả Trạc (Cầu Giấy – Hà Nội), bà Tạ Thị Bích Ngọc đã phạm một lỗi rất xấu về đạo đức là đã “lập quỹ đen từ tiền cắt bớt khẩu phần ăn của 400 học sinh”. Vụ việc đã có kết luận từ Thanh tra cũng như Ủy ban Nhân dân quận Cầu Giấy, nhưng thay vì bị kỷ luật lại được chuyển sang một trường khác làm hiệu trưởng thì rõ ràng cái tư cách, cái tác phong đó của cô Tạ Thị Bích Ngọc không chỉ là riêng của cô. Phải có nhiều người ‘đồng cảm’ với cô, chống lưng cho cô thì cô mới có cái quyền tiếp tục ngồi cao gây ra cái sự kiện náo loạn nhân tâm tại trường tiểu học Nam Trung Yên! Cô mới có đủ thế lực tiếp tục tại vị cho tới ngày 21.2.2017, mấy tuần lễ sau sự kiện đó! Ngoài ra, cái tác phong đó của cô, trong đời thường không ai trong số các lãnh đạo của cô nhận ra sao? Tại sao cô vẫn được thăng tiến trong ngành? Phải chăng chính sách nhân sự của ngành, chính sách đề bạt của ngành không xem đạo đức đương sự là tiêu chuẩn quan trọng?”

Hoặc như vụ bà Phạm Thị Minh Hiếu – Phó Giám đốc sở Tư Pháp tỉnh Bình Thuận- bẻ cành hoa anh đào để chụp hình bất chấp sự can ngăn của người dân tại khu vực hồ Tuyền Lâm – Đà Lạt. Bà đã cật vấn người can ngăn: “Em là ai mà có quyền nói chị vậy? Em là chủ ở đây à? Em cho chị xem giấy tờ…”

Ngoài ra còn “lắm chuyện khó chịu”; “nhiều chuyện tiêu cực hàng ngày” được bao che và chỉ một phần rất nhỏ các vụ việc trên được phanh phui trên các phương tiện thông tin “lề phải”. Và “có lẽ nhìn lại chưa bao giờ quê hương ta đẹp như thế này!”.

Bà Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan trong góp ý dự thảo văn kiện tại Quốc hội sáng ngày 23/10/2015 đã nói: “Tại sao có tình trạng trên nói dưới không nghe, nói một đằng, làm một nẻo, đảng viên không thực hiện nhiệm vụ của mình hoặc thực hiện nhiệm vụ với tính chất rất hình thức, sử dụng không hết giờ làm việc, công suất làm việc cống hiến rất hạn chế”.

Bà Nguyễn Thị Doan nêu câu hỏi “Tại sao?” .Tất cả cũng bởi “vô lễ”mà ra! Xã hội mà “vô lễ” thì “trên không ra trên, dưới không ra dưới”.

Người xưa nói: “Bất học lễ vô dĩ lập”. (Không học lễ thì không nên người được). Hoặc: “Bất tri lễ vô dĩ lập”. (Không biết lễ thì không nên người được). Người có văn hóa “thật sự” sống theo phương châm: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”. (Không phải lễ thì chớ trông, không phải lễ thì chớ nghe, không phải lễ thì chớ nói, không phải lễ thì chớ làm- Luận ngữ: Nhan Uyên, XII).

Sao bây giờ không ai sợ pháp luật, sợ bị trừng trị nữa?”

Cũng tại phiên họp cho ý kiến về báo cáo giám sát việc thực hiện chính sách bảo hiểm y tế giai đoạn 2009-2012 ngày 11/09/2013, bà Nguyễn Thị Doan phát biểu: “Sao giờ không ai sợ pháp luật, sợ trừng trị nữa? Mỗi ngày người ta ‘ăn’ từng tí của dân, từ liều vacxin con con đến tiền chữa bảo hiểm…”.

Pháp luật chỉ để trị cái đã rồi, còn lễ thì ngăn cấm được việc chưa xảy ra: “Phàm nhân chi tri, năng kiến dĩ nhiên, bất kiến tương nhiên. Lễ giả cấm ư tương nhiên chi tiền, nhi pháp giả cấm ư dĩ nhiên chi hậu… Lễ vân, lễ vân, quí tuyệt ác ư vị mạnh, nhi khởi kính ư di diểu, sử dân nhật tỉ thiện viễn tội nhi bất tự tri dã”.

(Phàm cái biết của người ta chỉ biết được cái đã có rồi, không biết được cái sắp có. Lễ là để cấm trước cái sắp có, pháp luật là để cấm sau cái đã có rồi…Lễ vậy, lễ vậy, lễ quí là dứt được điều ác từ lúc chưa nảy mầm ra, dấy lòng kính ở chỗ người ta không trông thấy, để cho dân ngày ngày đến gần điều thiện, xa điều tội, mà tự mình không biết – Đại Đái Lễ ký: Lễ tế).

Thánh nhân chỉ trọng lễ chứ không trọng hình luật bởi vì tác dụng của lễ thật là quảng đại, thật là tinh vi. Hồ Thích đã nói trong sách Trung Quốc triết học sử rằng: “Trong cái nghĩa rộng chữ lễ có hàm cái tính chất pháp luật, nhưng lễ thì thiên trọng về cái quy củ tích cực, mà pháp luật thì thiên trọng về cái cấm chế tiêu cực. Lễ thì dạy người ta nên làm điều gì và không nên làm điều gì; pháp luật thì cấm không cho làm những việc gì, hễ làm thì phải tội. Người làm điều trái lễ thì chỉ bị người quân tử chỉ nghị chê cười, chứ người làm trái pháp luật thì có hình pháp xét xử”. [Trần Trọng Kim, Nho giáo – Quyển thượng, in lần thứ 4, trang 155, Nxb Tân Việt – Sài Gòn]

Bỏ “tiên học lễ” là một sai lầm lớn

Cô giáo Nguyễn Thị Thuận – Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở Tô Hoàng (từ năm 2008) – cho biết khi trường quyết định bỏ khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”: “Ở mình có những cái đã quá lâu, quá cũ nhưng nhiều người vẫn ngại thay đổi khi đã cần phải thay đổi”. Đừng chê “tiên học lễ” là “cái đã quá lâu, quá cũ”, bởi vì sự giáo hóa của lễ rất tinh vi và có hiệu quả rất sâu xa: “Lễ chi giáo hóa dã vi, kỳ chỉ tà dã ư vị hình, sử nhân nhật tỉ thiện, viễn tội, nhi bất tự tri dã” (Sự giáo hóa của lễ rất cơ mầu, ngăn cấm điều bậy lúc chưa hình ra, khiến người ta ngày ngày đến gần điều thiện, tránh xa điều tội, mà tự mình không biết – Lễ ký: Kinh giải, XXVI).

Hiện nay tình trạng đạo đức của công chức Nhà nước ngày càng xuống cấp, Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng có nhận định: “Bây giờ đạo lý xã hội suy đồi, cái đúng cái sai không phân biệt được. Ở Việt Nam bây giờ, ngay trên các phương tiện truyền thông đại chúng và quan niệm xã hội rất lệch lạc nên cái đúng cái sai người ta không hiểu được. Điều này rất đáng buồn. Những người biết cái đúng và muốn tuyên truyền thì có khi nhà nước không cho làm. Những xã hội dân sự muốn truyền bá cái đúng thì lại không được nhân rộng, phổ biến, cho nên những điều không đúng có dịp sinh sôi nảy nở. Nói cho cùng người ta gọi nhà dột từ nóc dột xuống là như thế”.(Xem “Công chức bẻ hoa chụp ảnh: Nhà dột từ nóc?

Đạo đức xã hội hiện nay được Giáo sư – Tiến sư Nguyễn Thế Hùng kết luận là “dột từ nóc dột xuống”, ấy vậy mà nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân lại đề xuất: “Khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn”- vốn có xuất xứ từ Khổng tử- càng nên được chúng ta sớm chấm dứt sử dụng trong hiện tại, để từ nay chỉ được nên ghi nhận như một trong những thứ ta đã vay mượn, thời quá khứ xa xưa”.

Sao lại có chuyện phân biệt câu nói ấy “vốn có xuất xứ từ Khổng tử”? Nếu là một câu nói hay, có thể áp dụng vào đời sống của quốc gia, của dân tộc thì chúng ta ngại gì phân biệt “xuất xứ”! Không biết nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có bao giờ nghe những cụm từ như “giao thoa văn hóa”; “tiếp thu văn hóa”; “tiếp biến văn hóa”… hay chưa mà lại có đề xuất ấu trĩ như vậy?

“Tiên học lễ” tuy nó quá cũ nhưng nó như một bờ đê ngăn cản “những điều không đúng” trong xã hội: “Phù lễ cấm loạn chi lễ do sinh, do phường chỉ thủy chi tự lai dã”. (Lễ là cấm loạn sinh ra, như bờ đê giữ nước không đến vậy – Lễ ký: Kinh giải, XXVI). Will Durant có nhận xét về tác hại của việc phá bỏ đạo đức xưa: “Người nào cho những bờ đê cũ là vô ích và phá bỏ đi thì một ngày kia sẽ bị tai hại của nạn lụt lội” – [Will Durant, Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb Văn hóa Thông tin, tr.342]. Dùng “Lễ” để “ước thúc hành vi của bản thân ta” (Ước ngã dĩ lễ). Người giàu sang biết lễ thì không dâm tàn, không kiêu căng; người bần tiện biết lễ thì không nản chí, không làm bậy; người lãnh đạo có biết lễ thì mới biết trọng dụng hiền tài, biết trị nước, an dân.

Nguyễn Văn Nghệ, Diên Khánh – Khánh Hòa

Đấu đá nội bộ trước và sau phiên họp Trung ương 6 của Đảng CSTQ

Tác giả: Ngụy Kinh Sinh

Dịch giả: Lê Minh Nguyên

23-11-2021

Hội nghị TƯ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã đưa ra một nghị quyết rất kỳ lạ; cái gọi là nghị quyết lịch sử đảng bắt chước các triều đại trước (Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình) nhưng lại không giống. Theo cách thức của hai “Nghị quyết lịch sử” ĐCSTQ của các triều đại trước, lẽ ra nghị quyết sau phải phủ nhận các nghị quyết trước rồi tạo ra lãnh đạo cốt lõi và lộ trình mới cho tương lai. Đó là phương pháp truyền thống mà ĐCSTQ sử dụng để viết lại lịch sử đảng hầu tạo dựng hình ảnh vĩ đại cho bản thân. Đây là ý định của Tập Cận Bình khi áp dụng hình thức viết sử đảng này.

Đáng tiếc, Tập Cận Bình không có được khí thế như hai “Nghị quyết lịch sử” đầu tiên của ĐCSTQ, cũng không có uy tín như hai lãnh tụ cốt lõi đầu tiên, chưa kể là cần có một lộ trình mới mà có thể được toàn ĐCSTQ đồng thuận. Vì vậy, ngay cả khi trước phiên họp Trung ương 6 của Khóa 19 ĐCSTQ, đã có sự phản kháng mạnh mẽ với hơn 500 ý kiến ​​được đưa ra và những thay đổi cơ bản đã được thực hiện.

Mặc dù với sự trợ giúp của trợ lý Lật Chiến Thư (Li Zhanshu) người đã gầm lên như sấm, ông Tập vẫn không thể trấn áp được phe đối lập. Ngay cả khi Tập Cận Bình giao cho chính mình làm trưởng nhóm biên soạn, ông ấy cũng không thể bắt mọi người đồng ý những gì mà ông ấy muốn đưa vào nghị quyết.

Tất cả những thất bại này chứng minh rằng, cái gọi là sự quan sát của các phương tiện truyền thông nước ngoài nói rằng ông Tập đang kiểm soát mọi thứ, chỉ là một luồng dư luận được hướng dẫn bởi sự tuyên truyền với tầng suất cao của ĐCSTQ đưa ra thế giới bên ngoài, chứ không phải tình hình thực tế trong cái hộp đen.

Trước Hội nghị TƯ 6 của Ban Chấp hành Trung ương, cuộc đấu đá nội bộ trong ĐCSTQ đã được giấu trong hộp đen và không được biết đến với thế giới bên ngoài. Chỉ là các phương tiện truyền thông bên ngoài bị lừa dối bởi sự tuyên truyền của ĐCSTQ ra thế giới nên mới tung hô cho Tập Cận Bình. Từ một số báo cáo sau TƯ 6, người ta được biết rằng nội dung tranh luận rất gay gắt, vượt xa khỏi thói quen thông thường của sự ù lì, và cuối cùng dẫn đến thất bại ý định của Tập Cận Bình. Điều này đã đẩy cuộc đấu tranh nội bộ ĐCSTQ lên một cao trào mới.

Trước phiên họp TƯ 6 và sau khi nghị quyết mà về cơ bản đã được hoàn thiện, manh mối của cuộc đấu đá nội bộ bắt đầu được phơi bày. Bởi vì Truơng Cao Lệ (Zhang Gaoli), người có lập trường cứng rắn và có sức khỏe tốt duy nhất trong phe Giang Trạch Dân, đã mạnh mẽ nhất lên tiếng phản đối việc phủ nhận đường lối của Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân, và tình nhân của ông ta trong nhiều năm đã phàn nàn về ông ta trên mạng xã hội. Xuất phát từ một tranh chấp tình yêu rất cá nhân, và tòa án có thể đã dễ dàng giải quyết, nhưng truyền thông đã thổi phồng với màu sắc chính trị.

Sau đó, khi các tổ chức và các phương tiện truyền thông quốc tế đưa tin ồn ào, nó đã trở thành một vụ xì căng đan quốc tế lớn làm xấu mặt nhà nước ĐCSTQ và ảnh hưởng đến Thế vận hội Olympic 2022. Có thể nói, Tập Cận Bình đã nâng một tảng đá nhưng tảng đá lại đập vào chân ông ta. Ông ta không biết phải trả lời như thế nào, tiến thoái lưỡng nan. Điều này thậm chí còn khiến những phát ngôn nhân của đội chiến lang ĐCSTQ sửng sốt, và thậm chí còn bắt đầu nói những điều vô nghĩa. Dư luận quốc tế, kết hợp vụ án nhà báo công dân (bà Zhang Zhan làm tin về Covid và bị bắt giam), vụ mất tích của Chủ tịch Interpol Mạnh Hoành Vĩ (Meng Hongwei) v.v… khiến Ủy ban Trung ương ĐCSTQ trở nên rối ren.

Trước khi vụ án của cô Bành Súy (Peng Shuai) tố cáo Trương Cao Lệ bị chìm xuống, và thậm chí trước khi vụ án được đưa đơn, giờ đây chúng ta lại đọc được về đứa con ngoài giá thú của Tập Cận Bình. Điều này cũng giống như khi họ thổi phồng về vụ án sinh con ngoài giá thú của Vương Kỳ Sơn (Wang Qishan) và vụ án tham nhũng nghìn tỷ đô la, dẫn đến việc Vương phải từ chức. Liệu làn sóng xì căng đan này có dẫn đến việc Tổng Bí thư ĐCSTQ Tập từ chức hay không? Thật khó để nói. Nói tóm lại, bầu không khí hiện tại rất bất lợi cho ông Tập.

Lý do đằng sau việc Vương Kỳ Sơn từ chức vài năm trước là do Vương muốn nắm quyền lãnh đạo, bằng cách dựa vào việc chống tham nhũng để xây dựng uy tín của mình và hiện thực hóa những lý tưởng chưa hoàn thành của Chu Dung Cơ (Zhu Rongji). Hậu quả là, với sự kết hợp giữa những kẻ có quyền lực và đứng sau hậu trường, cùng sự kết hợp bên trong và những quốc gia bên ngoài đã đánh Vương tơi tả, cho đến khi ông ta phải buồn bã từ chức, chỉ còn giữ chức phó chủ tịch nước không có quyền lực. Người Trung Quốc thường gọi đó là “Nghiệp báo kiếp này”.

Lần này, bầu không khí mà Chủ tịch Tập đang phải đối mặt thậm chí còn tồi tệ hơn. Ông ta đã xúc phạm toàn bộ giới có ưu thế trong ĐCSTQ, trong chính phủ, quân đội, giới học giả và giới kinh doanh, nhưng cùng lúc không mang lại nhiều lợi ích cho người dân Trung Quốc bình thường. Tập đã phủ nhận đường lối cải cách của Đặng và Giang và chào hàng đường lối độc tài của Mao Trạch Đông. Rõ ràng, điều này khó cho cả Đảng CS và cả nước chấp nhận. Vì vậy, trong ván cờ quyết liệt trước Phiên họp TƯ 6, người ta đã kỳ vọng vào chiến thắng của phe chống Tập.

Vì ông Tập muốn làm sống lại hệ thống hoàng đế truyền thống (quân chủ), nên về mặt logic, ông phải chấp nhận cái gọi là mô hình Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình (tư bản triều đình) đây là mô hình truyền thống của nền chính trị chuyên quyền quản lý nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, chế độ độc tài độc đảng của ĐCSTQ là mô hình của chế độ nông nô (phong kiến) và nó không thể kết hợp với mô hình truyền thống tiên tiến hơn (của tư bản triều đình). Vì không có tính chính đáng của sự kế thừa và hệ tư tưởng Nho giáo phù hợp, cái gọi là mô hình Đặng Tiểu Bình đã không kế thừa tính chính đáng, ngoài việc kế thừa một siêu tham nhũng.

Đây là một mô hình nghịch lý. Làm thế nào để giải quyết mâu thuẫn cố hữu này? Các học giả và chuyên gia không có câu trả lời. Với trí tuệ ở cấp lãnh đạo lữ đoàn (chỉ huy chừng 3,000 đến 5,000 quân) ông Tập tin rằng con đường chuyên quyền cực đoan và độc tài cá nhân mà Mao Trạch Đông đi, cuối cùng là con đường phù hợp với đặc điểm Trung Quốc và có thể khiến người dân thường phải tuân theo.

Thật không may, người Trung Quốc ngày nay không phải là những người cuối đầu tuân phục như thời kỳ tiền Thanh, và giới có ưu thế hiện nay cũng không phải là tín đồ của Tân Nho giáo (thuộc triều đại nhà Tống và nhà Minh). Nên tất cả chúng ta hãy ngồi thưởng thức dưa hấu và tiếp tục xem tuồng diễn đang đến hồi gay cấn.

Trực tuyến Trung – Mỹ: Ổn trước mắt, bất trắc lâu dài

RFA

Hải Đăng

23-11-2021

Có hai nhóm vấn đề rất được giới phân tích và bình luận Việt Nam quan tâm, bởi vì chúng sát sườn đến an ninh và phát triển của đất nước: Đó là Biển Đông và quan hệ bộ ba Trung – Mỹ – Đài.

Hoa Kỳ và Tổng thống Ngô Đình Diệm (Phần cuối)

Đỗ Kim Thêm

22-11-2021

Tiếp theo phần Iphần II

Phần cuối: Những biểu hiện suy thoái của chế độ Ngô triều

Kể từ năm 1960, cơ cấu quyền lực của chế độ Ngô triều bắt đầu có những biểu hiện suy thoái, cụ thể là tình trạng an ninh nội chính bất ổn, nông dân bất mãn, trí thức chống đối và quân đội âm mưu đảo chánh.

An ninh nội chính bất ổn

Sau khi phá vỡ được quyền lực của các giáo phái tại miền Nam, ông Diệm nghĩ ngay đến biện pháp tiêu diệt mầm móng của Cộng sản nằm vùng. Mối lo âu của ông rất chính đáng là vì theo một ước lượng chung, sau ngày ký kết Hiệp định Genève, có khoảng 10.000 cán bộ Việt Minh còn ở lại tại miền Nam để lo xây dựng cơ sở đấu tranh cho tương lai. Các địa phương mà Việt Minh còn nhiều ảnh hưởng nhất là tại Cà Mau, Đồng Tháp Mười, Rạch Giá, Bến Tre, Phú Yên, Quảng Nam và Quảng Ngải.

Ông Diệm bắt đầu phát triển Phong trào Tố Cộng, mà kết qủa là có hằng ngàn người tình nghi bị  tống giam. Không phải chỉ có cán bộ Cộng Sản nằm vùng bị tố cáo và bắt giữ mà các ký giả, thành viên Công đoàn, tín đồ các giáo phái bất đồng chính kiến cũng bị vạ lây. Dù Nghị định có quy định là chính phủ có quyền bắt giam các nghi can nguy hiểm đến chế độ, nhưng các viên chức địa phương đã lạm dụng nhằm thanh toán các đối thủ trong địa bàn và gây hoang mang cho dân chúng. Tác hại này chính ông Diệm cũng không thể nhận ra và sửa sai, vì các báo cáo luôn sai lạc.

Ba năm sau, Đạo luật 10/59 ra đời có quy định về vai trò Toà án Quân sự. Nhiệm vụ của Toà không những nghiêm cấm đối lập chính trị mà còn có những biện pháp giam giữ và truy tố can phạm. Có nhiều ước lượng khác nhau về kết quả hoạt động của Toà này. Từ năm 1954 cho đến 1960 số tù nhân chính trị khoảng 50.000 người. Các số ước lượng không chính thức cao hơn, khoảng 150.000, số bị xử tử khoảng 12.000.  Luật này gây thương vong cho nhiều đảng viên và cuối cùng làm cho hoạt động của Cộng sản địa phương bị tê liệt.

Ngoài việc tăng cường các biện pháp an ninh gắt gao để cũng cố cho chế độ, ông Diệm càng mất dần các thiện cảm của nông dân qua các Quốc sách Cải cách Điền địa, Hành chánh địa phương và Ấp chiến lược.

Nông dân bất mãn

Cải cách Điền địa

Lễ phát tiền bồi thường truất hữu ruộng đất. Nguồn ảnh: Wikipedia

Hiểu rõ nỗi khổ của nông dân trong thời thuộc địa, nên ông Diệm quyết tâm cải thiện trong chế độ cộng hoà, như ông đã từng tuyên bố khi hoạch định chính sách: “Những cố gắng của chúng ta phải nhằm cải thiện đời sống quốc dân, nâng đỡ các giới cần lao, nhất là nông dân, san bằng những nỗi bất công, trừ diệt mọi mầm áp bức”.

Dù có quyết tâm thực hiện chương trình Cải cách Điền địa, nhưng trong thực tế, chính quyền đã một phần nào bị Toà Đại sứ Mỹ gây áp lực, và thành quả thu lượm được chỉ cải thiện một phần nào nhu cầu của nông dân.

Trong chiến tranh, Việt Minh đã tịch thu đất của đại điền chủ người Pháp và người Việt, phân phối lại cho nông dân.

Để tiến hành chương trình Cải cách Điền dịa, ngày 22/10/1956, Tổng thống Diệm cho ban hành Dụ số 57 nhằm trưng thu ruộng của tất cả các đại địa chủ để cho người nông dân nghèo mua trả góp. Nhờ thế, chánh phủ truất hữu 430.319 ha đất từ 1.085 đại điền chủ Nam kỳ và 220.813 mẫu ruộng của Pháp kiều.

Với 651.182 hecta đất, nông dân nghèo miền Nam và đồng bào miền Bắc di cư có cơ hội mua đất với giá rẻ và được trà góp trong 12 năm. Có nhiều trường hợp xảy ra là nông dân không trả nổi số tiền vay, cuối cùng được nhà nước tặng không.

Nhìn chung, giới điền chủ đều ủng hộ chính sách  của ông Diệm vì lý do là điền chủ miền Nam hưởng mức tối đa là 115 mẩu, (có tài liệu khác cho là chỉ có đến 100 mẩu),  phần còn lại được bồi thường trong khi Nhật Bản và Đại Hàn, quy định mức tái cấp tối đa là 2 mẩu để canh tác. Trước đây, họ bị xem như đã mất quyền sở hữu ruộng đất, nay chính phủ khôi phục, họ được quyền thu địa tô và lãnh tiền bồi thuờng thiệt hại nếu bị truất hữu.

Đối với 80% nông dân còn nghèo đói, thất học, không có an ninh, luôn bị du kích cộng sản đe dọa, nay họ có một cảm giác công bằng  và may mắn, là  vì từ không hay có ít đất, nay lên thành có nhiều đất hơn.

Theo một ước lượng trong năm 1955, 65% đất đai mền Nam nằm trong tay 10% dân chúng. Do đó, đời sống nông dân không cải thiện được nhiều.

Theo những nhận định khác, lý do chính là vì sau 10 năm thi hành biện pháp cải cách, chỉ có 55% số lượng đất này được cấp phát, cụ thể là, sau khi truất hữu 650.000 mẩu, ông Diệm phân phối cho nông dân khoảng 244.000 mẩu, phần còn lại được cấp phát cho đổng bào Công giáo di cư, binh sĩ và công chức. Một bất công tiềm ẩn trong dân chúng.

Do đó, đời sống nông dân, đặc biệt trong những năm thất mùa,  phải chịu hậu quả trầm trọng hơn. Việc giảm thuế địa tô từ 50% xuống tối đa còn 25% thu hoạch cũng không giúp cho họ khá hơn.

Ngược lại, một nhận xét trung thực là sản xuất nông phẩm tăng, gây nhiều tiếng vang cho Việt Nam trên thế giới. Từ năm 1955 đến 1962, mức sản xuất gạo đã tăng từ 2,8 triệu tấn đến 5 triệu tấn, còn xuất cảng tăng từ 70 ngàn tấn lên đến 323 ngàn tấn. Chính sách của ông Diệm thành công mà yếu tố chính là do viện trợ của Mỹ hào phóng.

Để giúp cho nông dân cải thiện phần nào, chương trình viện trợ nông phẩm của Mỹ mang tên Thực phẩm Phụng sự Hoà Bình (Food for Peace) trở thành nguồn cung cấp quan trọng. Khoản chi viện vật chất hào phóng này gồm lúa mì, bột mì, gạo và dầu ăn, nhưng không tới tay cho nông dân thụ hưởng, gây tiếng xấu cho ông Diệm.

Lý do là vì chính quyền địa phương tham nhũng và hàng viện trợ lại để cho các Cơ quan Cứu trợ Thiên Chúa giáo phân phối, có nghĩa là, trước hết phẩm vật đến tay cha xứ ở các tỉnh, và sau đó, dù không phải là hầu hết, nhưng nhiều nơi, lại ưu tiên cho tín đồ và một phần không nhỏ, được đưa ra bán ở thị trường chợ đen.

Nhưng nhìn chung, đời sống nông dân miền Nam vẫn con sung túc  hơn khi so với tình trạng nghèo đói miền Bắc, nơi mà các phong trào cải cách ruộng đất và hợp tác hoá theo mô hình của Mao Trạch Đông.

Hành chánh địa phương

Cũng giống như tại miền Bắc, địa phương tự trị là một đặc thù truyền thống của nông thôn miền Nam, “phép vua thua lệ làng” là một câu nói truyền tụng từ ngàn xưa vẫn còn đúng cho sinh hoạt hằng ngày tại đồng bằng sông Cửu Long; mọi việc “sau lũy tre xanh” như đề cử quan chức, xây đường đấp đê, tổ chức các ngày lể tết đều do dân chúng địa phương tự quyết định.

Để thay đổi, ông Diệm đưa ra các biện pháp nhân sự mới bằng cách điều động các viên chức từ địa phương khác tới, trong đó có cả thành phần người Bắc Công giáo di cư, hầu hết là những người chưa am tường tình hình địa phương mà chỉ lo việc tuân lệnh của chính phủ trung ương.

Ông Diệm còn thay đổi các địa danh tại nông thôn miền Nam còn âm hưởng Kampuchea ra thành Hán Việt. Rạch Giá là Kiên Giang, Cà Mau là An Xuyên, Trà Vinh là Vĩnh Bình, Chắc Cà Đao là Hoà Bình Thạnh, tất cả ngôn ngữ mới, dù là thanh tao và trang nhã, nhưng gây xa lạ cho cảm xúc gần gủi và quen thuộc của dân chúng từ lâu; do đó, cũng không tranh thủ được nhân tâm.

Thực ra, tranh chấp quyền lực trong sinh hoạt xã thôn là một vấn đề ngấm ngầm và phức tạp hơn nhân sự và địa danh. Mối quan hệ giữa địa chủ và nông dân không thuần là trong phạm vi kinh tế.

Vai trò của địa chủ tại nông thôn không thay đổi khi chế độ cộng hoà ra đời. Đó là một thái độ gia trưởng trong một xã hội cổ truyền còn sót lại, quyền lực tinh thần này không lệ thuộc vào cơ cấu hành chánh công quyền, họ còn nắm giử ưu thế trong mọi sinh hoạt địa phưong, cụ thể là làm chủ toạ các buổi lể quan trọng, kể cả trong quan hôn tang tế, trung gian mua bán nông phẩm, giải quyết các xung đột đủ loại. Do không cần phải có trách nhiệm giải trình theo luật pháp, nên có một khoảng trống chính trị đối với việc kiểm soát của chính quyền trung ương.

Dù ông Diệm có thiện chí trong việc cải cách hành chánh địa phương, nhưng được nhìn chung là sai lầm, gây bất mãn trong giới nông dân, mà điển hình nhất là việc thi hành quốc sách Ấp Chiến lược.

Quốc sách Ấp Chiến lược

Các xáo trộn tại nông thôn tiềm ẩn bắt đầu khi Tổng thống Diệm thực thi các chính sách nhằm cải thiện an ninh nông thôn, thoạt đầu là chính sách Dinh điền (1957), sau đó lả Khu Trù mật (1960) và cuối cùng là Ấp Chiến lược (1963).

Ấp Chiến lược. Nguồn ảnh: Wikipedia

Mục tiêu của các chương trình này là giúp cho địa phương tổ chức theo phương thức tự quản, tự phòng và tự phát triển. Tất cả các thôn ấp đều được bảo vệ bởi các rào cản kiên cố, các cổng chính ra vào làng được canh gác, ban ngày người dân được tự do đi lại và người lạ phải qua thủ tục kiểm soát, ban đêm các cổng được đóng lại.

Ngoài ra, các nơi còn có hệ thống báo động để phát hiện mọi trường hợp xâm nhập; thực tế là truy tìm dấu vết các cán bộ Việt Minh còn đang lén lút hoạt động, nhất là tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Để tổ chức cụ thể, chính quyền buộc nông dân dời nhà vào trong một khu vực có kiểm soát với lời hứa hẹn là tạo một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nông dân  được mua vật liệu xây dựng với giá rẻ và trợ giúp khởi nghiệp, nhưng các quan chức tận dụng cơ chế để trục lợi bằng cách báo cáo sai lạc.

Thiện chí của ông Diệm giúp cho nông dân là chân thành mà khi thực hiện là không tới tay người thụ hưởng, trong khi giới chức địa phương làm lũng đoạn kế hoạch và không thực tâm cải thiện.

Dù ông Diệm có đi nhiều nơi để trực tiếp khánh thành hay kinh lý, nhưng việc thực hiện chính sách là ngoài tầm kiểm soát. Các thành công tại các địa điểm Khu Trù mật Vị Thanh (Chương Thiện) hay Cái Bè, Cai Lậy (Định Tường) hoàn toàn được địa phương dàn dựng giả tạo khi ông Diệm đi kinh lý, nên có quá nhiều thiệt hại, mà nhất là thanh danh cho chế độ.

Thiệt hại kinh tế cho nông dân không đáng kể. Trong tâm hồn chất phác của nông dân, khi bị buộc phải rời bỏ xóm làng quen thuộc và xa cách mồ mả tổ tiên là một mất mát tinh thần không thể bù đắp. Đó là lý do tại sao có nhiều người dân không hưởng ứng chương trình, lúc đầu tham gia vì bị áp lực, nhưng sau thời gian không thích nghi, cũng tìm cách ở về nơi củ.

Tình hình an ninh nông thôn suy sụp, do đó, ngày 10 tháng 10 năm 1961, Tổng thống Diệm phải ban bố “tình trạng khẩn cấp trên toàn lãnh thổ”. Ngày 7 tháng 12 năm 1961, Tổng thống Diệm công khai thú nhận là “Việt Nam Cộng Hòa đang phải đối đầu với một thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử” và gởi thư cho Tổng thống John F. Kennedy xin tăng thêm viện trợ quân sự trong khi các biện pháp viện trợ của Mỹ tỏ ra không hữu hiệu.

Bất ổn nội tình làm cho một nghịch lý thành hình: Tổng thống Diệm không thể áp dụng cùng một lúc việc quân sự hoá và dân chủ hoá cho chế độ. Khi càng dập tắt các tiếng nói của các thành phần đối lập ở thành phố, ở nông thôn đường lối đấu tranh của MTGPMN càng thu hút hơn.

Thực tế cho thấy có nhiều nơi Việt Cộng kiểm soát 80% lãnh thổ, mức độ tử vong hằng tháng cho binh sĩ miền Nam lên khoảng 200 và số người bị thương lên hàng ngàn.

Thất bại này không phải là tại các vùng châu thổ sông Cửu Long đông dân, mà ngay trong vùng cao nguyên thưa thớt, nơi CIA có nhiều ảnh hưởng. Thành công của mô hình chiến khu Hải Yến ở Bình Hưng, Cà Mau do cha Nguyễn Lạc Hoá lãnh đạo những người Hoa chống Cộng không thể áp dụng cho cả nước, mà chỉ là một ngoại lệ.

Đâu là nguyên nhân?

Thực ra, không phải chỉ có ông Ngô Đình Nhu, Cố vấn Chính trị, là chịu trách nhiệm toàn bộ trong sự thất bại này, mà chính giới tại Washington có liên đới.

Trong khi ông Nhu cho là chiến thuật ngắn hạn là ưu tiên thì Cố vấn Roger Hilmans đề cao các biện pháp quân sự. Do đó, các biện pháp đấu tranh chính trị và cải thiện kinh tế cần giới hạn trong giai đoạn này.

Tướng Paul D. Harkins cho huy động trực thăng vận để yểm trợ các lực lượng bộ binh tại nhiều khu vực. Nhưng phương tiện dồi dào của Mỹ áp dụng cho khuôn khổ đấu tranh chống du kích chiến là không phù hợp, nhất là trong khi đang thiếu nhân tâm.

Các cuộc hành quân bộ binh có trực thăng yểm trợ thành công rõ rệt vì đẩy lui được du kích quân về các căn cứ địa, nhưng không thể hủy diệt toàn bộ Cộng quân vì có nông dân còn bao che hoặc do thiện tâm hoặc bị bắt buộc. Sau năm 1963, các quốc sách này đều bị bải bỏ.

(Xem chi tiết trong bài John F. Kennedy và cuộc chính biến 1 tháng 11 năm 1963.)

Về sau, khi thời gian lắng động và nhìn lại trong toàn cảnh, tất cả các phe phái, cho dù là theo phe thua hay thắng cuộc, còn mang nặng tinh thần suy tôn cụ Ngô hay chống đối Ngô triều, đều có những nhận định chung giống nhau.

Một là, có nhiều lý do để cho nông dân bất đắc dĩ phải bao che cho cán binh Cộng Sản hoạt động, hoặc là vì mối quan hệ thân nhân, hoặc là áp lực khủng bố địa phương mà họ không thể làm khác hơn.

Với trình độ đơn giản của nông dân, họ không có ý thức sâu xa về các mục tiêu đấu tranh giải phóng hay giai cấp, nhất là giai đoạn trước 1960, lý do chống Mỹ xâm lược chưa thành hình.

Nông dân cũng không phải là giới “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản“ như một thiểu số trí thức ở thành phố sau này.

Hai là, nếu so với các biện pháp diệt Cộng cực kỳ đẩm máu được thi hành tại Mã Lai, Philippines hay trong chiến dịch Phượng Hoàng của chế độ Đệ nhị Cộng hoà, thì chính sách Tố Cộng và Diệt Cộng của ông Diệm đã không triệt để, bị bao che, một phần là vì chính quyền quá sơ hở hoặc bị mua chuộc. Do đó, mầm móng Cộng Sản vẫn còn và gây tác hại về sau.

Ba là, một lý do khác quan trọng không kém là kinh nghiệm chống du kích thành công tại Philippines và Mã Lai không thể áp dụng tại Việt Nam.

Sau khi Edward Lansdale, vì nhiều lý do khác nhau, không tiếp tục nhiệm vụ giúp cho ông Diệm, kinh nghiệm tại Philiipines không còn được ai tại Việt Nam quan tâm.

Ý thức tầm quan trọng của vấn đề, Tổng thống Diệm có yêu cầu Sir Robert Thompson, một chuyên gia Anh chống du kích thành danh tại Mã Lai tiếp tục vai trò cố vấn.

Theo ý kiến của Thompson, Việt Nam phải đặt trong tâm chiến lược trong đấu tranh chính trị với nông dân và sử dụng bộ binh, tuyệt đối tránh dùng không quân.

Thompson bác bỏ ưu thế của không quân và chỉ trích Mỹ nặng nề khi ném bom xóm làng, trong khi Mỹ chủ trương sử dụng trực thăng vận là ưu tiên.

Do đó, kinh nghiệm của Thompson cũng như Lansdale không đóng góp nhiều cho Tổng thống Diệm trong việc chống Cộng.

Bốn là, chính sách về nông thôn của Tổng thống Diệm thoạt đầu có thành công nhất định; về sau, chính việc Tướng Nguyễn Khánh quyết định huỷ bỏ làm cho các hoạt động du kích phát triển mạnh hơn và tình hình an ninh nông thôn càng xấu đi.

Khi thanh danh Tổng thống Diệm tại nông thôn không còn, thì trí thức thành thị bắt đầu nhận ra bản chất của chế độ Ngô triều, nên cũng lên tiếng chống đối.

Trí thức chống đối

Ngày 26 tháng Tư năm 1960, 18 trí thức gồm các viên chức cao cấp trong chính quyền đồng thanh lên tiếng yêu cầu cải cách chế độ qua một bảng Tuyên cáo mệnh danh là Caravelle.

Sở dĩ được gọi Caravelle vì địa điểm gặp gở là Hotel Caravelle, một khách sạn sang trọng bậc nhất của Sài Gòn, thực ra, danh xưng chính thức là Nhóm Tự do Tiến bộ.

Khách sạn Caravelle. Nguồn ảnh: Wikipedia

Với lời lẽ rất ôn hoà, Bảng Tuyên cáo của nhóm Caravelle cáo buộc các biện pháp chính trị, hành chính, xã hội và quân sự của chính quyền là sai lầm, làm cho dân chúng bất mãn và giảm tiềm lực đấu tranh chống Cộng. Để đối phó, chính quyền phải thực thi dân chủ và chấm dứt chế độ gia đình trị.

Trong khi hình thức đối lập công khai của tầng lớp trí thức chưa thành hình trong một chế độ độc tài, nên Tổng thống Diệm phản ứng mạnh tay. Tất cả những người ký tên trong Bảng Tuyên bố Caravelle bị quy kết cho là có liên hệ với Cộng sản.

Dù là các chính khách tên tuổi, có nhiều ảnh hưởng trong xã hội, thuộc nhiều khuynh hướng chính trị, tôn giáo khác nhau, chống Cộng, hay đối lập, Bảng Tuyên bố gây tiếng vang quá khiêm nhường.

Sau đó, ngay trong nội các lại có nhiều bất đồng chính kiến gay gắt. Cuối cùng, hậu quả là việc bốn Bộ trưởng Lâm Lễ Trinh (Nội Vụ), Trần Trung Dung (Phụ tá Quốc Phòng), Trần Chánh Thành (Thông Tin) và Nguyễn Văn Sĩ (Tư Pháp) từ chức.

Cho đến ngay nay, các trí thức lãnh đạo nhóm Caravelle như Phan Khắc Sửu, Trần Văn Văn, Trần Văn Đỗ  được ca ngợi là là những nhân sĩ liêm khiết, họ vẫn còn được dân chúng nể trọng vì những đóng góp cao quý cho đất nước.

Đa số nông dân và thiểu số trí thức bất mãn ngày càng nhiều. Họ lên tiếng công kích chế độ, nhưng không có kết quả.

Đến khi quân đội nhận thức là chế độ Ngô triều suy thoái, nguy cơ cho sinh mệnh của ông Diệm và chế độ trầm trọng hơn, đó là lý do xảy ra một cuộc âm mưu đảo chính.

Quân đội đảo chánh

Tình hình an ninh nội chính càng bất ổn, ông Diệm càng có ý thức hơn về sinh mệnh cho cá nhân và chế độ.

Cho đến năm 1963, ông đã bị mưu sát tất cả ba lần và đều bình yên. Nổi tiếng nhất là vụ ám sát ở hội chợ Ban Mê Thuột vào lúc 9 giờ sáng ngày 22 tháng 2 năm1957. Mưu sự bất thành, hung thủ là Hà Minh Trí, 22 tuổi bị bắt ngay tại trận. Về sau, Cộng Sản đã hãnh diện lên tiếng xác nhận là đã đứng ra tổ chức cả ba.

Nhưng ngày 11 tháng 11 năm 1960 mới là lần đầu tiên quân đội chống chế độ bằng cách đảo chính.

Cũng giống như đa số nông dân và trí thức, hầu hết các tướng lãnh cáo buộc ông Diệm đã bổ nhiệm các người thân cận nắm quân đội và đề nghị là vợ chồng ông Nhu đang lạm quyền phải  xuất ngoại. Nguyện vọng này không được ông Diệm quan tâm.

Do đó, một số sĩ quan cho là mâu thuẩn không còn giải pháp và cách hay nhất là phải lật đổ chế độ.

Không giống như các soạn thảo kế hoạch trong các lần sau, ngay trong lần đầu tiên này, mọi việc chuẩn bị diễn ra trong tuyệt mật, không có CIA hay Toà Đại sứ Mỹ tham gia.

Đại sứ Mỹ Durbrow, dù có lên tiếng chỉ trích cá nhân Tổng thống Diệm, nhưng quan điểm chính thức của chính phủ Mỹ là vẫn giữ lập trường ủng hộ chế độ.

Hai nhân vật đầu não của tổ chức đảo chính là Đại tá Nguyền Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông. Tổ chức huy động được một Trung đoàn Thiết giáp, một đơn vị Hải quân và ba Tiểu đoàn Nhảy dù tham gia.

Lực lương đảo chính tấn công vào ngày 11 tháng 11 nằm 1960, nhưng không thể chiếm giử các mục tiêu quan trọng như Đài Phát thanh Sài Gòn hay ngăn chận các trục lộ giao thông chính vào thành phố.

Việc bao vây Dinh Độc Lập bị trì trệ, nên Tổng thống Diệm tìm cách hoãn binh, và tuyên bố là sẽ thoả hiệp với phe đảo chính để thành lập chính phủ lâm thời, nhưng thực tế là tìm cách huy động các lực lượng trung thành với đến giải cứu.

Đại tướng Lê Văn Tỵ, Tổng tham mưu trưởng QLVNCH, dù đồng ý hợp tác tạm thời với phe đảo chính, nhưng yêu cầu phải thương lượng với Tổng thống Diệm để tìm giải pháp.

Cuối cùng, may mắn cho ông Diệm là lực lượng trung thành còn đủ thời gian đến kịp và cuộc giao tranh diễn ra trong chớp nhoáng và khốc liệt. Quân đảo chính không đủ khả năng chống trả nên bị tiêu diệt. Tổng cộng có khoàng 400 người chết, trong đó có cả thường dân hiếu kỳ đi xem. Sau đó, các sĩ quan và chính khách tham gia bị đưa ra xét xử.

Ý thức được nguy cơ suy vong cho chế độ, Tổng thống Diệm càng thi hành nhiều biện pháp gắt gao. Để biện minh, ông Diệm cho là trong giai đoạn này hiểm hoạ xâm lăng của Cộng sản đã gần kề, chính quyền cần phải tập trung nguồn lực để bảo vệ đất nước. Các thành phần đối lập bị bắt giam nhiều hơn và một số bị mất tích.

Tóm lại, những thành tựu xây dựng của Tổng thống Diệm và quân dân miền Nam là đáng khâm phục. Nhưng kể từ năm 1960 trở đi, nhất là khi Mặt trận Giải phóng miền Nam (MTGPMN) ra đời, miền Nam và chính thể Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà đi vào một giai đoạn bất ổn triền miên và kết thúc vào ngày 1/11/1963.

Chim báo bão: Liệu Tập Cận Bình có được đảm bảo địa vị “Nhà lãnh đạo suốt đời” tại Hội nghị Trung ương 6? (Phần 2)

The Jamestown Foundation

Tác giả: Willy Wo-Lap Lam

Lê Minh Nguyên, dịch

12-11-2021

Từ ngữ “lãnh đạo suốt đời” không có xuất hiện trong thông cáo tóm tắt Nghị quyết về Lịch sử đảng được thông qua tại Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) Khóa 19 tổ chức tại Bắc Kinh từ ngày 8 đến ngày 11 tháng 11. Tuy nhiên, không còn nghi ngờ gì về việc Chủ tịch Tập Cận Bình đã giành được sự chấp thuận của Ủy ban Trung ương để tại vị thêm một nhiệm kỳ, nếu không muốn nói là hai nhiệm kỳ 5-năm nữa.

Trao đổi về nguyên nhân bạo lực

Nguyễn Đình Cống

22-11-2021

Báo Tiếng Dân ngày 19 tháng 11 đăng bài của ông Trương Nhân Tuấn: “Bạo lực phát sinh trong xã hội là do luật pháp lỏng lẻo, hay là do văn hóa truyền thống”, với câu kết “Bạo lực hay không là do luật pháp chớ đâu phải do văn hóa”.

Nhân ngày “học trò nhớ ơn thầy giáo”…

Trương Nhân Tuấn

20-11-2021

“Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy”; “Không thầy đố mầy làm nên”… là các câu ca dao của Việt Nam nói lên “nghĩa vụ” của người con, của người học trò đối với bậc phụ mẫu và thầy giáo.

Có một nhà giáo xứng đáng được tôn vinh: Phạm Toàn!

Mạc Văn Trang

19-11-2021

Ông không là Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú, Nhà giáo Nhân dân, không bằng khen, không chức vụ. Ông chỉ là Nhà giáo Phạm Toàn.

Những người thầy và bài học lịch sử năm xưa

Trịnh Khả Nguyên

19-11-2021

Làm con phải nhớ ông cha

Làm dân phải nhớ nước nhà từ xưa

Họ nào trước đã làm vua,

Chiến tranh mấy thủa, được thua thế nào…”

EV-FTA và nước cờ dang dở của các nhóm XHDS độc lập Việt Nam

Thục Quyên

18-11-2021

Ngày 9/11/2021 đại diện của hai Nhóm Tư vấn Nội địa (DAG) thuộc Liên minh Âu châu (EU) cũng như Việt Nam, đã tổ chức cuộc họp trực tuyến đầu tiên, sau khi cuộc họp lên kế hoạch ngày 3 và ngày 4/6/2021 bị hủy bỏ, vì chính phủ Việt Nam nêu quan ngại về sự tham gia của xã hội dân sự. (1)

100 năm ngày sinh họa sĩ Tạ Tỵ và giấc mộng con năm 2000

Ngô Thế Vinh

17-11-2021

Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà… Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho mình. Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Tạ Tỵ [Thư gửi Ngô Thế Vinh viết ngày 29.2 và 27.7.2000]

Hình 1: Trái, Tạ Tỵ 31 tuổi, sau 4 năm theo kháng chiến chống Pháp và về thành (Hà Nội, 1952); giữa, Thiếu Tá Tạ Tỵ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà; phải, chân dung Tạ Tỵ năm 2000. Sau 1975, ông đã phải đi tù cải tạo 6 năm, hồi ký Đáy Địa Ngục ghi lại kinh nghiệm ông đã trải qua trong những năm tháng nghiệt ngã tù đày với lao động khổ sai “ăn không đủ no, đói không đủ chết”. Nguồn: Album gia đình Tạ Tỵ, photo by Phạm Phú Minh, Đáy Địa Ngục, Nxb Thằng Mõ 1985.

TIỂU SỬ

Tạ Tỵ là bút danh, Tạ Văn Tỵ là tên thật, sinh ngày 3 tháng 5 năm 1921 (tức ngày 26 tháng 3 năm Tân Dậu) tại Hà Nội, nhưng trên giấy khai sinh lại ghi là ngày 24 tháng 9 năm 1922, vì khai muộn một năm. Ngay từ khi còn là một sinh viên trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương / École Supérieure des Beaux-Arts de l’Indochine, Tạ Tỵ đã thành danh khá sớm.

Năm 1941, ở tuổi 20, do đoạt một giải thưởng tranh của nhà trường, Tạ Tỵ được đến thăm kinh đô Huế.

Năm 1943, Tạ Tỵ tốt nghiệp khoa Sơn Mài tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương nhưng dấu ấn Hội hoạ của ông không phải là những tác phẩm Sơn Mài. Tạ Tỵ luôn luôn đi tìm cái mới, và được xem là người đi tiên phong vào lãnh vực Lập Thể / Cubisme và Trừu Tượng / Abstrait của hội hoạ Việt Nam.

Và cũng năm 1943, sau khi vừa tốt nghiệp, Tạ Tỵ đoạt ngay một giải thưởng với bức tranh “Mùa Hạ” (tân ấn tượng / néo-impressionnisme) được giải thưởng tại phòng Triển lãm Duy nhất (Salon Unique) “vì có một phương pháp diễn tả theo khuynh hướng mới, tuy chưa hẳn là lập thể, nhưng các hình thể đã được biến cải theo sở thích riêng.” [1]

Năm 1946, trong cuộc triển lãm Hội hoạ Tháng Tám tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, với số lượng tác phẩm đông đảo, Tạ Tỵ đã tham dự với bức tranh sơn mài “Hoa Đăng” (siêu thực / surréalisme) được Hiệp Hội Báo Chí VN trao giải, nhưng tiền thưởng chưa lãnh thì ngay sau đó chiến tranh toàn quốc bùng nổ. [1]

Hình 2: Tác phẩm “Hoa Đăng” sơn mài (siêu thực / surrealisme) của Tạ Tỵ trong cuộc triển lãm Tháng Tám 1946 tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, được Hiệp Hội Báo Chí VN trao giải thưởng.

Năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, Tạ Tỵ đã cùng với nhiều văn nghệ sĩ yêu nước khác, hăng hái tham gia mặt trận kháng chiến chống Pháp và ông là giáo sư dạy Mỹ thuật đầu tiên trong Liên Khu 3. Tác phẩm “Nhớ Hà Nội” năm 1947 (20 × 25 cm) được Tạ Tỵ vẽ trong giai đoạn này.

Hình 3: Tác phẩm “Nhớ Hà Nội” (20 × 25 cm) được Tạ Tỵ vẽ năm 1947, giai đoạn theo kháng chiến trong Liên Khu Ba.

Năm 1948, trong một hội nghị Văn Hoá Văn Nghệ, Trường Chinh đã mạnh mẽ lên án: “Chủ nghĩa Lập Thể, Siêu Thực, Đa Đa là những cái nấm độc trên cái thân thể mục ruỗng của nền văn hoá đế quốc.” [Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam, 1948].

Tháng Năm 1950, sau bốn năm đi theo kháng chiến, thấy rõ bộ mặt thật của Việt Minh, cùng với cách suy nghĩ không hợp với họ, Tạ Tỵ đã cùng nhiều văn nghệ sĩ khác như Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Phạm Duy, Tam Lang Vũ Đình Chí, Hoàng Công Khanh đã dứt khoát từ bỏ khu chiến để trở về Hà Nội.

Từ đầu thập niên 1950, trở về với nếp sống văn hoá Hà Nội 36 phố phường với Năm Cửa Ô, Tạ Tỵ đã mạnh mẽ đi tiếp con đường sáng tạo với tự do đi tìm cái mới; ngoài vẽ tranh, vẽ ký / biếm hoạ chân dung (caricatures) các văn nghệ sĩ, ông còn cầm bút sáng tác: truyện, thơ, kịch, bút ký, viết nhận định văn học, trình bày sách báo… chứng tỏ Tạ Tỵ là một tài năng rất đa diện.

Năm 1951, ông mở cuộc triển lãm cá nhân đầu tiên mang tên Hội Hoạ Hiện Đại tại Hà Nội, trưng bày 60 bức tranh Lập thể.

Hình 4: Trái, “Đàn bà” còn có tên là “Cô đơn”, phải, “Vàng và Tím” là hai tác phẩm tiêu biểu thời kỳ Lập Thể của Tạ Tỵ, 1951 – Tạ Tỵ gọi đó là chiều thứ tư (4ème dimension), chiều động trong kỹ thuật tạo hình. [1]

Năm 1953, Tạ Tỵ nhận được lệnh động viên, ông phải tạm xa Hà Nội và gia đình để vào Nam, gia nhập Khoá 3 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và ra trường với cấp bậc thiếu uý. Ông phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà tại Tổng Cục Chiến tranh Chính trị cho tới khi giải ngũ, với cấp bậc sau cùng là Trung Tá.

Năm 1956, Tạ Tỵ triển lãm cá nhân lần thứ hai với 50 hoạ phẩm lập thể, tại Phòng Thông Tin Đô Thành Sài Gòn, nhưng là lần đầu tiên ở miền Nam, được đánh giá là thành công cả về nghệ thuật cũng như tài chánh.

Trong tập sách mỏng giới thiệu cuộc triển lãm (ngày 8/8/1956), Tạ Tỵ viết: “Mời bạn hãy vào – Cửa vườn tôi đã mở sau 5 năm trời khép kín – vườn của tôi sau khoảng thời gian giam cầm trong suy nghĩ, trong dằn vặt, trong giận hờn để tìm những cánh màu của tâm tư chắp nối lại và thêu dệt bằng tin tưởng, tạo thành một thế giới của hình thể, của sắc màu, qua bức tường vách ngăn của lý trí và rung động…” [5]

Hình 5: “Nhịp Calypso” (1960), tranh lập thể sơn dầu trên canvas, sưu tập của Mặc Đỗ, bức tranh đã phải bỏ lại khi Mặc Đỗ âm thầm di tản khỏi Sài Gòn ngày 29/04/1975.

Tuy là họa sĩ Việt Nam tiên phong và thành công trong Hội Hoạ Lập Thể, nhưng ông vẫn luôn luôn có ý hướng đi tìm cái mới, từ thập niên 1960, Tạ Tỵ đã chuyển hướng sang tranh Trừu Tượng.

Năm 1961, ông triển lãm cá nhân lần thứ hai với 60 bức tranh trừu tượng và lập thể cũng tại Phòng Thông Tin Đô Thành Sài Gòn. Đánh dấu một bước thành công sáng tạo mới của Tạ Tỵ.

TẠ TỴ: TẠI SAO LẬP THỂ

Trong một Hồi ký viết ở hải ngoại Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi [Nxb Thằng Mõ 1990], Tạ Tỵ đã giải thích do cơ duyên nào mà anh đi vào Hội Hoạ Lập Thể:

“Tôi bẩm sinh là một con người thích tiến bộ, thích cái gì mới. Khi còn học ở trường Mỹ Thuật, tôi không mấy thích lối vẽ chân phương theo quy luật của nhà trường bắt buộc. Tôi thường đến thư viện mượn sách đọc, lẽ dĩ nhiên, loại sách thuộc về mỹ thuật. Tôi mê các tác phẩm của Van Gogh, Gauguin và Matisse. Tôi nghiên cứu và tìm hiểu mỹ thuật tạo hình ở mỗi tác giả. Nhưng sau một thời gian, tôi thấy các nhà danh hoạ trên vẫn phải dựa vào thiên nhiên và sự vật cũng như con người để tạo dựng tác phẩm. Tôi nghiên cứu và tìm hiểu các hoạ phái khác nhau như Siêu Thực, DaDa và Lập Thể. Tôi thích trường phái Lập Thể qua các tác phẩm của G. Braque hơn là Picasso. Tôi mê chiều thứ tư (4ème dimension) của hoạ phái này – mà Tạ Tỵ gọi đó là chiều động trong kỹ thuật tạo hình, vì nó làm cho tác phẩm trở nên sống động, chứ không trơ trơ như các hoạ phái khác.” [1]

TẠ TỴ: TẠI SAO TRỪU TƯỢNG

Trả lời Nguiễn Ngu Í Bách Khoa [Báo Bách Khoa, số 131, ngày 15-6-1962]:

Hội hoạ Việt Nam hiện có nhiều xu hướng từ Ấn tượng tới Trừu tượng, nhưng tất cả đang ở giai đoạn tìm tòi và khai thác. Riêng tôi, từ 18 năm nay đã chọn con đường Hội hoạ mới. Tôi đã đi qua trường phái Ấn tượng, Tân Ấn tượng, Lập thể, Siêu thực và trong 6 năm gần đây tôi vẽ tranh Trừu tượng

Sự nhầm lẫn và cũng là điều tai hại cho Nghệ thuật Hội hoạ là mỗi người yêu hội hoạ khi đặt chân vào phòng Triển lãm Hội hoạ Mới, hoặc đứng trước hoạ phẩm Trừu tượng, đều cố tìm xem hoạ sĩ vẽ cái gì, “nói” gì ở trong kích thước đó? Sự băn khoăn thắc mắc này nhiều khi gây khó chịu đến độ trầm trọng nếu người thưởng ngoạn không kiên tâm tìm hiểu.

Nhưng đứng trước một hoạ phẩm Trừu tượng dù cho người thưởng ngoạn có kiên tâm, thiện chí đến đâu, nếu không biết qua về kỹ thuật Tạo Hình do kinh nghiệm hoặc sách vở, báo chí chuyên môn về Hội hoạ, cũng đành lắc đầu chán nản trước bức trường thành cao vút ngăn đôi thông cảm. Sự kiện ấy có, vì chúng ta quen nhìn Hội họa với quan niệm thưởng ngoạn cũ. Hôm nay quan niệm về cái đẹp đã đổi khác, lẽ dĩ nhiên cái nhìn cũng phải thay đổi. Hôm nay đứng trước một hoạ phẩm trừu tượng, người thưởng ngoạn không nên và không bao giờ nên tìm hiểu hoạ sĩ đã vẽ gì trong kích thước đó, mà chỉ nên tìm hiểu mình đã nghĩ gì về tác phẩm trước mắt mình? Cảm giác đầu tiên nào đã đột nhập vào trí não mình để bắt nguồn cho rung động.

Những màu sắc và hình thể kia có phải là những dấu hiệu của riêng mình đã in vào tiềm thức? Người hoạ sĩ không có lý do để hiện diện trong tác phẩm thuộc loại Trừu tượng, trừ cái tên ký ở góc tranh. Cái tên này cũng chỉ được dùng như một thứ nhãn hiệu, vì trong lúc sáng tạo, chính hoạ sĩ cũng là kẻ thưởng ngoạn có “quyền ưu tiên” vì họ có kỹ thuật, thế thôi. Trong Nghệ thuật Hội hoạ hiện tại, không ai có quyền bắt ai lệ thuộc vào ý nghĩ, vào kỹ thuật tạo hình do cá nhân đảm nhiệm. Mỗi người tự tìm lấy sự say mê của mình trong từng kích thước nhất định.” [2]

Hình 6: Nguiễn Ngu Í phỏng vấn Tạ Tỵ trên báo Bách Khoa số 131, ngày 15-6-1962, từ trái, bìa và hai trang báo Bách Khoa số 131; phải, chân dung nhà văn nhà báo Nguiễn Ngu Í, người thực hiện đợt phỏng vấn về Quan Niệm Hội Hoạ của khoảng 40 hoạ sĩ Việt Nam.  

Năm 1966, dự định trưng bày lần thứ ba tại Sài Gòn 50 hoạ phẩm Trừu tượng mới nhất nhưng không thành. Năm 1971, Tạ Tỵ lại dự định tổ chức phòng triển lãm tranh gồm 50 chân dung văn nghệ sĩ miền Nam nhưng rồi cũng dở dang do tình hình chiến sự sôi động lúc đó.

Và gần như theo chu kỳ, cứ mỗi 5 năm, Tạ Tỵ mới triển lãm một lần: 1951, 1956, 1961, 1966, 1971… Khi trao đổi với nhà văn Nguiễn Ngu Í, hoạ sĩ Tạ Tỵ giải thích:

“Sở dĩ tôi phải để một thời gian lâu như thế như anh biết những thì giờ tốt đẹp nhất trong một ngày để sáng tác tôi không được sử dụng, tôi chỉ còn làm việc quanh năm với ánh đèn, với muỗi [Tạ Tỵ vẫn còn làm việc toàn thời gian trong quân ngũ quân lực VNCH – ghi chú của người viết]; vả lại muốn mỗi phòng triển lãm của tôi ít nhất phải ghi lại trong tâm người thưởng ngoạn một chút kỷ niệm về sự cố gắng của cá nhân trong phạm vi Nghệ thuật. Muốn thâu được kết quả ấy, yếu tố thời gian là yếu tố quyết định.” [2]

Vào đầu thập niên 1960, Tạ Tỵ vẽ một loạt chân dung các văn nghệ sĩ Việt Nam với một phong cách rất độc đáo, anh nhạy bén bắt được cái thần ở từng khuôn mặt, và đây là một lãnh vực tài hoa khác của Tạ Tỵ mà chưa ai sánh được.

Hình 7: Chân dung văn nghệ sĩ qua nét vẽ Tạ Tỵ, từ trái trên Mặc Đỗ, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền; từ trái dưới Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Dương Nghiễm Mậu. Đây cũng là sáu chân dung có trong Tuyển Tập Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hoá của Ngô Thế Vinh, Việt Ecology Press xuất bản 2017. Nguồn từ album gia đình Tạ Tỵ

Tác phẩm của Tạ Tỵ còn được trưng bày tại các bảo tàng viện nghệ thuật quốc tế ở Tokyo, San Francisco, New YorkParis.

Bức tranh “Đàn bà” còn có tên là “Cô đơn” (1951) được nhà Sotheby’s đấu giá hồi tháng 4 năm 2000, và bán được với giá khá cao 19.550 Singapore dollars. Trong catalogue của Sotheby’s đã nhận xét bức tranh: “Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ Lập Thể của Tạ Tỵ. Tác giả sử dụng tài tình những màu sắc mạnh mẽ, đặt nhân vật ngay vào ngay trung tâm bức tranh, những hình thể kỷ hà, chẳng hạn như việc xử lý mái tóc không tuân theo luật đăng đối, đường nét mạnh bạo của chiếc cổ và sự sắp xếp của khăn quàng thành những mặt cắt của một hình kim cương… tất cả bố cục này tạo thành một bức tranh Lập Thể độc đáo.”

Bức Mùa hè đỏ lửa (1972, 350 x 170 cm), tranh sơn dầu, phong cách trừu tượng, được treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Sài Gòn từ năm 1998. Khi Tạ Tỵ trở về Việt Nam 2003, bức tranh được đổi tên Cất Cánh. Đây là bức tranh sơn dầu lớn nhất trong bộ sưu tập của nhà bảo tàng này.

Hình 8: từ phải, Tạ Tỵ, Phạm Đình Chương, Nguyễn Sĩ Tế, Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo trong một buổi họp mặt trước 1975 ở Sài Gòn. Nguồn: Album gia đình Tạ Tỵ

TẠ TỴ: TẠI SAO VIẾT

Trả lời câu hỏi ấy trên tạp chí Hợp Lưu (số 32, Xuân Đinh Sửu 1997, trang 216), khi Tạ Tỵ đã ở tuổi 76, ông tâm sự:

Tôi sinh ra đời, hình như định mệnh đã an bài, bởi vậy tất cả những gì tôi làm ra đều có bàn tay của định mệnh dính vào. Lúc còn trẻ tôi yêu tất cả những thứ gì thuộc về văn chương nghệ thuật, nhưng tôi mê kéo vĩ cầm hơn cả. Vào năm 1936-37 gì đó, tôi được nghe tiếng đàn của nhạc sĩ Nguyễn Văn Giệp tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Anh chơi bản Danse Macabre với tiếng dương cầm phụ họa của nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiếu. Tất cả nhà hát đều yên lặng để thưởng thức tiếng đàn tuyệt vời của hai nhạc sĩ trứ danh nhất của đất Thăng Long thời đó. Tôi về nhà xin Mẹ tiền mua cây đàn và quyển Mazas, là cuốn sách học kéo violon vỡ lòng. Tôi học kéo đàn song song với học vẽ ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Vì mê học nhạc nên tôi quen với cố nhạc sĩ Đỗ Thế Phiệt. Sau mấy năm học thấy không có tiến bộ, tôi bỏ đàn, chuyên về vẽ…

Còn một trở ngại to lớn nữa là người họa sĩ chỉ vẽ tấm tranh duy nhất, nếu bán đi, người họa sĩ không còn gì ngoài tấm ảnh chụp giữ làm kỷ niệm. Vì nhìn thấy cái thế “yếu” của hội họa, vả lại, cuộc sống trong chiến tranh có rất nhiều sự việc tác động mạnh và sâu đậm trong tâm cảm mà hội họa bất lực, không thể nói bằng màu sắc được. Do đó, tôi phải nhờ tới văn chương cũng như thi ca để bày tỏ lập trường, cùng thái độ sống trước tập thể, trước xã hội.

Biết bao nhiêu đổ vỡ, tang thương do chiến tranh gây ra. Biết bao nhiêu tuổi trẻ đã lên đường và cũng có bao nhiêu vòng khăn tang đã quấn ngang đầu, bao nhiêu tiếng khóc than vật vã, với đôi tay bé nhỏ xanh xao của người góa phụ, ôm lấy chiếc quan tài phủ lá quốc kỳ với vòng hoa cườm có hàng chữ “Tổ Quốc Ghi Ơn”, nhưng tôi được biết, trong chiếc quan tài đó chỉ có chiếc bọc nylon ôm gọn thây người chiến sĩ đã nát bấy vì pháo địch, chỉ còn lại một đống thịt xương bầy nhầy với chiếc thẻ bài lẫn lộn trong vũng máu đông đặc vì được cất kỹ trong ô kéo của căn phòng chứa xác cực lạnh. Ngay cạnh đó, một đứa nhỏ chừng ba tuổi gầy ốm đứng nhìn ngơ ngác!

Còn biết bao nhiêu cuộc tình tan tác như những chiếc bong bóng thổi bằng bọt xà bông. Đại lộ kinh hoàng còn đó. Xác những chiếc xe tăng của Trung Cộng, của Liên Xô, của Mỹ còn nằm rải rác dọc theo đường số 1 như những con quái vật thời tiền sử và còn nhiều, nhiều nữa những dấu ấn của chiến tranh cần phải nói ra, nhưng hội họa quả tình bất lực trước vấn đề này. Chỉ có văn chương mới đủ sức khai quật những oan khuất chìm ở đáy sâu tâm cảm.[1]

VĂN HỌC:

– Đã cộng tác với các tạp chí văn học tại miền Bắc và miền Nam từ năm 1950 đến 30-4-1975: Thế Kỷ, Đời Mới, Nguồn Sống Mới, Sáng Tạo, Văn, Văn Học, Hiện Đại, Nghệ Thuật, Bách Khoa và Tin Văn, và sau 1975: Thế Kỷ 21 tại Hoa Kỳ.

Những Tác Phẩm Đã Xuất Bản Tại Miền Nam trước 1975

  1. Những Viên Sỏi, tập truyện, Nam Chi Tùng Thư, 1962
  2. Yêu Và Thù, tập truyện, Phạm Quang Khai, 1970
  3. Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, nhận định văn học, Nam Chi Tùng Thư 1970.
  4. Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn, văn sử học, 1971
  5. Cho Cuộc Đời, thơ, Khai Phóng, 1971
  6. Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, nhận định văn học, Lá Bối, 1972, Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, 1991
  7. Bao Giờ, tập truyện, Gìn Vàng Giữ Ngọc xuất bản, 1972
  8. Ý Nghĩ, tạp văn, Khai Phóng, 1974.

Hình 9: Những Tác Phẩm Tạ Tỵ đã Xuất Bản Tại Miền Nam trước 1975, trên từ trái, Những viên sỏi, tập truyện, Nam Chi Tùng Thư, 1962. Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn, văn sử học, 1971. Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, nhận định văn học, Lá Bối, 1972. Bao Giờ, tập truyện, Gìn Vàng Giữ Ngọc xuất bản 1972. Riêng tác phẩm Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, do Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1970 ở Sài Gòn, đã được nhà xuất bản Hội Nhà Văn Việt Nam tái bản tại Hà Nội năm 1996, nhưng họ đã tuỳ tiện biên tập, cắt bỏ khuôn mặt văn nghệ Mai Thảo ra khỏi cuốn sách, thay vào Trịnh Công Sơn, mà không hề có phép của Tạ Tỵ. Tư liệu của Thành Tôn

Những Tác Phẩm Xuất Bản Tại Hoa Kỳ:

  1. Đáy Địa Ngục, hồi ký cải tạo, Cơ Sở Thằng Mõ, 1985
  2. Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đã Đi Qua Đời Tôi, hồi ký, Thằng Mõ, 1990
  3. Xóm Nhà Tôi, tập truyện viết trong những ngày tháng lưu vong nơi đất khách, Nxb Xuân Thu, 1992
  4. Mây Bay, thi phẩm, Miền Nam xuất bản, 1996

Hình 10: Những cuốn sách của Tạ Tỵ xuất bản ở hải ngoại, từ trái, Đáy Địa Ngục, Xóm Nhà Tôi, Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi. Tư liệu Thành Tôn

Hình 11: Từ trái, Một Chuyến Ngao Du, truyện, nhà xuất bản Xuân Thu, California 2000, với thủ bút đề tặng của tác giả. Tư liệu Ngô Thế Vinh]

Thơ Tạ Tỵ

Thương về năm cửa Ô xưa

Tôi đứng bên này vỹ tuyến

Thương về năm cửa Ô xưa

Quan Chưởng đêm tàn dẫn lối

Đê cao hun hút chợ Dừa

Cầu Rền mưa dầm lầy lội

Gió về đã buốt lòng chưa?

Yên Phụ đôi bờ sóng vỗ

Nhị Hà lấp lánh sao thưa

Cầu Giấy đường hoa phượng vĩ

Nhớ nhung biết mấy cho vừa…

Cửa Ô ơi, cửa Ô

Năm ngả đường đất nước

Trôi từ vạn nẻo sông hồ

Nắng mưa bốn hướng đổ vào lòng Hà Nội

Gục đầu nhớ tiếng võng đưa!…

Có biết chăng ai, mái tóc bồng bềnh chảy xuôi ý đẹp

Có nhớ chăng ai, lệ nào ướt đẫm tình người

Tê tái tiếng cười

Từng cánh hoa đời khép lại

Thương về năm cửa Ô xưa!

Tạ Tỵ được giải ngũ vào tháng 6 năm 1974 theo quy chế sau 21 năm công vụ, ở tuổi 53, vẫn còn khoẻ mạnh, đang ở cái tuổi chín muồi của sáng tạo. Anh rất vui với ý nghĩ rằng từ nay sẽ có thời gian để phụng sự nghệ thuật. Nhưng rồi ngày 30/4/1975 đổ ập đến, tất cả mọi dự án về nghệ thuật đều tan biến. Đã thế, cho dù đã giải ngũ, anh vẫn bị bắt đi tù cải tạo. Cùng với bao nhiêu đồng đội và thế hệ văn nghệ sĩ miền Nam, anh đã bị đày ải trong những nhà tù từ Nam ra Bắc, rồi nhà tù lớn là một đất nước Việt Nam CS, tổng cộng 6 năm (1975-1981), nhưng may mắn sống sót, trong khi đó nhiều đồng đội cùng với các nhà văn, nhà báo miền Nam bạn anh thì đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường… hay vừa ra khỏi nhà tù thì chết như Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường.

Vào đầu năm 1981, Tạ Tỵ được tha về với tấm thân tàn ma dại, tóc bạc răng long. Và nơi chương cuối cuốn hồi ký Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi, xuất bản tại Hoa Kỳ (1990), Tạ Tỵ viết: “Trước khi đi tù cải tạo tôi cân được 62 kg, khi ra tù chỉ còn đúng 35 kg. Tôi gầy như bộ xương biết đi. Răng rụng gần hết, còn vài cái kể như vô dụng trong vấn đề ăn uống. Trong tờ “Giấy Ra Trại”, Cộng sản ghi lý do: “Quá già yếu, không còn đủ sức lao động”! Họ tha và tin rằng, thế nào tôi cũng chết, có thể trên đường về, và có thể gặp vợ con rồi xuống đất !” Nhưng rồi Tạ Tỵ vẫn sống sót. [1]

Tạ Tỵ là bạn thân thiết với Lê Ngộ Châu từ hồi báo Bách Khoa, nên hai người vẫn gặp nhau luôn. “Khi mới được tha về, Lê Ngộ Châu bảo tôi phải đi chụp gấp tấm ảnh làm kỷ niệm, kẻo sau này, nhờ dinh dưỡng cậu khác đi làm sao có được cái hình hài này? Tôi nghe lời, hôm sau đến tiệm hình chụp một tấm. Mấy bữa sau, khi nhìn mình qua tấm ảnh, chính tôi cũng không nhận ra! Sao tiều tụy như vậy được? Anh chị Châu làm bữa cơm thịnh soạn mời tôi, gọi là bữa cơm “Mừng Người Về Từ Cõi Chết.” [1]

Sau một thời gian ra tù, được sự chăm sóc tích cực của gia đình, sức khoẻ của anh dần hồi phục. Tạ Tỵ vẫn nuôi ý chí đi tìm tự do. Chuyến vượt biên đầu tiên, vào đầu năm 1982, mới xuống tới Bạc Liêu bị đổ bể may kịp quay về mà không bị bắt lại vào tù. Phải đến giữa năm 1982, cũng là lần vượt biên thứ hai, Tạ Ty cùng gia đình đã xuống được một chiếc ghe mong manh chật ních người, ra khơi ngày 12/6/1982, lênh đênh trên biển đúng bảy ngày, đến ngày 19/6/1982 được tàu dầu Anh quốc vớt đưa vào đảo Pulau Bidong, Malaysia. Từ đó Tạ Tỵ bắt đầu cuộc đời tỵ nạn ở tuổi 61.[1]

ĐÁY ĐỊA NGỤC: HỒI KÝ VIẾT TRÊN ĐẢO

Ngay từ ngày đặt chân lên đảo, Tạ Tỵ đã cầm bút ghi lại kinh nghiệm những năm tù đày kinh hoàng mà anh và các đồng đội vừa trải qua. Cuốn Hồi ký Đáy Địa Ngục, dày 678 trang được khởi viết ngày 25/9/1982 và viết xong ngày 15/12/1982 tại trại Tỵ Nạn chuyển tiếp Sungai Besi, Malaysia, được Nxb Thằng Mõ, California xuất bản năm 1985 và tái bản một năm sau đó. Ngay trang mở đầu cuốn Hồi ký, Tạ Tỵ viết:

Cuốn “Đáy Địa Ngục” được thực hiện trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp, giữa những tiếng ồn ào, sinh động của một trại Tỵ Nạn trên vùng đất Mã Lai… Khoảng thời gian, từ ngày Cộng sản chiếm miền Nam, tính đến hôm nay, mới gần 8 năm. Quả thực không lâu so với cuộc luân hành miên viễn của thời gian, nhưng đích thực, đó là một chuỗi đau thương đan kết bằng máu và nước mắt của mỗi con người Việt Nam đã và đang sống trong một bối cảnh vô cùng khốn khổ trực diện với một chế độ mình không ưa thích, không muốn phục vụ, vẫn phải làm như nhiệt tình, thành khẩn!

Sau ngày 30-4-1975, Việt Nam là một nhà tù lớn, bên trong nó, có rất nhiều nhà tù nhỏ, được quây kín sau dãy Trường Sơn trùng điệp, sau những lũy tre dày đặc, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Không một ký giả nào thuộc Thế Giới Tự Do, kể cả các ký giả thuộc các nước Cộng sản anh em, được “tham quan” những vùng đất cấm đó. Đối với Cộng sản, cái gì cũng được giữ bí mật tối đa, cái gì cũng được che giấu bằng dối trá, lừa bịp!

Tôi đã trải qua 8 trại Tập Trung Cải Tạo, từ Nam ra Bắc. Tôi đã sống và đã chứng kiến bao nhiêu trạng thái bi thương…

Người tù chính trị Việt Nam sau ngày 30-4-1975, quả thực, một vết nhơ trên “tấm thảm lương tri nhân loại”. Họ được đối xử như những con vật, đôi khi không bằng con vật. Họ luôn luôn sống trong lo âu, hồi hộp, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy đến với họ, buổi sớm mai khi thức dậy, sau một đêm trằn trọc với ác mộng và muỗi rệp! Họ “ăn không đủ no, đói không đủ chết”, nên lúc nào miếng ăn cũng ám ảnh, giày vò họ, làm khổ sở, ngày này qua ngày khác, mùa nắng cũng như mùa mưa, mùa hạ cũng như mùa đông, không mùa nào họ có thể tìm thấy chút gì để tạo nên nguồn hy vọng. Nếu ai đã trải qua một lần trong bất cứ Trại Tập Trung Cải Tạo nào của Cộng sản Việt Nam, người đó có quyền coi thường mọi nhà tù trên Thế Giới!

… “Nhưng trang sử đã lật. Cái gì qua, phải qua. Nó là bài học vô cùng quý giá, miễn rằng bài học này đừng bao giờ ôn / lặp lại trong ngày mai.” [1] (Hết trích dẫn)

Tạ Tỵ đã đặt chân tới Mỹ với tập bản thảo hồi ký Đáy Địa Ngục vừa được viết xong.

Hình 12: Tạ Tỵ và các thân hữu ở Little Saigon, hàng ngồi từ phải: Tạ Tỵ, Ngô Bảo; hàng đứng từ trái: Thanh Chương, Phan Diên, Phạm Quốc Bảo, Nguyễn Văn Định. Photo by Phạm Phú Minh, do Phạm Quốc Bảo nhận diện

RA MẮT TUYỂN TẬP VĂN – THƠ – HOẠ TẠ TỴ 2001

Trong khoảng thời gian 21 năm sống tại California Hoa Kỳ, khi thì San Diego, khi thành phố Garden Grove, Tạ Tỵ tiếp tục sáng tác vẽ và viết; ông hoàn tất được một số tranh với phong cách trừu tượng và một số tác phẩm viết và xuất bản ở hải ngoại.

Tuyển Tập Văn – Thơ – Hoạ của Tạ Tỵ là cuốn sách cuối cùng được xuất bản và ra mắt tại Hoa Kỳ. Sách gồm bốn tập truyện: Những Viên Sỏi, Yêu và Thù, Bao Giờ, Xóm Cũ, và một tập thơ Mây Bay, đặc biệt có 12 phụ bản màu: gồm 6 bức tranh Sơn Dầu Trừu Tượng, tất cả được vẽ tại Hoa Kỳ và 6 Ký hoạ Bột màu / Gouache các Khuôn Mặt Văn Nghệ Sĩ.

Hình 13: Buổi ra mắt sách Tuyển Tập Văn – Thơ – Hoạ Tạ Tỵ (2001) tại quán cà phê Factory rất đặc biệt và cực kỳ đơn giản của “lão ông Tạ Tỵ” ở tuổi 80 Quận Cam, Thủ đô Tỵ nạn, hay còn có tên gọi là Little Saigon. Hình ảnh một Tạ Tỵ với mái tóc bạc phơ, ngồi ký từng cuốn sách với vây quanh là đông đảo lớp người trẻ, xúm lại vui vẻ trò chuyện với bác Tạ Tỵ. Photo by Phạm Phú Minh

Hình 14: Ký hoạ chân dung Văn Nghệ Sĩ của Tạ Tỵ; trái, nhà thơ Vũ Hoàng Chương, Gouache 19” x 24”; phải, nhà văn, nhà báo, học giả Hồ Hữu Tường, Gouache 19” x 24”. Sau 1975, cả hai bị Cộng sản bắt đi tù cải tạo, và khi vừa ra tù chỉ vài ngày sau đó thì chết, Vũ Hoàng Chương (6/9/1976) và Hồ Hữu Tường (26/6/1980). Nguồn: Tuyển Tập Tạ Tỵ 2001

Hình 15a: Những bức tranh sơn dầu rất đẹp được vẽ tại hải ngoại theo phong cách trừu tượng của Tạ Tỵ, với bút pháp và màu sắc thật mạnh mẽ; trái, Trôi giạt, trừu tượng, sơn dầu 48” x 72” (1984); phải, Cơn Giận của Thượng Đế, trừu tượng, sơn dầu 48” x 72” (1985) Nguồn: Tuyển Tập Tạ Tỵ 2001

Hình 15b: trái, Ngày Hạ, trừu tượng sơn dầu 48” x 72” (1986); phải, Tạ Tỵ đứng trước bức tranh Những Mảnh Đời Tỵ Nạn, sơn dầu 48” x 60” (1995); có thể coi như bức tranh trừu tượng cuối đời của Tạ Tỵ. Nguồn: Tuyển Tập Tạ Tỵ 2001

MỘT CHÚT RIÊNG TƯ:

Họa sĩ Tạ Tỵ và giấc mộng con năm 2000

Từ trước 1975, tôi đã được xem tranh, đọc thơ văn và cả sách nhận định văn học của Tạ Tỵ (Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, Nam Chi Tùng Thư Sài Gòn 1970, Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, Lá Bối Sài Gòn 1972), và không thể quên các caricatures chân dung văn nghệ sĩ được Tạ Tỵ phác thảo với những đường nét hết sức độc đáo.

Nhưng tôi chỉ thực sự được quen anh Tạ Tỵ trên đất Mỹ từ những năm 1980, khi cả hai cùng một lứa bên trời lận đận, trong hoàn cảnh tỵ nạn sau những năm tháng tù đày. Tạ Tỵ cùng thế hệ với Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng… Về tuổi tác Tạ Tỵ hơn tôi một thế hệ, đúng 20 năm nhưng tâm hồn thì trẻ trung, và cả khiêm cung, nên trong giao tiếp tôi vẫn gọi Tạ Tỵ là anh.

Hình 16: Tác phẩm Mùa hè đỏ lửa 1972, (350 x 170 cm), vẽ theo phong cách trừu tượng, hiện treo Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Sài Gòn từ năm 1998. Khi Tạ Tỵ trở về Việt Nam 2003, bức tranh được đổi tên Cất Cánh, đây là bức tranh sơn dầu lớn nhất trong bộ sưu tập của bảo tàng thành phố. [hình chụp tại Sài Gòn tháng 11/2019. Tư liệu Ngô Thế Vinh

Rồi Tạ Tỵ đã có dịp đọc “Giấc Mộng Con năm 2000” và anh nồng nhiệt chia sẻ với tôi về dự án một Công viên Văn hóa Việt Nam ở hải ngoại mà anh gọi đó là Giấc Mộng Lớn.

GIẤC MỘNG CON NĂM 2000

CÂU CHUYỆN CUỐI NĂM: Người đàn ông nông dân ấy gốc lính cũ, hai mươi năm sau đã bước vào tuổi trung niên, chưa tới tuổi năm mươi nhưng cuộc sống lao động lam lũ khiến anh ta trông xanh xao và già sọm. Anh mất một bàn chân trái khi đã mãn lính do đạp phải mìn ngay trên ruộng nhà. Không cần là bác sĩ cũng biết là anh ta mang trên người đủ thứ bệnh tật: thiếu ăn suy dinh dưỡng, sốt rét kinh niên và thiếu máu. Tất cả sinh lực và nhân cách của anh là nơi đôi mắt sáng tuy hơi buồn nhưng luôn luôn nhìn thẳng vào mặt người đối diện. Hôm nay anh tới đây vì một lý do khác. Một mảng đen bầm nơi lưng không đau rỉ nước vàng từ bấy lâu, trị cách gì cũng không hết. Chầu chực lên trạm y tế huyện được y sĩ cách mạng cho ít viên thuốc tây, rồi đến thầy đông y cho bốc thuốc nam và cả châm cứu nữa mà bệnh thì vẫn không chuyển trong khi người anh cứ gầy rốc ra. Nay nghe có đoàn y tế thiện nguyện ở ngoại quốc về, anh cũng muốn tới thử coi, biết đâu anh lại được gặp ông thầy cũ – người y sĩ trưởng của anh năm nào. Và rồi anh chỉ gặp toàn những khuôn mặt trẻ lạ, nhưng anh vẫn cứ đưa lưng ra cho người ta khám. Một tiếng ồ rất đỗi kinh ngạc của cả toán. Tim người bác sĩ trẻ trưởng đoàn như lạc một nhịp. Không cần một chẩn đoán phức tạp, Toản nhận ra ngay đây là một dạng ung thư mêlanin ác tính – malignant melanoma, chắc chắn với di căn đã tràn lan. Dĩ nhiên căn bệnh có thể trị khỏi nếu phát hiện sớm; nhưng trường hợp này cho dù với phương tiện tiên tiến nhất trên đất Mỹ cũng đành bó tay. Chẳng phải là người bệnh mà là người thầy thuốc trẻ nói giọng buồn bã: Ông tới trễ quá, lẽ ra bệnh có thể trị khỏi… Bệnh nhân không tỏ vẻ bối rối, anh vẫn nhìn thẳng vào mặt người thầy thuốc, ánh mắt tím thẫm xuống vừa giận dữ vừa nghiêm khắc: Tới trễ? Chỉ có bác sĩ các ông là Những Người Tới Trễ chứ tôi cũng như mọi người dân vẫn ở đây từ bao giờ… Dứt khoát không chờ đợi một điều gì thêm ở đám thầy thuốc xa lạ ấy, anh quay lưng bước ra khập khễnh trên đôi nạng tre mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước, khắc khổ cam chịu và vẫn can trường như một người lính thuở nào.

***

Hội nghị Y sĩ Thế giới lần thứ 5 sẽ là một Đại hội Y Nha Dược. Với Chính đó là một tin vui biểu hiện sức mạnh đoàn kết của ngành y ở hải ngoại. Buổi họp cuối cùng ở Palo Alto kết thúc quá nửa khuya, sáng hôm sau như thói quen của người có tuổi, Chính vẫn dậy rất sớm chuẩn bị cho một ngày đi Las Vegas thăm con. Chỉ còn mấy tháng nữa Toản — đứa con trai lớn của Chính, hoàn tất bốn năm Thường trú Giải phẫu tổng quát. Sau đó nó sẽ đi New York học tiếp thêm bốn năm về giải phẫu bổ hình, một ngành mà đã có lần Toản cho là một số các bác bạn của bố đã tha hóa — prostitution of plastic surgery, biến thành kỹ nghệ sửa sắc đẹp nâng mũi đệm mông. Toản khỏe mạnh, cao lớn hơn bố, sống như một thanh niên sinh đẻ ở Mỹ, rất năng động xông xáo trong công việc cũng như giải trí vui chơi; suy nghĩ và hành động đơn giản. Không phải chỉ cách suy nghĩ mà cách đặt vấn đề của tụi nó cũng khác xa với thế hệ của Chính. Sinh đẻ ở Việt Nam sống ở nước ngoài, là công dân hạng nhất hay hạng hai, chưa bao giờ là một “issue” đối với nó.

Tuy chỉ có một ngày để cho hai bố con gặp nhau hàn huyên, nhưng Toản vẫn lái xe đưa bố lên một khu trượt tuyết rất xa khu giải trí Las Vegas. Toản tâm sự với bố là không phải tình cờ mà nó chọn đi về chuyên khoa bổ hình mà chủ yếu là phẫu thuật bàn tay. Chẳng phải chỉ vì Toản có tâm hồn nghệ sĩ, là tay chơi guitare classique có hạng mà nó biết quý bàn tay của nó. Với Toản chức năng đôi bàn tay là một biểu tượng vô cùng quý giá của cuộc sống lao động và nghệ thuật. Khác với bố và các bạn đồng lứa, Toản may mắn được trời cho đôi bàn tay vàng. Ông giáo sư dạy Toản đã phải thốt ra như vậy. Trong mọi trường hợp từ thông thường tới những “cas” mổ đầy thử thách, qua từng nét rạch đường cắt rất tiết kiệm, trường hợp nào cũng được đánh giá như là đạt tới mức nghệ thuật — “state of art”. Từ lâu Toản đã bị thuyết phục bởi tên của một bác sĩ chỉnh hình Anh Paul Brand, phục vụ tại Ấn Độ, người mà không phải chỉ với tài năng mà còn cả với niềm tin và sự tận tụy can đảm đã có nhiều cống hiến to lớn trong lãnh vực phẫu thuật phục hồi bàn tay cho người bệnh Hansen, đem lại hy vọng cho hàng triệu người bệnh trên khắp thế giới. Toản đã thích thú theo dõi các công trình của Brand trong suốt bốn thập niên qua. Gần đây Toản cũng đã vô cùng xúc động khi lần đầu tiên được đọc một cuốn sách tiếng Việt xuất bản ở hải ngoại của một linh mục nói về thực trạng bi thảm của những trại cùi ở quê nhà nhất là ở miền Bắc. Toản tâm niệm sẽ không phải Brand hay một bác sĩ ngoại quốc nào khác mà chính Toản và các bạn sẽ là thành viên của Chiến dịch Phục hồi Hy vọng — Mission Restore Hope. Toản mơ một giấc mơ năm 2000, bệnh Hansen không còn là vấn đề y tế công cộng nơi quê nhà.

Toản tâm sự với bố là gần đây đã liên tiếp nhận được những thư và các cú điện thoại mời mọc từ Colorado, Boston, Houston để về làm việc tại Á châu, ưu tiên là ở Việt Nam với những điều kiện hết sức hấp dẫn: lương khởi đầu 6 digits nghĩa là trên trăm ngàn đô la một năm, đi kèm theo bao nhiêu những bảo đảm quyền lợi khác kể cả không phải đóng thuế khi làm việc ở hải ngoại. Toản có thái độ dứt khoát: nếu chỉ vì mục đích làm giàu, con chẳng cần phải trở về Việt Nam. Họ cũng cho con biết đã có những phái đoàn Bác sĩ Mỹ gốc Việt, không phải chỉ có nhóm lớn tiếng ồn ào như Lê Hoàng Bảo Long mà còn những toán khác “có đầu óc hơn” âm thầm lặng lẽ đi về chuẩn bị cho mạng lưới y tế thị trường này. Cơ sở đầu tiên sẽ là bệnh viện Thống Nhất, sẽ được tân trang và upgrade đúng tiêu chuẩn Mỹ và bác sĩ hoàn toàn được đào tạo tại Mỹ. Không có gì thay đổi là bệnh viện ấy vẫn ưu tiên điều trị cho các cán bộ cao cấp. Chỉ có khác và “đổi mới” cho phù hợp với kinh tế thị trường, đây còn là nơi chữa trị cho khách ngoại quốc có bảo hiểm giàu tiền bạc thuộc bốn biển năm châu. Nam Triều Tiên có, Tàu Đài Loan có, Tàu Hồng Kông có, Mỹ, Pháp, Úc, Gia Nã Đại, có đủ cả. Làm sao bảo đảm sức khỏe cho họ với tiêu chuẩn cao nhất để họ yên tâm khai thác làm ăn và cả hưởng thụ trên khắp ngõ ngách của Việt Nam từ ải Nam quan cho đến mũi Cà Mau. Và đây cũng là món lợi nhuận béo bở không phải chỉ có các hãng bảo hiểm Mỹ đang muốn nhảy vào mà phải kể tới đám bác sĩ Mỹ gốc Việt cũng đang nao nức rất muốn “về giúp Việt Nam”. Chưa qua tuổi 30, Toản suy nghĩ trong sáng độc lập và tự tin trên bước đường dấn thân của nó. Không hẳn là Chính đã đồng ý, nhưng lại rất hiểu tính cứng cỏi độc lập của con, Chính không muốn có lần đụng độ thứ hai giữa hai bố con. Chính tạm yên tâm khi thấy con mình cho dù với chọn lựa nào cũng thôi thúc bởi những động lực trong sáng, nó không thể lẫn vào đám người cơ hội. Và theo một nghĩa nào đó, Chính thấy hơi ganh tỵ với tuổi trẻ và sự cả tin đến trong suốt của con; rồi cho đó như một ý nghĩ kỳ quái anh lắc đầu tự mỉm cười khi một mình lái xe đổ dốc trên con đường về…

Hơn một lần viếng thăm Cali, nhưng mỗi chuyến đi đều đem lại cho Chính những cảm tưởng đổi mới của những cộng đồng Việt Nam rất sinh động. Thay vì chỉ hơn một giờ bay, Chính đã quyết định thuê một chiếc xe của hãng Hertz từ phi trường, đích thân lái từ Palo Alto về tới Little Saigon. Chuyến đi hướng về một thành phố trẻ trung của tương lai nhưng cũng lại là một cuộc hành trình ngược về quá khứ nhìn lại khoảng thời gian đã mất. Anh nghĩ cho dù trong bối cảnh lạnh lùng của thực tế chính trị, đương đầu với những vấn đề của Việt Nam tương lai ở ngưỡng cửa thế kỷ 21, không phải chỉ có vận dụng bộ óc mà phải là sự hoà hợp với rung động của con tim. Quỷ dữ không chỉ là bóng ma cộng sản mà ngay chính cõi lòng sao vẫn cứ chai đá của chúng ta.

Tuy chỉ là câu nói đùa của Thiện nhưng sao vẫn cứ ám ảnh Chính mãi. Rằng nếu có tên quá khích điên khùng bắn chết Lê Hoàng Bảo Long, chắc Little Saigon sẽ buồn bã biết chừng nào. Chắc rồi cũng phải tìm cho ra một Lê Hoàng Bảo Long thứ hai. Không có chống cộng thì còn đâu là sự sinh động của Little Saigon. Chỉ có điều cộng sản thì ẩn hiện, lúc nào mục tiêu cũng di động và xảo quyệt, vô hình trung bọn chúng đã khiến các tay xạ thủ chống cộng cũng di chuyển để rồi tự nguyện sắp theo đội hình vòng tròn tự lúc nào và dĩ nhiên ngay từ loạt súng đầu tiên tổn thất có thể kiểm kê được là nơi chính các đồng bạn… Chính có dự định sẽ gặp Thiện — tác giả của Project 2000, nhằm kết hợp toàn y giới ở hải ngoại mà Chính cho là táo bạo và hấp dẫn với quan niệm “vận dụng và chuyển hoá tài lực của thế giới thành tài lực của Việt Nam, khai thông những hưng thịnh của thế giới chuyển đổ về quê hương, thực hiện vận mạng Việt Nam bằng những phương tiện của thế giới”… Dự trù hình thành một tổ hợp vô vị lợi, mỗi y nha dược sĩ đóng 2000 Mỹ kim như một phần khấu trừ thuế rất nhỏ trong phần thuế khóa rất lớn mà họ đóng góp hàng năm trên các vùng đất tạm dung đang cưu mang họ, thì với một ngàn người tham gia số tiền hành sự đã lên đến hai triệu đô la tiền mặt, với tiềm năng ấy thì không có việc gì mà Hội y nha dược Thế giới không làm được, từ đáp ứng tức thời như cứu trợ đồng bào nạn nhân trong bạo loạn ở Los Angeles, nạn nhân bão lụt thiên tai ở đồng bằng sông Cửu Long, đến các công trình dài hạn như xây dựng Convention Center – Nhà Văn hoá Công viên Việt Nam cạnh thủ đô Little Sài gòn, tham gia dứt điểm một dự án y tế của OMS thanh toán bệnh Hansen ở Việt Nam vào năm 2000… Chính thấy rằng chỉ ngay trong trái tim Tiểu Sài Gòn ấy giữa đa số thầm lặng đã có biết bao nhiêu người có lòng có cái tâm thành: ông Đại tá chỉ huy đơn vị cũ với thành tích 14 năm tù mới sang được tới Mỹ trong tình trạng sức khỏe suy kiệt chẳng biết lo thân đã ngồi viết ngay thư đầu tiên liên lạc với Chính yêu cầu anh với uy tín sẵn có giúp ông vận động dựng lại được bức tượng Thương Tiếc để mọi người không quên những người lính đã chết. Tiến người bạn đồng môn, gốc tráng sinh Bạch Mã chỉ có hai niềm say mê: phục hồi phong trào Hướng Đạo Việt Nam tại hải ngoại cho giới trẻ và thiết lập một bệnh viện Việt Nam đầu tiên trên đất Mỹ. Nguyễn lớp đàn anh của Chính, tuổi ngót 60 rồi mà vẫn còn độc thân, vẫn bền bỉ trong bấy nhiêu năm liền là người bạn thiết tận tụy của thuyền nhân và cũng là thầy thuốc miễn phí của giới văn nghệ sĩ các gia đình H.O. Liên một bác sĩ muộn màng mới từ đảo qua đang sống mái ngày đêm đèn sách để trở lại hành nghề nhưng vẫn tích cực mơ ước thực hiện một tượng đài vĩ đại Mẹ Bồng Con lao vào đại dương theo nước non ngàn dặm ra đi — biểu tượng cho một cuộc di dân khổng lồ của hai triệu người Việt đi khai sinh một siêu Việt Nam trong lòng thế giới… Và còn biết bao nhiêu, bao nhiêu những điển hình và ý nghĩ tốt đẹp khác nữa, vậy mà — Chính tự hỏi, tại sao anh và các bạn vẫn lạc nhau trong bóng đêm của “kiêu khí, đố kỵ và mê chướng”, lại vẫn theo ngôn từ của Thiện.

Bao nhiêu chục năm rồi, Chính vẫn là con người trăn trở, vẫn là trí thức chứng nhân của những bi kịch của một thời nhiễu nhương và lừa dối hào nhoáng. Giữa rất nhiều ồn ào và tiếng động của ngôn từ sa đọa và những thực tế chính trị giả dối, nhiều lúc Chính cũng muốn tĩnh lặng, từ bỏ những suy nghĩ khúc mắc, chỉ làm khổ chính anh và cảm tưởng như cũng chẳng ích gì cho ai; nhưng như vậy thì anh đâu còn là Chính nữa. Trước sau anh vẫn là anh, con người của xác tín. Dùng ngôn từ của điện toán, thì con người anh đã được thảo chương – programmed, chẳng thể nào mà nói đến chuyện đổi thay, chỉ có thể anh sẽ nhạy cảm hơn, chấp nhận đối thoại với những khác biệt mà anh tin rằng vẫn có thể có đoàn kết, cho dù đó là một liên kết nhiều màu sắc — rainbow coalition, và theo anh sự đa dạng chính là chất men của sáng tạo. Anh hiểu rằng số người còn theo và ủng hộ anh ngày càng ít đi. Không ra mặt chống anh nhưng họ tách ra và mỗi người chọn đi theo hướng riêng của họ. Riêng anh chắc hẳn rằng trong suốt phần cuộc đời còn lại, anh sẽ vẫn cứ đi trên con đường thẳng băng đã vạch ra cho dù quạnh quẽ. Sự mau quên và thỏa hiệp của những người Việt hải ngoại — mà anh cho là thương tổn tới nhân cách chính trị và quyền tỵ nạn của họ, cộng thêm với sự vui mừng quá độ của người dân trong nước trước những điều được gọi là “đổi mới” chỉ làm cho anh thêm đau lòng. Rồi ra ai thì cũng tìm cách thích nghi để mà tồn tại, cuộc sống ngồn ngộn bản năng thì vẫn cứ dễ dàng thay da đổi màu và bừng bừng đi tới. Số rất ít người cứng rắn nguyên tắc và nhất quán như anh hình như đang có nguy cơ trở thành một chủng loại hiếm hoi sắp bị tiêu diệt — endangered species. Chính còn lại bà mẹ già bên Việt Nam, mái tóc đã trắng bạc như sương. Anh mơ một giấc mơ đơn giản, cũng chỉ mong đất nước thanh bình để kịp về thăm mẹ, về thăm ngôi làng cũ, ngắm đàn trẻ thơ nô đùa nơi sân trường làng, và hạnh phúc biết bao nhiêu khi được trở lại khám bệnh chăm sóc cho những nông dân thân thuộc bao giờ cũng đôn hậu và chất phác mà y phí có khi chỉ là một nải chuối, ít trái cây hay mấy hột gà tươi. Ước mơ có gì là cao xa đâu nhưng sao vẫn ở ngoài tầm tay và có vẻ như còn rất xa vời. Bởi vì anh vẫn dứt khoát tự nhủ lòng mình anh sẽ không thể và không bao giờ trở lại quê hương như một kẻ bàng quan, một khách du lịch hay tệ hơn nữa như một tên mại bản với xênh xang áo gấm về làng. Mặc dầu rất muốn gặp mẹ nhưng anh vẫn không thể nào về với tâm cảnh và ngoại cảnh bây giờ.

Kể từ giữa thập niên 70, cùng với sự sụp đổ của miền Nam, là một làn sóng ồ ạt dân tỵ nạn Đông Dương rải ra khắp nước Mỹ, nhưng đông đảo nhất vẫn là tiểu bang Cali. Khó khăn của những người tới sớm không phải là ít. Từ ngoài các căn cứ Pendleton, Fort Chaffee không phải chỉ có những bảo trợ người Mỹ giàu lòng bác ái tới giúp đỡ họ mà cả không thiếu những người điạ phương kỳ thị thù ghét trù ẻo và muốn đuổi họ về nước. “We Don’t Want them, May They Catch Pneumonia And Die. Và trong đám người tỵ nạn ấy đã có các đồng nghiệp của Chính. Cho tới nay con số bác sĩ Việt Nam lên tới 2000 chỉ riêng ở Mỹ, chưa kể một số không ít khác sống ở Canada, Pháp và Úc châu và một số nước khác. Hơn 2500 bác sĩ trên tổng số 3000 của toàn miền Nam đã thoát ra khỏi xứ, không khác một cuộc tổng đình công của toàn ngành y tế, liên tục kéo dài từ 75 tới nay. Chính cũng biết rất rõ anh là một trong số ít người đã vận động và lãnh đạo một cách có hiệu quả cuộc đình công dài bất tận một cách không tiền khoáng hậu ấy.

Chính sẽ lần lượt ghé thăm: San Jose thung lũng điện tử hoa vàng, Los Angeles thành phố thiên thần nhưng lại sắp kết nghĩa với thành phố mang tên Hồ Chí Minh, Orange thủ đô tỵ nạn chống cộng với Sài Gòn Nhỏ và San Diego nơi nổi tiếng khí hậu tốt nhất thế giới – đều là những nơi có đông đảo người Việt, và con số ấy tiếp tục gia tăng không phải chỉ bởi những người mới tới; mà còn do hiện tượng “di dân lần thứ hai” của những người Việt đã tới sinh sống ở những tiểu bang khác, cuối cùng rồi cũng lựa chọn trở về Cali nơi có nắng ấm, có khí hậu nhiệt đới giống Việt Nam như ở Đà lạt, họ nói với nhau như thế.

Tiêu chuẩn hoá, đó là đặc tính rất Mỹ. Thành phố lớn nhỏ nào ở Mỹ thì cũng rất giống nhau, với những trạm xăng, các siêu thị và những tiệm fast food McDonald’s. Đi vào những phố chợ Việt Nam sầm uất ngay trên đường Bolsa là thấy những tiệm phở, các siêu thị lớn nhỏ, phòng mạch bác sĩ, hiệu thuốc tây, các văn phòng luật sư và dĩ nhiên cả những tòa báo.

Các đồng nghiệp của Chính đã có mặt ngay từ đầu trong số đông đảo những người tới sớm. Họ biểu tượng cho một tập thể trí thức khoa bảng, được sự giúp đỡ của chương trình tỵ nạn như mọi người, đa số đã mau chóng trở lại hành nghề trong những điều kiện hết sức thuận lợi. Sau đó phải chi ai cũng có trí nhớ tốt về những cảm xúc đầu tiên khi dứt bỏ hết mọi thứ bất kể sống chết ra đi. Chính còn nhớ như in về những ngày ở trên đảo, Ngạn đã nhiều lần tâm sự là chỉ mong có ngày đặt chân tới Mỹ. Anh chẳng bao giờ còn mơ ước tới một nơi nào xa hơn nữa, cũng chẳng hề có cao vọng trở lại nghề cũ. Mà hạnh phúc, nếu có, là được hít thở không khí tự do, được sống như một con người và được khởi sự lại từ đầu, gây dựng mái gia đình bằng sức lao động của tay chân, hy sinh cho tương lai thế hệ những đứa con. Nhưng sự thể lại tốt hơn với mong đợi, chính Ngạn bằng trí thông minh nghị lực làm việc và dĩ nhiên cả may mắn nữa, chỉ trong một thời gian ngắn anh là một trong số những người trở lại hành nghề rất sớm. Là bác sĩ ở Mỹ có nghĩa là đã thuộc vào thành phần xã hội trung lưu trên cao, địa vị hoàn cảnh của họ là ước mơ ngay cả đối với rất nhiều người dân Mỹ bản xứ. Nhưng Ngạn và một số người khác đã không dừng lại ở đó. Và điều gì phải đến đã đến. Hậu quả là một cuộc ruồng bố được mệnh danh là “gian lận y tế lớn nhất trong lịch sử tiểu bang Cali”. Để trở thành tin tức hàng đầu nơi trang nhất của báo chí và các đài truyền hình khắp nước Mỹ. Mới chín năm từ ngày sụp đổ cả miền Nam đang còn là một cơn ác mộng chưa nguôi, biến cố tháng Hai 1984 là một cơn mộng dữ thứ hai nhưng với bản chất hoàn toàn khác. Chưa bao giờ hai chữ Việt Nam lại được nhắc tới nhiều như thế trong suốt tuần lễ. Cũng chưa bao giờ quá khứ bị đối xử tàn nhẫn đến như thế. Cảnh tượng hàng loạt bác sĩ dược sĩ trong đó có Ngạn bị các cảnh sát sắc phục còng tay ngoài đường, bêu trước nắng gió đã bị báo chí Tivi Mỹ khai thác triệt để. Ai cũng cảm thấy bị thiệt hại về mặt thanh danh, cộng thêm với những cảm giác bất an và sợ hãi. Rõ ràng sau đó đã có một làn sóng nguyền rủa của người dân bản xứ nhắm chung vào người Việt tỵ nạn. Trong các xưởng hãng, bọn sỗ sàng trực tiếp thì xách mé gọi các đồng nghiệp Việt Nam là đồ ăn cắp, hoặc gián tiếp hơn họ cắt những bản tin với hình ảnh đăng trên báo Mỹ đem dán lên tường chỗ có đông các công nhân Việt Nam làm việc. Những người dân Việt bình thường lương thiện, tới Mỹ với hai bàn tay trắng, đang tạo dựng lại cuộc sống từ bước đầu số không, bằng tất cả ý chí và lao động cần mẫn của đôi bàn tay, nay bỗng dưng trở thành nạn nhân oan khiên của kỳ thị và cả khinh bỉ. Có người uất ức quá đã phải la lên: hỡi các ông trí thức khoa bảng ơi, ngay từ trong nước bao giờ và ở đâu thì các ông cũng là người sung sướng, sao các ông không có mặt ở đây để nhận lãnh sự nhục nhã này… Chuyện xảy ra đã hơn mười năm rồi mà vẫn tưởng như mới hôm qua, như một flashback nặng nề diễn ra trong đầu óc Chính. Hiện giờ anh cố chủ động thoát ra khỏi những ngưng đọng của ký ức về một giai đoạn bi ai quá khứ. Đưa tay bấm nút tự động hạ mở kính xe, gió biển thổi cuộn vào trong lòng xe vỗ phần phật. Trời xanh biển xanh, vẫn màu xanh thiên thanh ấy, có gì khác nhau đâu giữa hai bờ đại dương này. Khổ hải vượng dương, hồi đầu thị ngạn. Ở đâu thì nỗi khổ cũng mênh mông, nhìn lại chẳng thấy đâu là bờ. Con đường 101 dọc theo bờ biển Thái Bình dương lúc này lại gợi nhớ Quốc lộ 1 bên kia đại dương trên đất nước thân yêu của chàng. Vẫn những giọt nước ấy là nước mắt và làm nên biển cả, những dải cát sáng long lanh như thủy tinh, những ruộng muối trắng, những hàng dừa xanh. Quê hương của trí nhớ đó sẽ đẹp đẽ biết bao nhiêu nếu không có những khúc phim hồi tưởng của “dọc đường số 1”, của “đại lộ kinh hoàng”, của “những dải cát thấm máu” ở những ngày cuối tháng Ba 1975.

Little Saigon vẫn được coi là thủ đô của những người Việt tỵ nạn. Theo nghĩa nào đó là một Sài Gòn nối dài. Nếu khảo sát về địa dư chí, thì như một điều trớ trêu của lịch sử, tên người Việt Nam đầu tiên đến ở quận Cam rất sớm này lại là một người Việt xấu xí — có tên là Phạm Xuân Ẩn, một đảng viên cộng sản. Bề ngoài anh ta là một ký giả của tuần báo Times trong suốt 10 năm, nhưng điều mà không ai được biết là từ lâu anh vốn là một điệp viên cao cấp của Hà Nội. Ẩn đã từng được học bổng của Bộ Ngoại giao đi du học tại Mỹ vào cuối những năm 50, học xong Ẩn đi tham quan khắp nước Mỹ rồi trở về sống ở quận Cam; sau đó trở lại Sài Gòn làm cho hãng thông tấn Reuters của Anh, rồi tuần báo Times của Mỹ cho tới những ngày cuối của miền Nam. Mãi sau này người ta mới được biết Ẩn đã gia nhập phong trào Việt Minh rất sớm từ những năm 40, khởi từ vai trò một giao liên chẳng có gì là quan trọng để rồi cuối cùng trở thành một điệp viên chiến lược qua mắt được bao nhiêu mạng lưới CIA với danh hiệu phóng viên rất an toàn của một tờ báo Mỹ uy tín… Hiện giờ đã có tới khoảng ba trăm ngàn người Việt đang chiếm chỗ của Ẩn trước kia. Còn riêng Ẩn thì lại đang sống lặng lẽ ở Sài Gòn, tiếp tục là chứng nhân cho cuộc cách mạng thất bại mà Ẩn đã trung thành và toàn tâm phục vụ trong suốt hơn 40 năm. Trở về với thực tại của quận Cam hôm nay, nếu Ẩn có dịp trở lại đây chắc cũng chẳng thể nào nhận ra chốn cũ. Biến từ một khu phố chết với những vườn cam xác xơ, nay trở thành một Sài Gòn Nhỏ trẻ trung và sầm uất. Con em của những người Việt mới tới, ngay từ thế hệ di dân thứ nhất đã rất thành công trong học vấn và nâng tiêu chuẩn giáo dục địa phương cao thêm một bước mới. Chúng tốt nghiệp từ đủ khắp các ngành. Hơn cả giấc mộng Đông Du, chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy hai thập niên, nước Việt Nam tương lai có cả một đội ngũ chuyên viên tài ba để có thể trải ra cùng khắp.

Trong kiếp sống lưu dân, chưa làm được gì trực tiếp cho quê hương nhưng Chính vẫn có thể mơ một Giấc Mộng Con Năm 2000. Trải qua bao nhiêu hội nghị, Chính có cảm tưởng anh và các bạn vẫn như những người không nhà cho dù các nơi tạm trú đều là những đệ nhất khách sạn không dưới bốn sao. Chuyến đi thực tế này, dự định rằng là bước khởi đầu vận động hình thành không phải chỉ là một mái nhà cho hội y sĩ, mà bao quát hơn là một convention center, một toà Nhà Văn hoá, một Viện Bảo tàng, một Công viên Việt Nam. Đó phải là công trình biểu tượng có tầm vóc, sẽ được thực hiện ưu tiên qua từng giai đoạn. Nếu nghĩ rằng ngôi Đình là biểu tượng cho cái thiện của làng, thì khu Công viên Văn hoá ấy là biểu tượng cho cái gốc tốt đẹp không thể thiếu của các thế hệ di dân Việt Nam từ những ngày đầu đặt chân tới lục địa mới của cơ hội này. Nó sẽ như một mẫu số chung rộng rãi cho một cộng đồng hải ngoại đang rất phân hóa, giúp đám trẻ hãnh tiến hướng Việt tìm lại được cái căn cước đích thực của tụi nó. Dự phỏng rằng Công viên Văn hóa sẽ được thiết lập trong vùng tây nam Hoa kỳ, tọa lạc trên một diện tích rộng lớn phía bờ nam của xa lộ 22 và 405 tiếp giáp với khu Little Saigon. Đó là nơi có khả năng giới thiệu một cách sinh động những nét đặc thù của văn hóa Việt qua những bước tái thể hiện các giai đoạn lịch sử hào hùng và cả bi thảm của dân tộc Việt từ buổi sơ khai lập quốc. Đây không phải thuần chỉ là công trình của một Uỷ ban Đặc nhiệm, gồm tập hợp những tinh hoa trí tuệ của mọi ngành sinh hoạt. Đó phải là một công trình của toàn thể những người Việt tự do ở hải ngọai, không phân biệt màu sắc cá nhân phe nhóm. Bước khởi đầu đơn giản chỉ một đô la cho mỗi đầu người mỗi năm, thì chúng ta đã có hơn một triệu Mỹ kim cộng thêm với hai triệu Mỹ kim nữa của Hội y nha dược, Hội chuyên gia và các giới doanh thương. Sẽ không phải là nhỏ với ba triệu đô la mỗi năm để làm nền móng khởi đầu cho Dự Án 2000 ấy. Ngũ niên đầu là giai đoạn sở hữu một khu đất đủ lớn cho nhu cầu quy hoạch Công viên Văn hoá với một convention center là công trình xây cất đầu tiên: đó như một cái nôi cho sinh hoạt cộng đồng văn hoá và nghệ thuật. Chính cứ vẫn phải nghe một điệp khúc đến nhàm chán rằng người Việt Nam không đủ khả năng tạo dựng những công trình lớn có tầm vóc. Viện cớ rằng do những cuộc chiến tranh tàn phá lại cộng thêm với khí hậu ẩm mục của một Á châu nhiệt đới gió mùa, đã không cho phép tồn tại một công trình nhân tạo lớn lao nào. Nhưng bây giờ là trên đất nước Mỹ và Chính muốn chứng minh điều đó không đúng. Yếu tố chính vẫn là con người. Làm sao có được một giấc mơ đáng gọi là giấc mơ. Để rồi cái cần thiết là chất xi măng hàn gắn và nối kết những đổ vỡ trong lòng… Chính đã hơn một lần chứng tỏ khả năng lãnh đạo một tập thể trí tuệ nhất quán không làm gì trong suốt hai thập niên qua; bây giờ thì anh đang đứng trước một thử thách ngược lại, vận dụng sức mạnh cũng của tập thể ấy để phải làm một cái gì nếu không phải ở trong nước thì cũng ở hải ngoại, trong một kế hoạch ngũ niên cuối cùng của thế kỷ trước khi bước sang thế kỷ 21. Một ngũ niên có ý nghĩa của kế hoạch và hành động thay vì buông xuôi.

Chỉ qua một vài bước thăm dò, Chính cảm nhận được ngay rằng quả là dễ dàng để mà đồng ý với nhau khỏi phải làm gì. Nhưng vấn đề bỗng trở nên phức tạp hơn nhiều khi bước vào một dự án cụ thể đòi hỏi sự tham gia và đóng góp của mỗi người, kéo theo bao nhiêu câu hỏi “tại sao và bởi vì” từ ngay chính những người bạn tưởng là đã rất thân thiết của anh đã cùng đi với nhau suốt một chặng đường. Hội nghị Palo Alto sẽ là một trắc nghiệm thách đố không phải của riêng anh mà là của toàn thể y giới Việt Nam hải ngoại.

Thay vì đứng ngoài bàng quan, hội Y sĩ Thế giới sẽ tiên phong trực tiếp tham gia ngay từ bước đầu hình thành Công viên Văn hoá ấy. Đó là một chuẩn bị thao dượt, như một ấn bản gốc cho mô hình của Viện Bảo tàng Chiến tranh Việt Nam của ISAW. Người Mỹ có dự án ISAW (Institute for the Study of American Wars) thiết lập một Quảng trường Hào hùng tại Maryland gồm một chuỗi viện bảo tàng liên quan tới bảy cuộc chiến tranh, mà người Mỹ đã trực tiếp can dự kể từ ngày lập quốc. Dĩ nhiên trong đó có chiến tranh Việt Nam, cũng là cuộc chiến tranh duy nhất có chính nghĩa mà miền Nam Việt Nam và Mỹ đã bị thua. Cung cấp dữ kiện đi tìm đáp số cho những câu hỏi vấn nạn tại sao sẽ phải là nội dung của viện bảo tàng tương lai này. Hai triệu người thoát ra khỏi nước bằng một cuộc di dân vĩ đại, họ không thể chấp nhận cuộc thất trận lần thứ hai khác lâu dài và vĩnh viễn tại Valor Park với lặp lại những gian dối lịch sử cũng vẫn do người cộng sản chủ động sắp xếp. Không phải chỉ là vấn đề ai thắng ai; nhưng đó là nhân cách chính trị của hai triệu người di dân tỵ nạn đang phấn đấu cho một thể chế chính trị tự do nơi quê nhà. Và Chính quan niệm những bước hình thành khâu Viện Bảo tàng Việt Nam tại ISAW phải được khởi đầu từ dự án khu Công viên Văn hoá Việt Nam năm 2000 ngay giữa thủ đô tỵ nạn. Đó là một phác thảo và chọn lọc tất cả các hình ảnh tài liệu và chứng tích của các giai đoạn Việt Nam tranh đấu sử. Đó là nơi giúp thế hệ trẻ hướng Việt tìm lại khoảng thời gian đã mất, giúp chúng hiểu được tại sao chúng lại hiện diện trên lục địa mới này.

Giữa hai bố con Chính đang âm thầm diễn ra tranh chấp về trận địa của những giấc mơ. Giấc mơ của Toản thì xa hàng vạn dặm mãi tận bên quê nhà. Giấc mơ nào là không thể được, bên trong hay bên ngoài? Hiện thực của giấc mơ nào đi nữa không phải chỉ do hùng tâm của một người mà là ý chí của cả một tập thể cùng nhìn về một hướng, cùng trông đợi và ước ao niềm vui của sự thành tựu. Riêng Chính thì đang ao ước không phải để có một ngôi đền thờ phụng, mà là một mái ấm của Trăm Họ Trăm Con, nơi ấy sưu tập và lưu trữ những giá trị của quá khứ, nơi hội tụ diễn ra sức sống sinh động của hiện tại, và là một điểm tựa thách đố hướng về tương lai, chốn hành hương cho mỗi người Việt Nam đang sống bất cứ ở đâu trong lòng của thế giới. NGÔ THẾ VINH Little Saigon, 01/1995

Hình 17a: Trái, thư viết ngày 1/2/1995; phải, nhà văn Ngô Thế Vinh nhìn bởi Tạ Tỵ Garden Grove, California, Jan 1996. Tư liệu Ngô Thế Vinh

Trong một thư riêng gửi đi từ Garden Grove ngày 1/2/1995, anh Tạ Tỵ viết:

Anh Ngô Thế Vinh,

Trước hết, nhân dịp đầu năm mới Ất Hợi, tôi xin gửi đến anh cũng như gia đình, một năm mới an khang thịnh vượng, gặp nhiều may mắn, sau, xin chân thành cám ơn anh đã có lòng quý mến mà gửi cho tập bản thảo “Giấc mộng LỚN năm 2000”.

“Tôi chia sẻ rất nhiều với anh về những điều anh viết, dù rằng tuổi tôi đã cao, cái sự nhìn thấy những điều mình mơ ước chắc cũng khó mà thực hiện, nhưng đó cũng chẳng sao, vì tất cả đều cho mai sau và cái mai sau đó so với sự luân chuyển của thời gian cũng như lịch sử nó chẳng đáng gì. Ngọn lửa đã nhúm lên rồi, chỉ cần có thêm nhiều nguyên liệu tạo nên sự bùng cháy trường kỳ trong lòng mỗi người tỵ nạn có tâm huyết, bất luận trí thức hay bình dân. Mong lắm thay! Hy vọng, hy vọng và hy vọng! Mong anh đừng bao giờ để có người nói: “Các ông là những người đến muộn.”

Anh Tạ Tỵ cũng đã hào hứng hứa hẹn, là khi Công Viên Văn Hoá ấy hình thành, anh sẽ tặng bộ sưu tập tranh quý giá của anh, cùng với một bức tranh tường Mural 5m x 3m “Gửi Cho Thế Hệ Mai Sau”.

Hình 17b: Trái, thư viết ngày 29/2/2000: Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải luỵ phà!…; phải, thư viết ngày 27/7/2000: Chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết phía trước cái gì sẽ xảy ra cho mình? Nhưng dù sao, tôi cũng muốn an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời. Tư liệu Ngô Thế Vinh

San Diego, Feb 29, 2000

Thân gửi Anh Ngô Thế Vinh,

Rất cám ơn anh đã gửi cho 2 số báo Đi Tới. Nhìn qua, tuy chưa đọc nhưng đã thấy rất có giá trị về phương diện Sử học và Địa lý. Tôi thường nghĩ, nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn! Tôi nhìn mãi tấm hình chiếc cầu Mỹ Thuận, lòng thấy vui vô cùng. Thế là người Việt Nam thoát được cái cảnh “sang sông” phải lụy phà!…

Hôm nào rảnh rỗi mời anh xuống dưới San Diego, anh em mình tiếp nối giấc mơ café, ngồi nhìn ra biển, ở một quán nào đó chưa biết! Riêng anh, luôn luôn khoẻ mạnh, viết nhiều. Tạ Tỵ

Nhưng rồi, khá bất ngờ vào ngày 27/7/2000 từ San Diego cũng trong một thư riêng khác anh Tạ Tỵ cho biết quyết định sẽ về sống ở Việt Nam.

San Diego, July 27, 2000

Thân gửi Anh Ngô Thế Vinh,

Trước hết, xin gửi nơi đây lời cầu chúc anh cùng gia đình luôn luôn an mạnh.

Sau, xin báo tin để anh được biết đến tháng 10 này [năm 2000], chúng tôi sẽ về Việt Nam để sống… chúng tôi nhất quyết về Việt Nam dù không biết trước cái gì sẽ xảy ra cho đời mình? Nhưng dù sao tôi cũng muốn được an nghỉ ở Việt Nam nơi mình đã sinh ra và đã sống 60 năm trời! Nếu có dịp nào, anh gặp anh Bùi Khiết, anh cho tôi gửi lời thăm anh ấy. Anh Khiết là người bạn tốt, rất tốt với tôi. Chúc anh sáng tác được nhiều tác phẩm hay để đời thế là tôi vui rồi. Về Việt Nam, tôi vĩnh viễn rửa tay gác bút, chờ ngày đi vào cõi Hư Không. Nhớ các anh lắm. Tạ Tỵ

Dù anh Tạ Tỵ đã có quyết định về sống ở Việt Nam từ tháng 7 năm 2000, nhưng rồi lần lữa thêm 3 năm nữa vì lý do sức khoẻ và chăm sóc y tế. Tới năm 2003, sau khi vợ anh mất, Tạ Tỵ đã một mình âm thầm trở về Sài Gòn, sống những tháng ngày cuối đời, cũng vẫn trong căn nhà cũ, cùng với gia đình người con gái út Tạ Thuỳ Châu.

Chỉ một năm sau, anh Tạ Tỵ mất, ngày 24 tháng 8 năm 2004, hưởng thọ 83 tuổi. Bạn bè văn nghệ cũ còn ở lại Sài Gòn đều tới tiễn đưa anh. Đặc biệt có thêm một vòng hoa viếng của Đinh Cường từ Mỹ, do Dương Nghiễm Mậu – cũng là người anh em cột chèo với Đinh Cường đại diện đem tới.

Anh Tạ Tỵ đã toại nguyện, anh được an nghỉ nơi quê nhà, “tấm thân tứ đại” của anh được hỏa táng để trở về với cát bụi, nhưng tên tuổi Tạ Tỵ và các tác phẩm của anh thì vẫn trường tồn trong suốt dòng chảy của văn hóa dân tộc.

CON CÁ HỒI VỀ NGUỒN

Tạ Tỵ là hình ảnh con cá Hồi dũng mãnh sau những tháng năm vẫy vùng ngoài đại dương, đến cuối đời sức cùng lực kiệt, vẫn với một bộ nhớ không suy suyển, để từ biển rộng trở lại con sông dài, bất chấp những ghềnh thác, chỉ để được trở về nguồn – nơi mảnh đất có tên gọi rất thiêng liêng là Việt Nam, nơi anh đã được sinh ra và lớn lên, nơi vẫn còn đó những con người đã từng đày ải anh tới “đáy địa ngục” nhưng rồi bất kể những gì có thể xảy ra cho anh, con cá hồi Tạ Tỵ cũng đã trở về nơi quê hương cội nguồn.

Hình 18: Tạ Tỵ là hình ảnh con cá Hồi sau những tháng năm vùng vẫy ngoài đại dương, đến cuối đời sức cùng lực kiệt, vẫn với một bộ nhớ không suy suyển, đã bất chấp những ghềnh thác, để từ biển rộng trở lại con sông dài, chỉ để được trở về nguồn.

NGÔ THẾ VINH

100 năm sinh [1921-2021]

Và ngày giỗ thứ 17 của Tạ Tỵ

[24/08/2004 – 24/08/2021]

__________

Tham khảo:

1/ Tạ Tỵ. Hồi ký Đáy Địa Ngục, Nxb Thằng Mõ 1986; Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đi Qua Đời Tôi, Nxb Thằng Mõ 1990; Tuyển Tập Văn Thơ Hoạ Tạ Tỵ, Nxb Thằng Mõ 2001.

2/ Nguiễn Ngu Í phỏng vấn Tạ Tỵ. Báo Bách Khoa, số 131, ngày 15-6-1962

3/ Tạ Tỵ, Vì sao tôi viết. Hợp Lưu số 32, p. 216, Xuân Đinh Sửu 1997

4/ Đinh Cường, Đi Vào Cõi Tạo Hình: Tạ Tỵ người hoạ sĩ luôn ưu tư về cái mới, p.86-94. Văn Mới 2015

5/ Văn Quang. Tạ Tỵ – vườn xưa đã khép. Lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự, ngày 26/8/2004

6/ Ngô Thế Vinh. Tuyển Tập I Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hoá, Nxb Việt Ecology Press 2017

Bà Nguyễn Văn Thiệu và Bệnh Viện Vì Dân

Lê Thiên

17-11-2021

Vợ chồng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Thị Mai Anh. Ảnh tư liệu

Đa số người dân miền Nam, Việt Nam bùi ngùi trước tin Bà Christine Nguyễn Thị Mai Anh, phu nhân của cố Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu lìa đời tại San Diego, Nam California, Hoa Kỳ vào sáng thứ Sáu, ngày 15-10-2021, hưởng thọ 91 tuổi. Hơn một tháng sau ngày bà Mai Anh qua đời, chúng tôi hân hạnh thu góp một số nhận định về bà như là một tưởng niệm đối với bà và công lao của bà.

Về lời bài Quốc ca của Văn Cao

Mạc Văn Trang

16-11-2021

Gần đây có một số bạn trẻ phê phán Văn Cao viết lời bài Quốc ca “khát máu quá”. Mỗi lần xem bóng đá, hai đội ra sân, nghe Quốc ca Việt Nam “Đường vinh quang xây xác quân thù” thấy ghê sợ, không còn gì là tinh thần thể thao cao thượng nữa.

Nguyễn Đình Bin – Một đảng viên mà tôi quý trọng

Mạc Văn Trang

14-11-2021

Anh Nguyễn Đình Bin sinh 1944, tại Kim Thành, Hải Dương, đồng hương với tôi, nhưng chưa gặp nhau ngoài đời, mà mới quen nhau trên FB chừng 2 năm nay. Tôi rất quý trọng Anh, vì anh từng trải từ cậu bé nhà quê nghèo đói, học giỏi, hiền lành vươn lên, đảm nhiệm nhiều trọng trách; từng là UVTW Đảng, Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao, nhưng qua FB thấy anh là người thật chân thành, giản dị, “dân dã”, bộc lộ quan điểm của mình một cách thẳng thắn, chân thực, không e ngại.

Mấy suy nghĩ về hành vi cưỡng dâm của Bí thư huyện ủy Cô Tô – Quảng Ninh

Mạc Văn Trang

13-11-2021

Chuyện này hơi lạ, là hành vi sai trái của các nhân vật có chức quyền thường bị che giấu, vòng vo, úp mở rồi dần dần mới công khai, hoặc là bị cho “chìm xuồng”… Vụ Lê Hùng Sơn cưỡng hiếp một nữ nhân viên lại được điều tra tức tốc ngay trong đêm và bùng nổ thông tin trên báo chí rất nhanh rồi Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Quảng Ninh vội ra quyết định đình chỉ công tác để xử lý… Qua vụ này nảy ra vài suy nghĩ.

Trả lại sự thật cho lịch sử

Lê Xuân Khoa

11-11-2021

Kính gửi quý Tổng Biên Tập,

Sau khi TS Nguyễn Đình Thắng viết bài công kích tôi kịch liệt về chương trình ROVR trên tờ Mạch Sống của BPSOS ngày 25 tháng 5 năm 2020, nhiều độc giả và cơ quan truyền thông đã yêu cầu tôi lên tiếng để dư luận biết rõ sự thật. Quả thật tôi thấy cần phải đáp ứng đòi hỏi chính đáng của công luận, vì đây không chỉ là vấn đề bảo vệ nhân cách và sự nghiệp của một cá nhân hoạt động xã hội mà quan trọng hơn nữa, vì nhu cầu làm sáng tỏ sự thật của một sự kiện quan trọng trong lịch sử tị nạn Việt Nam.

Tìm phương thuốc chữa trị căn bệnh vô cảm hiện nay ở Việt Nam

Nguyễn Văn Nghệ

11-11-2021

Trên một số trang mạng có bài văn nghị luận về đề tài “Bệnh vô cảm” của em Phan Hoàng Yến, học sinh lớp 9A2 Trường Trung học cơ sở Chu Văn An-Hà Nội được nhiều người quan tâm. Nhập đề em đã đề cập đến các nhà khoa học cố gắng sáng chế ra những rô-bốt “làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống”.

Đại diện “không chính trị” cho Miến tại ASEAN là sao?

Nguyễn Đan Quế

11-11-2021

Hội nghị thượng đỉnh cuối tháng 10/2021 ở Brunei, ASEAN đắn đo về ai đại diện cho Miến.

Hoa Kỳ và Tổng thống Ngô Đình Diệm (Phần I)

Đỗ Kim Thêm

8-11-2021

(Phần I: Thành quả xây dựng ban đầu của Việt Nam Cộng Hoà từ năm 1954-1960)