Một trang web như Baidu dù xâm phạm chủ quyền biển đảo vẫn có thể dễ dàng truy cập tại Việt Nam trong khi những trang liên quan đến nhân quyền, tin tức đối ngược thì bị chặn.
Một trang web như Baidu dù xâm phạm chủ quyền biển đảo vẫn có thể dễ dàng truy cập tại Việt Nam trong khi những trang liên quan đến nhân quyền, tin tức đối ngược thì bị chặn.
Lê Minh Nguyên
5-4-2021
Năm 2018, Mỹ đã bật đèn xanh cho các nhà sản xuất của Mỹ tham gia dự án tàu ngầm do Đài Loan tự đóng.
Lê Minh Nguyên
3-4-2021
Hôm Thứ Sáu 2/4 bộ trưởng ngoại giao Phi, ông Teodore Locsin, gặp người đồng nhiệm Trung Quốc Vương Nghị ở Bắc Kinh, để thuyết phục Bắc Kinh rút hơn 200 tàu ra khỏi khu vực Đá Ba Đầu.
Trương Nhân Tuấn
2-4-2021
Tình hình Đá Ba Đầu những ngày đầu tháng Tư có vẻ “giảm nhiệt”, nếu ta tin tưởng rằng các tàu đánh cá của ngư dân Trung Quốc tụ tập khu vực này đã “tản ra ở một khu vực rộng lớn hơn”, như báo chí Phi đăng tin.
Trương Nhân Tuấn
1-4-2021
Báo chí nước ngoài từ ngày 7 tháng 3 năm 2021 đăng tin, lực lượng hải cảnh của Phi ra bố cáo cho biết, có khoảng 200 tàu đánh cá của Trung Quốc đã neo đậu ở bãi đá Whitsun, tên Việt Nam là đá Ba đầu, bãi đá này cách bờ biển của Phi, đảo Palawan, là 175 hải lý.
Trương Nhân Tuấn
24-3-2021
Đây là một thực thể địa lý “lúc chìm lúc nổi”, thuộc nhóm đảo Sinh tồn, thuộc quần đảo Trường Sa.
Lê Minh Nguyên
23-3-2021
Đây là cách Mỹ lấy lại niềm tin từ những đồng minh của mình và tạo thế chính danh cho sức mạnh vũ lực.
Joaquin Nguyễn Hòa
17-3-2021
Đế quốc trở lại
Ngày 16/3/2021, chính phủ Anh công bố bản phúc trình về chính sách ngoại giao và an ninh mới của nước này, trong đó nói rõ hai vấn đề: Thứ nhất, nước Anh tìm kiếm vị trí mới trên trường quốc tế sau một thời gian dài chỉ đóng vai trò cầu nối giữa Mỹ và châu Âu. Thứ hai, nêu rõ Trung Quốc là mối đe dọa, mặc dù nước Anh vẫn chủ trương hợp tác với Bắc Kinh trên những lĩnh vực có thể hợp tác được.
Tác giả: Paul Heer
Song Phan, chuyển ngữ
14-3-2021
Tổng thống Joe Biden có nhiều việc cần làm để sửa chữa và phục hồi ở Đông Á. Donald Trump đã làm suy giảm nghiêm trọng vai trò của Hoa Kỳ trong khu vực này, giúp Bắc Kinh leo thang quan hệ Hoa Kỳ -Trung Quốc lên mức thù địch và đối đầu nhất trong 50 năm qua. Đồng thời, Trump làm suy yếu uy tín của Mỹ đối với các đồng minh và đối tác mà Biden sẽ dựa vào để đối đầu với thách thức chiến lược của Trung Quốc.
14-3-2021
Họ xếp thành hình tròn trên đảo nhỏ, bảo vệ ngọn cờ Tổ Quốc. Từng người gục xuống đau đớn cho ngọn cờ bay giữa biển khơi. Cái chết của họ không người thân, không gia đình. Chỉ có những đồng đội cùng nhau tử trận.
14-3-2021
Kể từ cuộc chiến tranh Trung-Việt, chưa có một cuộc chiến tranh nào giữa các quốc gia trong toàn bộ Đông Á, một khu vực chiếm 1/3 nhân loại, và vốn đã từng bị tàn phá bởi một số cuộc chiến tranh tồi tệ nhất.
14-3-2021
Quảng Bình là quê hương của nhiều chiến sĩ, sĩ quan trong số 64 liệt sĩ hy sinh ở Gạc Ma.
12-3-2021
Những tài liệu nóng hổi sau đây được trích từ các tờ báo “con cưng” của TQ: Thời báo Hoàn Cầu và Bưu Điện Hoa Nam.
9-3-2021
I. CUỘC CHIẾN NAGORNO-KARABAKH
1. Chiến tranh Nagorno-Karabakh lần thứ nhất
Thời kỳ Xô Viết Nagorno-Karabakh là một khu tự trị thuộc Cộng hoà Azerbaijan, có chung biên giới với Cộng hoà Armenia và khoảng 77-78% dân số Nagorno-Karabakh là người Armenia. Ngày 20/2/1988 quốc hội khu tự trị Nagorno-Karabakh thông qua nghị quyết yêu cầu chuyển giao sang Armenia nhưng Azerbaijan kiên quyết từ chối. Từ đó Nagorno-Karabakh bất ổn với bạo lực gia tăng biến thành một cuộc chiến tranh sắc tộc.
Ngày 10/12/1991 một cuộc trưng cầu dân ý ly khai được tổ chức tại Nagorno-Karabakh. 22,8% dân số là người Azerbaijan tẩy chay. 99,8% người Armenia bỏ phiếu cho ly khai. 25/12/1991 Liên Xô sụp đổ. Nagorno-Karabakh chìm trong cuộc chến tranh lần thứ nhất.
Chiến tranh Nagorno-Karabakh lần thứ nhất kết thúc với chiến thắng thuộc về Armenia bằng nghị định Bishkek 1994. Nagorno-Karabakh trở thành quốc gia độc lập tự xưng là Cộng hoà Artsakh. Ngoài vùng Nagorno-Karabakh thì Artsakh còn chiếm được 7 quận xung quanh thuộc Azerbaijan. Hội đồng Bảo an LHQ thông qua 4 nghị quyết (1993) và Đại hội đồng năm 2008 yêu cầu trao trả 7 quận cho Azerbaijan nhưng Arsakh-Aemenia không đồng ý.
2. Chiến tranh Nagorno-Karabakh lần thứ hai
Chiến tranh Nagorno-Karabakh lần thứ hai 27/9/2020-9/11/2020 chấm dứt với chiến thắng thuộc về Azerbaijan. Sau hơn một tháng giao tranh khốc liệt Arsakh-Armenia bị mất hầu hết diện tích ở 7 quận đã chiếm đóng trong cuộc chiến tranh thứ nhất. tệ hại hơn, quân đội Azerbaijan tiên sâu vào vùng Nagorno-Karabakh, chiếm thành phố lớn thứ 2 là Shusha cách thủ phủ Stepanakert của Nagorno-Karabakh chỉ khoảng 10 km. Arsakh-Armenia đối diện với nguy cơ bị mất toàn bộ vùng Nagorno-Karabakh nên buộc phải ký kết hiệp định ngừng bắn.
Hiệp đình đình chiến nggày 9/11/2020, được ký kết bởi Tổng thống Azerbaijan Aliyev, Thủ tướng Armenia Pashinyan, và Tổng thống Nga Putin. Hiệp ước cho phép giữ nguyên hiện trạng chiếm đóng của 2 phía, và trao lại cho Azerbaijan toàn bộ 7 quận đã mất trong cuộc chiến tranh thứ nhất, đồng thời được thiết lập hành lang đi qua lãnh thổ Armenia nối với vùng đất bị chia cắt của Azerbaijan là Nakhchivan giáp với Thổ Nhĩ Kỳ và Iran.
Azerbaijan tuyên bố chiến thắng và ăn mừng rầm rộ trên cả nước với lễ duyệt binh chiến thắng tại Baku ngày 10/12/2020.
Ở chiều ngược lại là nhiều nơi trên lãnh thổ Armenia đã nổ ra các cuộc biểu tình dữ dội phản đối chính phủ đã để mất đất trong hiệp định đình chiến.
3. Nguyên nhân thắng lợi của Azerbaijan trong Chiến tranh Nagorno-Karabakh lần thứ hai
Không bàn về tác chiến quân sự cũng như nhiều nguyên nhân khác, dưới đây dẫn ra 3 yếu tố quan trọng đã đưa đến thắng lợi quyết định của Azerbaijan mà Việt Nam có thể tham khảo.
1/.Không ngừng mua sắm vũ khí mới và nâng cấp quân đội
Sau thất bại ở cuộc chiến tranh Nagorno-Karabakh, Azerbaijan đã rút ra bài học, và đã không ngừng mua sắm vũ khí hiện đại, không chỉ từ Nga. Song song với đó là thao luyện quân đội với vũ khí mới, làm cho quân đội hiện đại và tinh nhuệ hơn.
Trong khi đó, sau thất bại các quan chức quốc phòng Armenia đã đổ lỗi cho việc quân đội:
– Không được mua sắm các loại vũ khí hiện đại cần thiết,
– Lại còn bị mua vũ khí lỗi thời,
– Lại còn bị bớt xén.
Kết quả là sự lui quân và thất bại trong chiến trận với Azerbaijan.
2/.Sự giúp đỡ của Thổ Nhĩ Kỳ
Trong lễ duyệt binh ăn mừng chiến thắng của Azerbaijan ngày 10/12/2020 có sự tham dự của binh lính sĩ quan và cả tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Erdogan với một cuộc viếng thăm quốc gia tới Baku. Thiết bị quân sự và kinh nghiệm chiến tranh của Thổ Nhĩ Kỳ cùng với sự chống lưng của Thổ nhĩ Kỳ đã góp phần không nhỏ của Azerbaijan trong cuộc chiến tranh Nagorno-Karabakh 2020.
3/.Vũ khí của Israel
Khi biết Israel bán vũ khí cho Azerbaijan, Armenia đã triệu hồi đại sứ tại Isael. Trong chiến tranh Nagorno-Karabakh 2020, Azerbaijan dùng nhiều máy bay không người lái có khả năng tàng hình IAI Hadrop của Israel (và cả Bayraktar TB2 của Thổ Nhĩ Kỳ). Chính các máy bay không người lái của Israel đã tiêu diệt nhiều trạm phóng tên lửa và xe tăng của Armenia, đưa đến cho Armenia những tổn thất nặng nề về hoả lực và nhân lực, làm giảm mạnh khả năng kháng cự của quân đội Armenia.
Cùng sử dụng chủng loại vũ khí Liên Xô, Armenia đã thắng Azerbaijan trong chiến tranh Nagorno-Karabakh 1994. Nhưng ngoài vũ khí Nga mà 2 bên cùng có, thì trong chiến tranh Nagorno-Karabakh 2020 Azerbaijan có thêm vũ khí của Israel và sự trợ giúp của Thổ Nhĩ Kỳ nên đã dành thắng lợi, trả được món nợ năm 1994.
II. BÀI HỌC TRỰC DIỆN TỪ CUỘC CHIẾN NAGORNO-KARABAKH 2020
Thiết nghĩ các nhà quân sự Việt nam đã để ý đến cuộc chiến tranh Nagorno-Karabakh 2020 và đã có những quyết định tương xứng. Nhưng xin lưu ý lại, vẫn không thừa mấy nhận xét dưới đây.
1. Lãnh đạo quân đội Armenia không nêu lên tất cả các lý do đưa đến thất bại mà mới chỉ lưu ý 3 điều về mua sắm vũ khí:
– Không được mua sắm các loại vũ khí hiện đại cần thiết;
– Lại còn bị mua vũ khí lỗi thời;
– Lại còn bị bớt xén.
Đây là căn bệnh chung của các nước nghèo. Ngân sách quốc phòng ít, nên buộc phải mua loại lạc hậu, lại bị bớt xén do tham nhũng, nên vũ khí không dùng được khi chiến trận xẩy ra.
Mua vũ khí lạc hậu và ăn bớt trong mua sắm vũ khí là cực kỳ nguy hại cho phòng vệ quốc gia. Bài học là thà mua ít, nhưng hiện đại, và khộng bớt xén.
2. Nhưng điều người Armenia biết mà không nhắc đến, đó là vũ khí khắc tinh của Israel và Thổ Nhĩ Kỳ. Vũ khí khắc tinh là một quân bài cực kỳ quan trọng làm cho đối phương bất ngờ và phải gánh chịu thất bại.
3. Máy bay không người lái UAV là một QUÂN CHỦNG vô cùng nguy hiểm trong chiến tranh hiện đại.
4. Không có đồng minh Thổ Nhĩ Kỳ, Azerbaijan đã không có được chiến thắng trong cuộc chiến Nagorno-Karabakh 2020 ở mức độ như vậy.
III. HƯỚNG MẠNH ĐẾN TỰ SẢN XUẤT
Sự khác biệt của các nước có nền công nghiệp hiện đại là mua sắm và tự học theo chế tạo và tự sản xuất. Đó là điều Trung Quốc, Thổ Nhĩ kỳ và Bắc Triều Tiên và nhiều nước khác làm được.
Việt Nam cần đẩy mạnh xu hướng tự sản xuất, dẫu là theo paten của nước khác hay nhờ chuyển giao công nghệ. Từ đó mới có bậc thang để tiến lên tự sang chế.
Việc xếp hạng năng lực quốc phòng mà các tạp chí đang tiến hành chỉ dựa trên số lượng khí tà đang có. Như là số lượng: máy bay, tàu chiến, tàu ngầm, xe tăng, quân số thường trực… Trong bảng xếp hạng như vậy, một cường quốc đích thực như Đức, không được xếp hạng cao.
Chẳng hạn:
– Xếp hạng theo máy bay Đức có 712 chiếc xếp thứ 17 sau Saudi Arabia có 879 chiếc thứ 12;
– Xếp hạng tầu ngầm Đức có 6 chiếc sau Algeria 8 chiếc;
– Xếp hạng xe tăng Đức có 245 chiếc thứ 53 sau campuchia 263 chiếc thứ 49;
– Xếp hạng pháo phản lực Đức có 38 bệ xếp thứ 55 sau Lào có 64 bệ thứ 48…
Nhưng những chỉ số vừa nêu không nói lên năng lực thực về quốc phòng của nước Đức. Khi chiến sự xẩy ra thì Đức hoàn toàn có khả năng tự sản xuất các chủng loại khí tài vừa nêu với số lượng vượt trội và rất hiện đại. Để thấy được sự khác biệt giữa phải mua sắm với khả năng tự chế tạo và tự sản xuất. Đó là sự khác biệt của các cường quốc.
Việt Nam đã lãng quên nền công nghiệp tự cường hơn 30 năm nay, từ khi lao vào nền kinh tế dịch vụ. Đã đến lúc bừng tỉnh để quay về nền công nhiệp tự sản xuất. Đó là nhân tố quốc phòng cực kỳ quan trọng. Mua không xuể. Xin viện trợ càng không xuể. Phải cậy nhờ đến tự sản xuất.
IV. ĐÔI ĐIỀU VỀ PHÒNG NGỰ BIỂN ĐÔNG TỪ CUỘC CHIẾN NAGORNO-KARABAKH 2020
Hải quân Trung Quốc chưa bao giờ có bước tiến nhảy vọt về chất lượng và số lượng như thập niên vừa qua.
Chưa so sánh về chất lượng với Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Nga, nói về tổng số lượng tàu chiến lớn nhỏ, Trung Quốc có số lượng đông nhất thế giới, bỏ lại phía sau Mỹ và Nga. Về một binh chủng quan trọng như tàu ngầm, thì hiện tại Trung Quốc đã vươn lên vị trí số 1 với 79 chiếc, và còn tăng nhanh nữa trong tương lai gần, vượt số lượng 69 chiếc của Mỹ và 64 chiếc của Nga.
Từ một nước không tiếp cận được hàng không mẫu hạm, nhờ Liên Xô tan rã, Trung Quốc đã chớp thời cơ mua hàng không mẫu hạm Vargna đóng dở ở Odessa rồi nhờ các chuyên gia Ukraina giúp đỡ, tổng thể tốn kém khoảng hai chục triệu đô la, đến năm 2012 Trung Quốc đã hạ thuỷ hàng không mẫu hạm Liêu Ninh. Năm 2017 Trung Quốc có hàng không mẫu hạm Sơn Đông. Năm 2023 sẽ là hàng không mẫu hạm thứ 3 của Trung Quốc. Đến một ngày Trung Quốc sẽ vượt con số 11 hàng không mẫu hạm Mỹ.
Làm thế nào để hạn chế bớt uy lực của Hải quân Trung Quốc?
Cuộc chiến Nagorno-Karabakh 2020 cho nhiều bài học quý. Trong đó cần lưu ý đến vài hướng quan trọng sau đây có thể gợi ý cho phòng ngự ở mặt trận biển Đông.
1. Việt Nam đang xây dựng lực lượng không quân cho hải quân. Trong lực lượng đó cần chú trọng phát triển nhanh BINH CHỦNG KHÔNG QUÂN KHÔNG NGƯỜI LÁI. LẤY CHỦNG LOẠI KHẮC CHẾ làm chủ lực. Sử dụng vài ngàn UAV tàng hình là phương án kinh tế để góp phần đối phó nhanh và hiệu quả trước một đối thủ nhiều trăm tàu chiến.
2. Không thể không nghĩ đến binh chủng TÀU NGẦM MINI CÓ NGƯỜI LÁI VÀ KHÔNG NGƯỜI LÁI. Không thể không nghĩ đến tự sản xuất. Đây cũng là một hướng đi vừa kinh tế vừa kịp thời trong chiến lược bảo vệ biển Đông.
3. Cần sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.
Không cạnh tranh rằng các điều nêu trên là đúng. Chỉ là cung cấp thông tin từ một góc nhìn.
Cũng không phải là tất cả các biện pháp được trình bày ở đây, chỉ là vài điều phác hoạ rút ra từ thực tiễn cuộc chiến Nagorno-Karabakh.
Rất hy vọng các bộ óc chiến lược quốc phòng Việt Nam đã nhìn xa hơn những điều trên.
Phải tránh xung đột trong mọi trường hợp. Nhưng bảo bối số 1 để tránh xung đột là có một tiềm lực quốc phòng đủ mạnh.
Nếu nói rằng, không bao giờ ganh đua được về số lượng và chất lượng với một cường quốc mạnh hơn nhiều lần, thì đó là một suy nghĩ sai lầm.
Khi chịu thua, dừng lại, là để cho đối thủ có cơ hội tiến xa hơn và cũng là chịu đầu hàng không điều kiện.
Ở mặt biện chứng khác, sao sáng thì phải lụi tắt, tập đoàn lớn rồi đến ngày thu nhỏ để cho các tập đoàn nhỏ mới xuất hiện trở thành gã khổng lồ, một để chế hùng cường tất đến ngày tiêu vong để đế chế vĩ đại mới xuất hiện. Vũ trụ không độc cực. Đó là quy luật. Đừng bao giờ đầu hàng.
Có khát vọng chưa chắc đã thành công. Nhưng không có khát vọng thì không bao giờ thành công.
Hiếu Bá Linh, tổng hợp
3-3-2021
Hôm thứ Ba ngày 3 tháng 4, các quan chức cấp cao của Bộ Ngoại giao Liên bang Đức và Bộ Quốc phòng Đức, cho biết rằng Hải quân Đức sẽ gửi một tàu khu trục đến khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương vào mùa hè năm nay.
Trương Nhân Tuấn
26-2-2021
Tình hình Biển Đông theo tôi sẽ không đơn giản như nhiều người đã suy nghĩ và phát biểu trên các mạng truyền thông trong và ngoài nước từ nhiều ngày qua. Cũng có thể cách suy nghĩ của mọi người đã bị “gò bó” theo nghị định của thủ tướng Phúc về các vấn đề “bí mật quốc gia”. Theo tôi VN sẽ “đứng một mình” trước TQ trong vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên biển cũng như hải phận quốc gia của mình.
Tác giả: Oriana Skylar Mastro
Chuyển ngữ: Hoàng Thủy Ngữ
17-2-2021
Các cuộc tập trận của Trung Quốc ở Biển Đông vào tháng trước, và phản ứng mạnh mẽ của Mỹ, cho thấy những vùng biển tranh chấp này sẽ không sớm lắng dịu. Nếu các cuộc diễn tập quân sự là chủ yếu thì việc tranh chấp về các vị trí pháp lý cũng đang nông dần lên.
16-2-2021
Đại hội lần thứ 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn ra 18 Ủy viên Bộ Chính trị, những lãnh đạo cao nhất trong Đảng. Tạp chí Nghiên cứu Việt – Mỹ phỏng vấn Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Viện Đại học George Mason và Viện CSIS, về một số dự đoán về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong tương lai gần.
1. Sau khi có kết quả sắp xếp nhân sự lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam sau Đại hội 13, xin Giáo sư cho một số dự đoán về chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Hoa Kỳ những năm sắp tới.
Nguyễn Mạnh Hùng
Chính sách ngoại giao của Việt Nam đối với Hoa Kỳ chịu ảnh hưởng hai yếu tố tương phản nhau. Về phương diện chiến lược, Việt Nam cần Hoa Kỳ như môt đối trọng với Trung Quốc. Về phương diện kinh tế, Việt Nam cần thị trường của Hoa Kỳ và đầu tư ngoại quốc trong đó có Hoa Kỳ, để phát triển. Tuy nhiên, Việt Nam không tin Hoa Kỳ vì đã từng là nạn nhân của những cuộc mặc cả giữa các nước lớn, cộng thêm với nghi ngờ rằng Hoa Kỳ muốn dùng áp lực nhân quyền để tạo “diễn biến hòa bình,” thay đổi thể chế chính trị Việt Nam.
Việt Nam đã tạo được thế lơ lửng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc phù hơp với nhu cấu chiên lược của họ. Quan hệ hai nước từ ngày nối lại bang giao đã tiến triển thuận lợi vê mọi phương diện, cho nên tôi nghĩ là Việt Nam sẽ tiếp tục theo chiều hướng đó, trừ khi có biến động lớn trong khu vực hay trên thế giới.
2. Một số nhà quan sát tình hình Biển Đông cho rằng Trung Quốc sẽ còn tiếp tục hung hăng hơn trên Biển Đông. Theo ông, chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc, đặc biệt là vấn đề Biển Đông, sẽ như thế nào trong những năm sắp tới?
Nguyễn Mạnh Hùng
Hiện nay, Việt Nam là nước kiểm soát được nhiều thực thể nhất ở Biển Đông, khoảng 22 hay 29 thực thể, tùy theo cách tính. Mục đích của Viêt Nam là giữ được chủ quyền và quyền khai thác tài nguyên trên đảo và biển mà mình hiện có.
Đối với chính sách hung hăng lấn chiếm của Trung Quốc, Việt Nam theo đuổi chính sách vừa cộng tác vừa đấu tranh, nhượng nhịn nếu cần (như trường hợp ngưng hơp đồng khai thác dầu khí trong khu vưc bãi Tư Chính với Repsol năm 2017 và 2018, với Rosneft năm 2020), và tranh đấu nếu phải làm (như trường hợp của dàn khoan Hải Dương 981 năm 2014). Ngoài ra, họ sẽ tiếp tục những biện pháp hiện có.
Thứ nhất tiếp tục chính sách ngoại giao “ba không” – không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nươc này để chống nước kia, không cho nước ngoải đặt căn cứ quân sự hay sử dụng lãnh thổ để chống nước khác—nhằm trấn an Trung Quốc, nhưng lại cảnh cáo “tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết…”
Thứ hai, chỉnh đốn quân đội và mua vũ khí ngoại quốc để tăng cường khả năng phòng thủ và củng cố lực lượng trên những thực thể trên biển mà mình đang kiểm soát.
Thứ ba, thi hành một chính sách cân bằng quyền lực mềm (soft balancing) bằng cách tăng cường hợp tác quốc phòng-an ninh với Hiêp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các nước lớn có khả năng đối trọng Trung Quốc, đặc biêt là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ.
Thứ tư, khuyến khích các cuộc tuần tra bảo vệ tự do lưu thông hàng hải và khẳng định sức mạnh của Hoa Kỳ, hoặc hành động đơn phương hoặc hợp tác Hoa Kỳ với các cường quốc quan tâm đến Biển Đông như Nhật Bản, Ấn Độ, Anh, và Pháp, hoặc có sự hiện diện của một hay nhiều quốc gia Đông Nam Á.
Thứ năm, tranh thủ sự ủng hộ của thế giới bằng hai cách. Một mặt thì tích cực tham dự và nâng cao vai trò của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế và khu vực; mặt khác thì phổ biến và giải thích lập trường hợp lý, hợp pháp cùa mình căn cứ trên luât quốc tế, công ước về Luật Biển năm 1982, và phán quyết của của Tòa Trọng Tài Quốc Tế năm 2016
3. Giáo sư có nhận xét về ông Phạm Minh Chính như một ngôi sao sáng sau Đại hội 13. Ông Chính từng là lãnh đạo Quảng Ninh, một trong những lãnh đạo lực lượng tình báo ngành công an, lãnh đạo tổ chức nhân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo ông, ông Chính sẽ theo đuổi chính sách kinh tế đối ngoại như thế nào?
Nguyễn Mạnh Hùng
Ông Nguyễn Xuân Phúc đã thành công phần nào trong nhiệm vụ thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế. Ông Chính sẽ phải cố gắng làm tốt hơn những thành quả ấy, và không thể rời mắt khỏi mục tiêu dài hạn là đến 2045 Việt Nam phải trở thành một nước “phát triển, thu nhập cao.”
Điều này có nghĩa là phải thu hút và quản lý tốt đầu tư ngoại quốc, phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích việc thành lập các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao, và khai thác hội nhập quốc tế.
Việc trước mắt ông Chính phải làm là chuẩn bị khả năng thi hành các nghĩa vụ và khai thác các quyền lợi qua một loạt những hiệp ước thượng mại tự do mà Việt Nam đã ký kết như Hiệp định thương mại tự do Viêt Nam-EU (EVFTA), Hiệp định đối tác Kinh tế tòan diện khu vục (RCEP), Hiệp đinh Thượng mại tự do Việt-Anh (UKVFTA).
Ngoài ra, khi làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, ông Chính còn là Phó Trưởng Ban chỉ đạo quốc gia về xây dựng các đơn vị hành chính-kinh tế. Khi lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh, ông Chính đã tỏ ra ủng hộ viêc thành lập các đặc khu kinh tế được tổ chức “tinh gọn và hiêu quả.” Viêc dùng đăc khu kinh tế như môt thí điểm đã thành công ở Trung Quốc, là môt việc nên làm, và ông Chính đã có kinh nghiệm liên quan đến vấn đề này.
Tất cả những hoạt động kinh tế thương mại kể trên đều có liên quan đến an ninh quốc gia, không nhiều thi ít. Việc ông ấy có kinh nghiệm trong ngành tình báo, công an, không phải là môt điều dở nếu được áp dụng một cách hiệu quả và sáng suốt.
4. Một số nhà quan sát cho rằng Việt Nam muốn giữ được thế cân bằng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong những năm sắp tới. Ông đánh giá như thế nào về chiến lược này? Theo ông, các lãnh đạo sau Đại hội 13 cần làm những gì, và có thể làm được gì để giữ thế “cân bằng” này?
Nguyễn Mạnh Hùng
Đó là chiến lược thông thường trong chính trị quôc tế. Cho tới nay, Việt Nam đã duy trì đươc thế này môt cách tuơng đối. Thế cân bằng này tùy thuộc vào khả năng Việt Nam giữ đươc ổn đinh trong nước, lãnh đạo không chia rẽ, và khả năng quốc phòng của chính mình. Nhưng nó tùy thuộc nhiều hơn vào quan hệ giữa các nước lớn. Nêu họ xung đột với nhau, Việt Nam sẽ bị lôi cuốn vào mối xung đột ấy và sẽ phải chọn bên. Nêu họ hòa hoãn và tương nhượng, Việt Nam có thể là “vật hy sinh” cho sự tương nhượng ấy.
5. Năm 2019, Trung Quốc thực hiện một chiến dịch xâm nhập sâu và dài ngày (hơn 3 tháng) vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Malaysia, Philippines. Lực lượng cảnh sát biển Trung Quốc mạnh hơn lực lượng của cả ba nước này cộng lại. Theo ông, ba nước này có thể thành lập lực lượng cảnh sát biển chung của ba nước không? Một lực lượng chung như vậy có thể đối phó được với Trung Quốc không? Hoa Kỳ hay Nhật Bản có thể giúp gì để hình thành sự liên kết như vậy hay không?
Nguyễn Mạnh Hùng
Câu trả lơi là không, không, và không. Một, không có khả năng ba nước thành lập lưc lương cảnh sát biển chung. Hai, lưc lượng ây, nếu có thành lập, cũng không đủ sức đương đầu với Trung Quốc. Ba, Hoa Kỳ và Nhật Bản không có khả năng giúp thành lập lực lượng chung này.
Bất cứ môt sự liên kết nào cũng cần sự chống lưng của Hoa Kỳ, mà hiện nay các nước nhỏ có tranh chấp chủ quyền biển đảo vơi Trung Quốc không tin tưởng vào khả năng và quyết tâm của Hoa Kỳ trước sự lấn lướt của Trung Quốc.
Nếu Hoa Kỳ có quyết tâm thì điều khả dĩ có thể làm là tuần tra chung của hải quân trong “Tứ giác kim cuong” gồm Mỹ, Nhật, Ấn, Úc cộng thêm với ít nhất hai trong số ba nươc Đông Nam Á kể trên.
Tạp chí Nghiên cứu Việt Mỹ xin chân thành cảm ơn Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng đã dành thời gian trao đổi những vấn đề quan trọng này.
16-2-2021
Tháng 4 năm 2019, tờ The Diplomat ở Washington DC cho đăng bài “Hòn đảo trên Biển Đông mà Trung Quốc đã cho đi” của tác giả Trung Quốc Zhen-Gang Ji, tuyên truyền sai sự thật về lịch sử đảo Bạch Long Vỹ, mà không kiểm tra cẩn trọng về nội dung của bài.
Trân Văn
11-2-2021
Theo logic thì những diễn biến mới nhất đe dọa lợi ích của Trung Quốc, đặc biệt là những lợi ích của Trung Quốc tại biển Đông, sẽ làm ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư đảng CSVN kiêm Chủ tịch Nhà nước Cộng hòa XHCN, người vừa thay mặt đảng CSVN gửi lời chúc mừng năm mới đến toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc (1) – cảm thấy… BUỒN khi Trung Quốc đang đối diện với những thách thức ngay trước thềm năm mới…
9-2-2021
Giới thiệu: Bài viết bàn về sự có mặt của hai nhóm hàng không mẫu hạm USS Theodore Roosevelt và USS Nimitz ngay sau khi USS John S. McCain thực hiện chuyến Tuần Tra Tự Do Hàng Hải (FONOP) trong đó có đi sát với quần đảo Hoàng Sa. Tuần tra Eo Biển Đài Loan liên tục là một cách để tái khẳng định chiến lược bảo vệ Đài Loan của TT Truman năm 1950. Các mục đích chính của FONOP là gì?
2-2-2021
Kính gởi: Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Ngày 22/01/2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc ban hành Luật Hải cảnh, cho phép tàu cảnh sát biển Trung Quốc được thực thi pháp luật như sau:
Trương Nhân Tuấn
31-1-2021
Cho tới hôm kia phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao VN mới rụt rè lên tiếng về vụ luật hải cảnh của TQ đưa vào áp dụng. Nói “rụt rè” là nói nhẹ. Bởi vì VN không hề đá động gì tới nội dung hải cảnh TQ sẽ “sử dụng vũ khí cầm tay, vũ khí phóng trên thuyền, vũ khí phóng từ trên không” để chế ngự những tàu bè “xâm phạm” hải phận của họ.
27-1-2021
CNN mới có bài viết trong mục Du lịch về hoạt động du lịch của Trung Quốc tại Hoàng Sa, quần đảo của Việt Nam mà Trung Quốc đã chiếm lần hồi vào nhiều giai đoạn, đến năm 1974 thì họ nổ súng cưỡng chiếm nốt phần còn lại từ Việt Nam Cộng Hòa.
Tác giả: John Bolton
Dương Lệ Chi, chuyển ngữ
24-1-2021
John Bolton từng là Cố vấn An ninh Quốc gia dưới thời Tổng thống Donald Trump và là tác giả của cuốn sách: “Căn phòng nơi chuyện đó xảy ra: Hồi ký của Nhà Trắng“.
25-1-2021
I. Biển Đông, Đài Loan
1. Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt vào Biển Đông