Trang chủ Quan Điểm

Quan Điểm

Kể điều bạn biết, nói điều bạn nghĩ

Ngôi nhà xiêu vẹo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ sụp đổ

Project -Syndicate

Tác giả: Bùi Mẫn Hân

Đỗ Kim Thêm dịch

10-10-2022

Ảnh: Bảy người trong Ban thường vụ Bộ Chính trị khóa mới của Trung Quốc. Nguồn: Lintao Zhang/ Getty Images

Đặng Tiểu Bình hiểu rằng, một hệ thống dựa trên quy tắc là quan trọng để tránh lặp lại sự khủng bố cuồng tín đã được gây ra dưới thời Mao Trạch Đông. Nhưng niềm tin của ông không thể vượt qua lợi ích vị kỷ, và như Chủ tịch Tập Cận Bình đã chỉ ra, cơ ngơi thể chế mà ông Đặng xây dựng vào thập niên 1980 hóa ra trống rỗng.

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) trong tháng này, Tập Cận Bình gần như chắc chắn được chuẩn nhận chức Tổng bí thư Đảng và Chủ tịch Trung Quốc cho nhiệm kỳ thứ ba. Cùng với việc này, ông sẽ trở thành nhà lãnh đạo tối cao phục vụ lâu đời nhất của Trung Quốc kể từ thời Mao Trạch Đông, và các quy tắc và chuẩn mực được cho là chi phối chế độ ĐCSTQ sẽ bị phá vỡ.

Những quy tắc và chuẩn mực đó đã được đưa ra phần lớn bởi Đặng Tiểu Bình, người kế vị Mao Trạch Đông và nắm quyền vào năm 1978. Ông Đặng là người trực tiếp biết rõ những thiệt hại mà tinh thần cuồng tín thuộc về ý thức hệ của Đảng có thể gây ra. Trong cuộc Cách mạng Văn hóa, một trong những người con trai của ông đã bị Hồng vệ binh gây tê liệt. Bản thân ông Đặng cũng đã bị tước bỏ các chức vụ chính thức và được gửi đến làm việc tại một nhà máy ở một tỉnh xa xôi trong bốn năm – một trong ba lần ông bị chính phủ thanh trừng trong suốt sự nghiệp cách mạng lâu dài của mình.

Để bảo đảm rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ lại bị kìm kẹp bởi nỗi kinh hoàng như vậy nữa, với sự hỗ trợ của các nhà lão thành cách mạng khác đã sống sót sau cuộc Cách mạng Văn hóa, ông Đặng đã khôi phục quyền lãnh đạo tập thể và đặt ra các giới hạn về độ tuổi và nhiệm kỳ cho hầu hết các chức vụ cấp cao của ĐCSTQ. Trong những thập niên sau, giới lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc đã phục vụ không quá hai nhiệm kỳ và các ủy viên Bộ Chính trị tuân thủ mức giới hạn mặc định về độ tuổi là 68.

Nhưng ông Tập đã cho thấy là “hệ thống dựa trên các quy tắc” của ông Đặng thực ra mong manh như thế nào. Thực ra, đối với tất cả các trò chơi hòng đánh lừa dư luận về những thành tựu của ông Đặng, thành tích của ông về việc kiềm chế chế độ ĐCSTQ là hỗn tạp, tốt nhất phải nói là, không chỉ vì ông tự cam kết theo các quy tắc gần như không mạnh mẽ như người ta có thể mong đợi.

Trong phần thực hành, Đặng coi thường tinh thần lãnh đạo tập thể và các thủ tục hình thức. Ông hiếm khi cho tổ chức các cuộc họp của Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị, bởi vì ông muốn phủ nhận đối thủ chính của mình, người bảo thủ trung thành phản đối cải cách kinh tế, một nền tảng để thách thức chính sách của ông. Thay vào đó, ông thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua các cuộc họp riêng với những người ủng hộ.

Hơn nữa, khi đối phó với các nhà lãnh đạo có thiện cảm dành cho các lực lượng ủng hộ dân chủ, ông Đặng thường xuyên vi phạm các thủ tục và chuẩn mực mà ông đã thiết lập. Việc ông cách chức hai nhà lãnh đạo dân chủ là Hồ Diệu Bang năm 1986 và Triệu Tử Dương (người từ chối lệnh của Đặng để thực hiện thiết quân luật trong cuộc khủng hoảng Thiên An Môn) vào năm 1989 –  đã bất chấp nội quy của Đảng.

Trong cùng thời gian này, ông Đặng đôi khi tránh đưa ra một quy tắc, nếu làm như vậy, có thể làm hại cho lợi ích chính trị của ông. Điểm đáng chú ý nhất là, cùng với các nhà lãnh đạo cao niên khác của ĐCSTQ, ông đã không áp đặt các giới hạn về độ tuổi hoặc nhiệm kỳ đối với các thành viên của Bộ Chính trị. Ngay cả khi không thể giữ các chức vụ chính thức của chính phủ vô thời hạn, họ sẽ không bao giờ mất thẩm quyền ra quyết định của mình.

Cũng tương tự như vậy, ông Đặng không ban hành bất kỳ quy tắc hình thức nào quy định ai có thể làm Chủ tịch Uỷ ban Quân ủy Trung ương. Điều này cho phép ông Đặng tiếp tục nắm chức vụ này sau khi từ bỏ các chức vụ khác. Theo tiền lệ đó, Giang Trạch Dân cũng làm như vậy vào năm 2002. Đối với ông Tập, trong khi ông phải thông qua các kiến nghị nhằm loại bỏ việc giới hạn nhiệm kỳ Chủ tịch ra khỏi Hiến pháp vào năm 2018, thực ra ông được hưởng lợi của ĐCSTQ là đã không áp đặt giới hạn về nhiệm kỳ chính thức đối với chức vụ Tổng Bí thư.

Không có gì gây xáo trộn về các cuộc đấu tranh của Trung Quốc để duy trì các quy tắc và chuẩn mực. Ngay cả những nền dân chủ trưởng thành như Hoa Kỳ cũng phải đối mặt với những thách thức như vậy, như nhiệm kỳ tổng thống của Donald Trump đã thể hiện rõ. Nhưng nếu việc kiểm tra và cân bằng chính thức theo hiến định thất bại, các nền dân chủ ít nhất có thể tin tưởng vào một nền báo chí tự do, xã hội dân sự và các đảng đối lập để đẩy lùi, như họ đã làm chống lại Trump.

Trong các chế độ độc tài, các quy tắc và chuẩn mực mong manh hơn nhiều, vì không có các cơ chế đáng tin cậy để thực thi hiến định hoặc chính trị, và những kẻ chuyên quyền có thể dễ dàng chính trị hóa các thể chế, chẳng hạn như tòa bảo hiến, biến các cơ quan đó thành mềm dẻo để tùng phục. Và không có cơ chế chấp hành thứ cấp. Trung Quốc không có báo chí tự do hay cơ chế đối lập có tổ chức. Nếu một quy tắc trở nên không phù hợp – như giới hạn hiến định về các nhiệm kỳ Chủ tịch  dành cho ông Tập, nó có thể dễ dàng được thay đổi.

Mặc dù chà đạp các quy tắc và chuẩn mực thuộc về thể chế có thể mang lại lợi ích cho giới cai trị chuyên quyền, nhưng việc này không nhất thiết tốt đẹp cho chế độ của họ. Kinh nghiệm của ĐCSTQ dưới thời Mao là một trường hợp điển hình. Không bị cản trở bởi bất kỳ ràng buộc thuộc về thể chế nào, Mao đã tạo ra các cuộc thanh trừng liên tục và đưa Đảng từ thảm họa này sang thảm họa khác, để lại một chế độ đã khô cạn về mặt ý thức hệ và phá sản về mặt kinh tế.

Ông Đặng hiểu rằng một hệ thống dựa trên các quy tắc là cần thiết để tránh lặp lại trải nghiệm thảm khốc đó. Nhưng niềm tin của ông Đặng không thể vượt qua lợi ích vị kỷ, và cơ ngơi về thể chế mà ông xây dựng vào thập niên 1980 hóa ra không hơn một ngôi nhà xiêu vẹo, xây bằng giấy với các lá bài. Chuẩn nhận cho ông Tập trong tháng này chỉ đơn thuần là phát súng đầu tiên gây ra việc sụp đổ không thể tránh khỏi của hệ thống.

________

Tác giả: Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei) là giáo sư môn Công Quyền học tại Claremont McKenna College, Hoa Kỳ. Ông là thành viên cao cấp không thường trú của Quỹ Marshall Đức ở Mỹ.

Bài liên quan: Lễ kỷ niệm 100 năm có thể là sự kiện trọng thể cuối cùng Lễ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc Vạch trần dối trá lịch sử cận đại của Trung Quốc

Vương Hỗ Ninh có gì lạ?

Jackhammer Nguyễn

28-10-2022

Ngày 25-10-2022, BBC có bài viết: Vương Hỗ Ninh: ‘Đại quân sư’ của ba đời Tổng Bí thư ở Trung Quốc. Thật ra những gì mà ông Vương Hỗ Ninh,  lý thuyết gia của chế độ cộng sản Hoa lục hiện nay, nói về những điều nên làm cho Trung Quốc, cũng không xa lạ gì đối với người Việt, vốn cũng nghe nói đi nói lại mãi, nào là dân chủ tập trung, nào là giữ vững ổn định…

Ông Nguyễn Hữu Liêm và cơn bão trong tách trà

Jackhammer Nguyễn

26-10-2022

Ông Nguyễn Hữu Liêm ở San Jose đã gây ra một cơn bão mạng. Sau bài viết về một buổi gặp gỡ tại nhà ông với ông phó chủ nhiệm Ủy ban người Việt ở Nước ngoài của chính phủ Hà Nội, đến nay đã có đến cả chục bài, phần lớn là chỉ trích ông Liêm, có khi tấn công cá nhân rất nặng, đến nỗi tạo cảm giác là người viết có tư thù cá nhân gì với ông Liêm vậy.

Trung Quốc: Chúng ta phải nhanh chóng đổi mới tư duy

Zeit

Tác giả: Peter R. Neumann và Moritz Rudolf

Vũ Ngọc Chi chuyển ngữ

24-10-2022

Nó không còn là về giá trị đạo đức và thương mại: Đối với phương Tây, thái độ đối với Trung Quốc dưới sự cai trị của Tập Cận Bình là một vấn đề sống còn. Ba mục tiêu cho một chính sách mới đối với Trung Quốc.

Mối đe dọa và nỗi sỉ nhục cả loài người

Phạm Đình Trọng

24-10-2022

Quen thói nói lấy được, ra rả nói dối, trắng trợn bịa đặt lịch sử để bành trướng lãnh thổ: Đông Sa, Trung Sa, Tây Sa, Nam Sa là vùng biển lịch sử lâu đời của Trung Quốc. Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các quần đảo ở biển Nam Trung Hoa, sẵn sàng lộ mặt nói dối với bên ngoài để dằn mặt đối thủ chính trị trong nội bộ, ngày 22.10.2022 Tân Hoa Xã lại lem lẻm nói lấy được: Cựu lãnh đạo Trung Quốc Hồ Cẩm Đào được đưa ra khỏi phiên bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 20 Đảng Cộng sản Trung Quốc hôm nay vì lý do sức khỏe.

Sự chọn lựa của dân tộc trong thế kỷ 21: Độc tài và bạo lực bên này, dân chủ và sự đồng thuận bên kia

Đào Tăng Dực

24-10-2022

Một cách tổng quát, bản chất của độc tài là bạo lực và bản chất của dân chủ là sự đồng thuận.

TS Nguyễn Hữu Liêm, một loại Việt kiều

Thục-Quyên, BS Nha khoa

23-10-2022

Ngày 19-10-2022 trang Tiếng Dân có đăng lại một bài viết từ BBC của một người ký tên TS Nguyễn Hữu Liêm, gửi từ San José, Hoa kỳ, với tựa đề: Việt Kiều và Nhà nước VN: ‘Đã đến lúc cần chính sách mới hơn Nghị quyết 36. Cũng bài đó lại được đăng bởi tờ báo mạng Boxitvn dưới tựa đề: “Logic thương tích gặp trí tuệ nông dân: đánh giá nghị quyết 36 về người Việt ở nước ngoài” (1).

Scholz đối mặt với Tập như thế nào? Rạn nứt rõ ràng trong mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Moscow

NTV

Tác giả: Andreas Landwehr

Việt Hùng dịch

20-10-2022

Kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược Ukraine, Vladimir Putin đã nhận được sự ủng hộ của Trung Quốc – đôi khi lớn tiếng hơn, đôi khi im lặng hơn. Tuy nhiên, nó đang ngày càng ít đi. Trung Quốc ngày càng khó chịu trước sự leo thang của chiến tranh. Nhưng các kế hoạch riêng của Trung Quốc cũng vấp phải sự chỉ trích, chẳng hạn ở Đức.

Nghị quyết 36 thành công hay thất bại?

Jackhammer Nguyễn

21-10-2022

Ông Nguyễn Hữu Liêm ở San Jose, lâu nay “bị” xem là thân “cộng”, vừa viết một bài liên quan tới việc tiếp xúc giữa Hà Nội và người gốc Việt ở Mỹ. Trọng tâm của bài viết này, ông Liêm đưa ra những biện luận của mình để chứng minh rằng “nghị quyết 36” của Đảng Cộng sản Việt Nam (đảng CSVN) đã thất bại. Nghị quyết này được đưa ra để Đảng CSVN tiếp cận với người Việt ở hải ngoại, chủ yếu là nhóm tù chính trị (“cải tạo”), thuyền nhân.

Cảm nghĩ về bài viết “Việt Kiều và Nhà nước Việt Nam…” của TS Nguyễn Hữu Liêm

Nguyễn Tiến Cường

21-10-2022

Tựa đề bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Hữu Liêm đăng trên BBC tiếng Việt và Tiếng Dân ngày 19-10-2022: “Việt Kiều và Nhà nước VN: ‘Đã đến lúc cần chính sách mới hơn Nghị quyết 36‘. Bài viết này chỉ là nhận định cá nhân về bài của ông Liêm, không bàn đến những biệt danh mà nhiều người tặng cho ông Nguyễn Hữu Liêm là Kẻ Đánh Giầy Bằng Lưỡi, hay Người Cầm Đèn Chạy Trước Ô-tô…

Chiến tranh Ukraine có thể kết thúc như thế nào mà không có leo thang hạt nhân

NZZ

Tác giả: Timothy Snyder

Vũ Ngọc Chi, chuyển ngữ

16-10-2022

Với lời đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân, Putin đã gài công chúng phương Tây vào một trò chơi tâm lý nhằm che phủ sự phán đoán rõ ràng của họ. Nếu bạn muốn biết chiến tranh có thể kết thúc như thế nào, bạn nên theo dõi dấu vết của logic quyền lực trong Điện Kremlin.

Bao giờ chúng ta nhìn thẳng vào sự thật?

T-Online

Tác giả: Fabian Reinbold, Phóng viên chính trị CHLB Đức

Thuc Quyên, phỏng dịch

17-10-2022

Ảnh: Tàu sân bay Liêu Ninh (Liaoning) của Trung Quốc: Bắc Kinh đang theo đuổi chủ nghĩa dân tộc và tích cực tái vũ trang. Nguồn: Bộ Quốc phòng Nhật Bản / Reuters

Nói rõ thêm về “người giáo viên phổ thông”

Mạc Văn Trang

18-10-2022

Trong bài “Thư gửi Bộ trưởng GD&ĐT về vấn đề giáo viên phổ thông” của tôi, bị nhóm “Thanh Tâm online” làm clip xuyên tạc, có những luận điệu có thể gây hiểu lầm, nên cần nói rõ thêm vài điều.

Chính sách ngoại giao để phục vụ Đảng Cộng sản Trung Quốc

TV5 Monde

Tác giả: Séraphine Charpentier

Thục Quyên, lược dịch

15-10-2022

Ảnh: Vương Nghị, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đóng một vai trò rất quan trọng trong ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc, đặc biệt tại các nước đang phát triển, là nơi tranh giành ảnh hưởng giữa phương Tây và Trung Quốc. Nguồn: AP Photo/ Mary Altaffer

Nga không có nhân vật số hai – Điều gì sẽ xảy ra nếu Putin chết?

NTV

Tác giả: Kevin Schulte

Việt Hùng dịch

14-10-2022

Vladimir Putin là người đàn ông quyền lực nhất ở Nga trong gần 23 năm. Nhưng Tổng thống Nga hiện đã 70 tuổi – và kể từ cuộc tấn công vào Ukraine, đã có nhiều đồn đoán về một căn bệnh nghiêm trọng.

Mối quan hệ của Trung Quốc với Nga và cuộc chiến ở Ukraine (Phần 2)

BPB

Sabine Peschel phỏng vấn Zhang Yunhua

Thục Quyên phỏng dịch

14-10-2022

Ảnh hưởng của sự rạn nứt toàn cầu bởi cuộc chiến Ukraine

Ngay cả khi không có chiến tranh, toàn cầu hóa đã bước vào giai đoạn thứ ba. Điều này có nghĩa là các chuỗi cung ứng sẽ ngày càng đa dạng hơn trong tương lai, ít phụ thuộc vào Trung Quốc hơn. Một dòng vốn nhất định đang thất thoát từ Trung Quốc. Trước tình hình đó, Trung Quốc ngày càng quan tâm đến các nước phi dân chủ. Trước đây, Trung Quốc chỉ chú trọng đến hai khu vực, Mỹ là thị trường lớn nhất và Liên minh Âu châu. Trung Quốc đã thay đổi hướng đi, bởi vì bây giờ các nước ASEAN đã thành đối tác thương mại lớn nhất, không còn là Mỹ, cũng không còn là Liên minh Âu châu.

Mặc dù vậy, Trung Quốc vẫn phụ thuộc vào các nước phương Tây. Bởi vì khi nói đến mãi lực, tất nhiên sức mua lớn nhất không phải ở các nước ASEAN, mà là ở thế giới phương Tây. Xuất khẩu là cơ sở quan trọng của nền kinh tế Trung Quốc.

Mặt khác, việc chuyển giao công nghệ then chốt từ Mỹ sang Trung Quốc gần như không thể thực hiện được nữa. Nói một cách dễ hiểu, điều này có nghĩa là sự phát triển công nghệ của Trung Quốc trong tương lai sẽ không suôn sẻ, và tốc độ phát triển sẽ tự động chậm lại. Tập Cận Bình sẽ ngày càng tập trung vào thị trường trong nước và thị trường của các nước phi dân chủ.

“Liên minh của những kẻ chuyên quyền”

Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Nga có là một mối đe dọa đối cho phương Tây?

Trong vấn đề Đài Loan, Trung Quốc là một mối đe dọa thực sự.

Liên quan tới Âu châu, mục đích của Trung Quốc là chia rẽ Liên minh Âu châu để làm suy yếu khối này. Và trên thực tế, thực sự là toàn bộ châu Âu đã hành động trái ngược nhau trong những năm gần đây. Điều đó tốt cho Trung Quốc. Kể từ khi chiến tranh xảy ra, tình hình đã thay đổi, nhưng bất chấp điều này, Trung Quốc sẽ nắm bắt mọi cơ hội để đẩy mạnh sự chia rẽ. Ví dụ, Trung Quốc đã chuyển giao tên lửa phòng không cho Serbia vào tháng Tư. Về khía cạnh này, Trung Quốc thực sự là một mối đe dọa.

Một thí dụ khác là Trung Quốc muốn thành lập chi nhánh của Đại học Phúc Đán ,Thượng Hải ở Budapest (Fudan University). Điều này vấp phải sự phản đối, nhưng vẫn chưa rõ dự án này đã thực sự kết thúc hay chưa. Chỉ riêng nỗ lực này đã cho thấy Trung Quốc muốn có được chỗ đứng ở mọi nơi, không chỉ ở các quốc gia độc tài mà còn ở những khu vực dân chủ.

Cuộc chiến Ukraine trên truyền thông Trung Quốc

Hình ảnh nào về cuộc chiến Ukraine đang chiếm ưu thế tại Trung Quốc?

Trong giai đoạn đầu, báo chí Trung Quốc hoàn toàn chỉ đưa tin những gì báo chí Nga đăng tải. Khi những người Ukraine sống tại Trung Quốc phát tán bất kỳ thông tin nào khác, ngay lập tức họ bị cảnh sát đe dọa.

Từ giữa tháng Tư là giai đoạn thứ hai, đôi khi xuất hiện những tin tức khác hơn các báo cáo từ Nga. Quân đội Ukraine càng mạnh vì được hỗ trợ bởi vũ khí công nghệ cao của phương Tây, thì Trung Quốc càng trở nên thận trọng với cách loan truyền tin tức.

Dù vậy, Trung Quốc vẫn sử dụng hai giọng lưỡi khác nhau: Trên sân khấu Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc dùng một ngôn ngữ ít nhiều tương ứng với các tiêu chuẩn quốc tế và nhấn mạnh tính trung lập của mình, nhưng đối với dân trong nước thì giọng điệu hoàn toàn về phe Nga.

Zhang Jun, Đại diện thường trực của Trung Quốc tại LHQ, đã bỏ phiếu trắng khi Đại hội đồng LHQ lên án với tỷ lệ áp đảo việc Nga xâm lược Ukraine trong nghị quyết ngày 2/3/2022. Tiếng nói của Trung Quốc rất quan trọng, do đó chỉ việc bỏ phiếu trắng cũng đã được quốc tế đánh giá tích cực. Nguồn: © picture-alliance, Pacific Press.

Giống như trên các phương tiện truyền thông Nga, Trung Quốc không bao giờ dùng từ “chiến tranh”, mà là “hoạt động quân sự nhằm đảm bảo hòa bình tại Ukraine”, hay gần đây là “cuộc khủng hoảng Ukraine”. Trong giai đoạn thứ hai, Trung Quốc sử dụng thuật ngữ chiến tranh, nhưng chắc chắn không có từ “xâm lược”. Và nếu có đề cập đến chiến tranh thì đó là một cuộc chiến khởi động bởi NATO, không phải Nga.

Tin tức về cuộc chiến Ukraine hoàn toàn bị kiểm duyệt tại Trung Quốc

Việc kiểm duyệt khá hoàn hảo. Hiện nay Trung Quốc là một đất nước nơi người dân, bao gồm cả trí thức, coi như đã có một thỏa thuận với chính phủ: Chúng tôi không đưa ra bất kỳ nhận xét chỉ trích nào, đổi lại hãy để chúng tôi yên. Thỏa thuận này dường như đang còn hiệu lực tại Trung Quốc. Đối với những phát biểu hiếm hoi vượt quá phạm vi, thì Trung Quốc có đủ một số lượng nhân viên ngồi trước màn hình để xóa ngay lập tức mọi lời chỉ trích. Một bài viết phê bình không tồn tại trên mạng được quá nửa giờ hoặc một giờ.

Đa số công chúng Trung Quốc tin vào sự tuyên truyền của Nga-Trung qua giới truyền thông, trong khi một thiểu số im lặng nhỏ bé không có không gian để nói lên suy nghĩ của họ.

Dù sao kết quả của cuộc chiến cũng sẽ có tác động lớn đến Trung Quốc, có nghĩa là một kết quả tiêu cực về phía Nga có thể khiến người dân Trung Quốc thức tỉnh – điều này sẽ không tốt cho giới lãnh đạo.

Lập luận được Trung Quốc loan truyền trong giới đồng minh của mình

Tất nhiên, khi cuộc chiến và toàn bộ tình hình liên tục thay đổi, cách thức tuyên truyền của Trung Quốc cũng thay đổi, nhất là khi Nga đã không thể dễ dàng đánh bại Ukraine.

Phương Tây và đặc biệt là Mỹ không thể để Ukraine thất bại. Một thất bại của Ukraine có thể đồng nghĩa với sự thất bại của Đài Loan trong tương lai, điều mà Trung Quốc biết rõ. Và điều này có nghĩa là tuyên truyền ủng hộ Nga của chính phủ chỉ nhắm vào chính người dân Trung Quốc.

Còn đối với các nước đồng minh, Trung Quốc không thể hoàn toàn bưng bít tin tức thì họ sử dụng những lập luận quen thuộc: Nguyên nhân của cuộc chiến là sự bành trướng của NATO. Vì vậy, nếu cuộc chiến này cũng gây ra những hậu quả như tình trạng thiếu lương thực trên toàn thế giới và đặc biệt là ở Nam Bán cầu, thì tất nhiên chỉ có phương Tây cần bị chỉ trích chứ không phải Nga.

Nhưng nhìn chung, Trung Quốc vẫn sẽ chọn một quan điểm thực dụng.

Trung Quốc đang theo dõi sát sao và phân tích kỹ diễn biến cuộc chiến ở Ukraine vì theo quan điểm của họ, đây có thể coi là sự mô phỏng một cuộc chiến tại Đài Loan. Do đó Trung Quốc đã cực lực cảnh báo khi xuất hiện một tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường của Hải quân Mỹ đi qua eo biển Đài Loan vào ngày 26/4: Dấu hiệu về sự bảo vệ Đài Loan của Hoa Kỳ. Nguồn: © picture-alliance/ AP

Bắc Kinh rút ra bài học gì từ cuộc xâm lược Ukraine của Nga đối với Đài Loan?

Trong mọi trường hợp, Trung Quốc sẽ tránh những gì mà họ đánh giá là Nga hiện đang làm sai: Có nghĩa là không tấn công theo kiểu “ngạo mạn” đó. Nếu bây giờ Trung Quốc tấn công Đài Loan, họ sẽ sử dụng công nghệ cao hơn chứ không như Nga – với các phương tiện quân sự đơn giản. Trung Quốc sẽ thận trọng hơn nhiều vì một cuộc tấn công vào Đài Loan chỉ có thể được thực hiện với sự chuẩn bị kỹ càng nếu Trung Quốc muốn nắm chắc phần thắng. Một đòn giáng mạnh vào Tập Cận Bình là một bài học khác từ cuộc chiến Ukraine: Cả Putin và Tập đều đánh giá bản thân quá cao và đánh giá phương Tây quá thấp.

Tập Cận Bình khi học được bài học này sẽ khiêm tốn hơn trong tương lai. Không có nghĩa là chính sách ngoại giao chiến binh sói hung hãn sẽ hoàn toàn thay đổi vì còn có vấn đề quán tính. Nhưng nói chung, Trung Quốc sẽ điều chỉnh sự kiêu ngạo của mình đôi chút.

Trung Quốc sẽ tấn công Đài Loan trong thời gian tới?

Nhiều dấu hiệu cho thấy, quân đội Trung Quốc có vẻ hoan nghênh một cuộc chiến, vì vậy chỉ còn phụ thuộc vào cách tính toán của Tập Cận Bình. Câu hỏi chính là công nghệ quân sự đã phát triển đến đâu. Có vẻ Trung Quốc phải cần thêm vài năm nữa, hay chỉ là hai hoặc ba?

Tuy nhiên, tình thế hiện tại đã thay đổi theo hướng có lợi cho Đài Loan, vì cộng đồng quốc tế sẽ khó chấp nhận thêm một cuộc chiến tranh xâm lược khác. Chỉ điều đó thôi cũng có thể khiến Trung Quốc không tránh được thất bại bất chấp mọi nỗ lực.

Tất cả phụ thuộc vào việc Tập Cận Bình có thể hạn chế tham vọng của mình hay không. Và điều này sẽ rõ khi Đại hội Đảng năm nay kết thúc.

(Chú thích của người dịch: Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu ngày 16/10/2022).

Chiến tranh ở Ukraine có thể kết thúc như thế nào

The New Yorker

Tác giả: Keith Gessen

Bùi Xuân Bách, dịch

29-9-2022

Trong những năm gần đây, một nhóm nhỏ các học giả đã tập trung vào lý thuyết về chấm dứt chiến tranh. Họ thấy có lý do để lo ngại về những kết quả có thể xảy ra ở Ukraine.

Hein Goemans lớn lên ở Amsterdam vào thập niên 1960 và 70, xung quanh là những câu chuyện và ký ức về Chiến tranh thế giới thứ hai. Cha ông là người Do Thái và đã trốn “dưới sàn nhà”, như ông nói, trong thời gian Đức Quốc xã chiếm đóng. Khi Goemans đến Hoa Kỳ để học chuyên ngành “quan hệ quốc tế”, ông nhớ lại, khi ông được hỏi trong một lớp học về trải nghiệm riêng tư nhất của ông trong việc hình thành các khái niệm về lĩnh vực này. Ông nói rằng đó là Chiến tranh thế giới thứ hai. Các sinh viên khác phản đối rằng, điều này không đủ riêng tư. Nhưng nó rất riêng tư đối với Goemans. Ông nhớ lại lần tham dự lễ kỷ niệm lần thứ 40 ngày giải phóng Amsterdam vào tháng 5 năm 1985. Nhiều người lính Canada tham gia cuộc giải phóng vẫn còn sống, và họ đã tái hiện quang cảnh quân đội Canada tiến vào giải phóng thành phố. Goemans nhớ mình đã nghĩ rằng, người dân Amsterdam sẽ quá xuề xòa khi tham dự lễ kỷ niệm, và xúc động rằng ông đã sai. “Toàn bộ thành phố chật cứng người hai bên đường”, ông ấy nói với tôi gần đây. “Tôi thực sự ngạc nhiên là mọi người đã cảm nhận sự kiện đó sâu sắc tới mức nào”.

Goemans, hiện đang giảng dạy môn khoa học chính trị tại Viện Đại học Rochester (Hoa Kỳ), đã viết luận văn của mình về lý thuyết chấm dứt chiến tranh – tức là nghiên cứu về cách các cuộc chiến tranh kết thúc. Goemans biết được đã có nhiều công trình về các cuộc chiến bắt đầu như thế nào, nhưng lại biết rất ít về cách chúng có thể kết thúc. Có lẽ, có những nguyên nhân lịch sử cho sự bỏ qua này: vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ và Liên Xô có nghĩa là một cuộc chiến tranh giữa họ có thể kết thúc nền văn minh nhân loại; không chỉ một số người sắp chết, mà là cái chết của tất cả mọi thứ. Do đó, việc nghiên cứu chiến tranh trong thời Chiến tranh Lạnh đã làm phát sinh vốn từ vựng phong phú về răn đe: Răn đe trực tiếp, răn đe mở rộng, răn đe bằng trừng phạt, răn đe bằng cách từ chối. Nhưng Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, và chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra. Goemans nhìn thấy một cơ hội cho sự can thiệp bằng trí tuệ.

Trong luận văn và trong cuốn sách tiếp theo của mình, “Chiến tranh và trừng phạt”, Goemans đã đưa ra lý thuyết về cách thức và lý do tại sao một số cuộc chiến kết thúc nhanh chóng và những cuộc chiến khác lại kéo dài một cách tàn bạo. Cuộc chiến trong tiêu đề là Chiến tranh thế giới thứ nhất; “Sự trừng phạt” là điều mà các nhà lãnh đạo ở Đức nói riêng, lo sợ đang chờ đợi họ, nếu họ mang về bất cứ điều gì ít hơn một chiến thắng. Khi cuốn sách của Goemans ra mắt vào năm 2000, đây là nghiên cứu toàn thời gian hiện đại đầu tiên dành hoàn toàn cho vấn đề chiến tranh kết thúc và nó đã giúp khởi động lĩnh vực này.

Goemans viết, thường chiến tranh được cho là kết thúc do một bên đầu hàng. Một tác giả đã nói vào năm 1944: “Cho đến khi kẻ bại trận bỏ cuộc, chiến tranh vẫn tiếp diễn”. Nhưng ghi chép thực nghiệm cho thấy điều này, cao nhất cũng chỉ là một lời giải thích không đầy đủ. Thường phải có hai bên để bắt đầu một cuộc chiến, ngay cả khi họ có những tội lỗi khác nhau, và thường cũng phải có hai bên để kết thúc nó; kẻ chiến bại có thể chấp nhận các điều khoản đã được đề xuất vào tuần trước, nhưng đâu có điều gì để ngăn người chiến thắng nghĩ thêm ra các điều khoản mới? Thí dụ kinh điển từ Chiến tranh thế giới thứ nhất là việc từ chối của những người Bolshevik, sau khi họ nắm chính quyền ở Nga, để tiếp tục cuộc chiến chống lại Đức; tuyên bố “không chiến tranh cũng không hòa bình”, họ chỉ đơn giản là rời khỏi các cuộc đàm phán tại Brest-Litovsk. Goemans viết: “Theo nghĩa đen, những kẻ thất bại đã bỏ cuộc”. Nhưng người Đức, thay vì chấp nhận điều này, tiếp tục tiến sâu hơn vào Nga. Chỉ sau khi những người Bolshevik đồng ý với những điều khoản, thậm chí còn khắc nghiệt hơn so với những điều khoản đã được đề xuất chỉ ba tuần trước đó, người Đức mới đồng ý rút lui khỏi cuộc chiến.

Các tài liệu lý thuyết gần đây đã thừa nhận tính hai mặt của chiến tranh, Goemans viết, nhưng ở đây, các khía cạnh quan trọng đã bị bỏ qua. Lý thuyết chiến tranh du nhập từ kinh tế học khái niệm “thương lượng” và các cuộc chiến tranh được cho là bắt đầu khi quá trình thương lượng – về một phần lãnh thổ, thường là – đổ vỡ. Nguyên nhân phổ biến nhất của sự đổ vỡ, theo các nhà lý thuyết chiến tranh (và một lần nữa vay mượn từ kinh tế học), là một số dạng bất cân xứng về thông tin. Nói một cách đơn giản, một hoặc cả hai bên đã đánh giá quá cao sức mạnh của mình so với đối thủ. Có nhiều lý do giải thích cho sự bất cân xứng về thông tin này, đặc biệt là khả năng chiến đấu trong chiến tranh của các quốc gia hầu như luôn là một bí mật được bảo vệ chặt chẽ. Trong mọi trường hợp, cách tốt nhất để tìm ra ai mạnh hơn là thực sự bắt đầu chiến cuộc. Sau đó, mọi thứ trở nên rõ ràng khá nhanh chóng. Nhiều cuộc chiến tranh đã kết thúc theo cách này, với việc các bên đánh giá lại sức mạnh tương đối của mình và chọn việc đi tới một thỏa thuận.

Nhưng có những loại chiến tranh khác, trong đó các yếu tố ngoài thông tin chiếm ưu thế. Những yếu tố này, một phần do chúng không đóng vai trò nổi bật trong kinh tế học, nên ít được hiểu rõ hơn. Một thực tế là các hợp đồng trong hệ thống quốc tế – trong trường hợp này là các thỏa thuận hòa bình – có rất ít hoặc không có cơ chế thực thi. Nếu một quốc gia thực sự muốn phá vỡ một thỏa thuận, thì không có tòa án trọng tài nào mà bên kia có thể kháng cáo. (Về lý thuyết, Liên Hiệp quốc có thể là tòa án này; trên thực tế thì không). Điều này dẫn đến vấn đề được gọi là “cam kết đáng tin cậy”: một lý do khiến các cuộc chiến tranh có thể không kết thúc nhanh chóng là do một hoặc cả hai bên không thể tin tưởng phía bên kia sẽ tôn trọng bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào mà họ đã đạt được. Trong cuốn sách “Chiến tranh kết thúc ra sao” năm 2009 của mình, Dan Reiter, đồng nghiệp của Goemans, đã sử dụng ví dụ về Vương quốc Anh vào cuối mùa xuân năm 1940, sau khi nước Pháp sụp đổ. Nước Anh đã thua trong cuộc chiến và không có gì chắc chắn rằng Hoa Kỳ sẽ tham gia kịp thời để cứu nó. Nhưng người Anh vẫn tiếp tục chiến đấu, bởi vì họ biết rằng không thể tin cậy được vào bất cứ một cuộc thương thảo nào với Đức Quốc xã. Như Winston Churchill đã đưa chuyện này ra nội các của mình, theo cách không thể bắt chước của ông ấy: “Nếu câu chuyện về hòn đảo dài này của chúng ta cuối cùng kết thúc, hãy để nó kết thúc chỉ khi mỗi người trong chúng ta nằm nghẹt thở trong máu của chính mình trên mặt đất”.

Theo Goemans, một yếu tố khác đã bị bỏ qua trong tài liệu là nền chính trị trong nước. Các quốc gia được coi là những chủ thể thống nhất với những lợi ích nhất định, điều này đã để lại những áp lực nội bộ đặt lên chính phủ của một quốc gia-nhà nước hiện đại. Goemans đã tạo ra một bộ dữ liệu về mọi nhà lãnh đạo của tất cả các quốc gia có chiến tranh trong khoảng thời gian từ năm 1816 đến 1995, và mã hóa mỗi người theo một hệ thống ba bên. Một số nhà lãnh đạo là nhà dân chủ; một số là nhà độc tài; và một số ở giữa. Theo Goemans, các nhà dân chủ có xu hướng phản ứng với thông tin do chiến tranh đưa lại và hành động phù hợp theo đó; trong trường hợp tồi tệ nhất, nếu họ thua trận nhưng đất nước của họ vẫn tồn tại, họ sẽ bị đuổi khỏi nhiệm sở và về ngồi viết hồi ký. Các nhà độc tài, bởi vì họ có toàn quyền kiểm soát dân chúng trong nước của mình, cũng có thể kết thúc chiến tranh khi họ cần. Sau Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, Saddam Hussein là một nhà lãnh đạo như vậy; ông ta chỉ đơn giản là giết bất cứ ai chỉ trích ông ta.

Goemans nhận thấy rắc rối nằm ở những nhà lãnh đạo không phải là nhà dân chủ hay độc tài: bởi vì họ đàn áp, họ thường gặp những kết cục tồi tệ, nhưng vì họ đàn áp không đủ mạnh tay, họ phải tính đến dư luận và liệu nó có đang chĩa mũi dùi vào họ hay không. Goemans nhận thấy, những nhà lãnh đạo này sẽ bị cám dỗ “đánh bạc để phục sinh”, tiếp tục tiến hành cuộc chiến, thường với  cường độ ngày càng lớn hơn, bởi vì bất cứ điều gì ngoài chiến thắng đều có thể đồng nghĩa với việc họ phải sống lưu vong hoặc chết. Ông ấy nhắc tôi (tác giả) nhớ rằng vào ngày 17 tháng 11 năm 1914 – bốn tháng sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu – Kaiser Wilhelm II đã họp với nội các chiến tranh của mình và kết luận rằng cuộc chiến là bất khả kháng. “Tuy nhiên, họ đã chiến đấu trong bốn năm nữa”, Goemans nói. “Và lý do là họ biết rằng nếu họ thua, họ sẽ bị lật đổ, sẽ có một cuộc cách mạng”. Và họ đã đúng. Những nhà lãnh đạo như thế này rất nguy hiểm. Theo Goemans, chúng là nguyên nhân khiến Chiến tranh thế giới thứ nhất, và nhiều cuộc chiến khác, đã kéo dài hơn nhiều so với những gì lẽ ra chúng nên có.

Gần đây tôi đã nói chuyện với một số nhà lý luận về chấm dứt chiến tranh, gồm cả Goemans, để xem quan điểm lý thuyết có thể cho chúng ta biết gì về cuộc chiến ở Ukraine. Các nhà lý thuyết hóa ra là một nhóm gắn kết và sôi nổi, hầu hết trong số họ dán mắt vào Twitter và Telegram, bằng nhiều ngôn ngữ, khi họ cố gắng theo dõi cuộc chiến trong thời gian thực. Họ tin rằng các cuộc chiến mà họ đã nghiên cứu có thể làm sáng tỏ cuộc xung đột hiện tại. Rõ ràng, họ không phải là những người duy nhất nghĩ như vậy. Nhà lý thuyết chiến tranh Branislav Slantchev, một trong những sinh viên cũ của Goemans và là giáo sư tại Đại học California San Diego (UCSD), nói với tôi rằng, vào tháng 8, anh ấy đã được yêu cầu tham gia hội nghị qua Zoom về chấm dứt chiến tranh do cơ quan tình báo Hoa Kỳ triệu tập.

Reiter, tác giả cuốn sách “Chiến tranh kết thúc ra sao”, đã bị hấp dẫn bởi thực tế rằng cuộc xung đột ở Ukraine là một cuộc chiến kiểu cũ. Có rất ít chiến tranh mạng và Nga chỉ sử dụng một vài tên lửa siêu thanh. Ông nói rằng, về phía Nga, “đó là pháo binh, thiết giáp, bộ binh, sự tàn bạo đối với dân thường. Đó là thế kỷ 20”. Và về phía Ukraine cũng vậy: “Họ có vũ khí khá tinh vi, cùng với sự huấn luyện đầy đủ, kết hợp cùng với rất nhiều bản lĩnh. Mọi thứ không thay đổi nhiều như chúng tôi đã nghĩ ”.

Tanisha Fazal, một học giả tại Đại học Minnesota (Hoa Kỳ), là người đang viết một cuốn sách về y tế  trên chiến trường, đã ngạc nhiên bởi tỷ lệ người Nga bị thương trên số người thiệt mạng quá thấp. Tỷ lệ lịch sử trong một 150 năm qua là khoảng ba hoặc bốn trên một. Trong các cuộc chiến gần đây, chẳng hạn như ở Afghanistan, Hoa Kỳ đã cố gắng đạt được tỷ lệ người bị thương trên người chết lên tới 10 trên một, có nghĩa là ít binh sĩ chết hơn sau khi bị thương. Người Nga được ước tính sẽ kém xuống còn bốn ăn một. Lý do, Fazal nói, là người Nga đã không cố gắng thiết lập ưu thế trên không; họ không thể đưa những người lính bị thương của họ ra ngoài đủ nhanh, và do đó nhiều người trong số họ đã chết.

Nói rộng hơn, chiến tranh đã thể hiện nhiều đặc điểm quen thuộc với các nhà lý thuyết về chiến tranh. Tính toán sai lầm ban đầu của Vladimir Putin rằng ông ta có thể đè bẹp Ukraine trong vài ngày là một trường hợp kinh điển của sự bất cân xứng về thông tin; nó cũng là một thí dụ kinh điển về một chế độ đàn áp bị chính người dân của nó cung cấp thông tin kém giá trị. Mọi người đều đồng ý rằng chúng ta đang phải đối mặt với một vấn đề cam kết đáng tin cậy “kinh điển”. Nga tuyên bố rằng họ không thể tin tưởng Ukraine sẽ không trở thành một quốc gia NATO về bản chất; về phần mình, Ukraine không có lý do gì để tin tưởng một chế độ Nga đã nhiều lần thất hứa và xâm lược nước này vào tháng 2 mà không có hành động khiêu khích nào (từ phía Ukraine). Nhưng việc giải quyết vấn đề cam kết đáng tin cậy rất phức tạp. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nó đã được giải quyết bằng sự tan rã của chế độ Đức Quốc xã, việc viết lại hiến pháp của Đức và sự phân chia nước Đức. Nhưng không có nhiều cuộc chiến kết thúc với kết cục tuyệt đối như vậy.

Thêm vào sự phức tạp, cuộc chiến này, giống như những cuộc chiến khác, rất năng động. Nhiều chuyện lớn đã xảy ra kể từ khi Nga xâm lấn Ukraine vào sáng ngày 24 tháng 2. Những tiết lộ về điểm yếu của Nga và sức mạnh của Ukraine đã nâng cao tinh thần dân chúng Ukraine; việc phát hiện ra các vụ thảm sát thường dân ở Bucha và bây giờ là Izyum đã khiến dư luận phẫn nộ. Nếu trước đây dư luận Ukraine có khoảng trống để nhượng bộ Nga thì giờ đây không gian đó đã đóng lại. “Đôi khi chiến tranh lại tạo ra nguyên nhân chiến tranh”, Goemans nói.

Hàng chục tác nhân bên ngoài đã bị lôi kéo vào cuộc xung đột: Ba mươi quốc gia thuộc Liên minh NATO, đứng về phía Ukraine; Belarus, bây giờ, đứng về phía Nga. Goemans nói: “Đây là một cuộc chiến tranh lớn ở châu Âu, điều mà chúng tôi nghĩ rằng nó sẽ không xảy ra trong thời đại chúng ta. Đó là chiến tranh chiến hào, giống như Thế chiến thứ nhất. Và đó là vì sự tồn tại của Ukraine với tư cách là một nhà nước”. Hệ quả là rất lớn. “Điều này sẽ định hình phần còn lại của thế kỷ XXI. Nếu Nga thua hoặc không đạt được điều mình muốn, thì sau này sẽ là một nước Nga khác. Nếu Nga thắng, sau này sẽ là một châu Âu khác”. Phạm vi và sự phức tạp của cuộc chiến đòi hỏi một giải pháp nhanh chóng. Goemans nói: “Đây là điều đã làm cho Thế chiến thứ nhất trở nên to lớn, đó cũng là điều khiến Thế chiến thứ hai trở nên rộng lớn như vậy”, Goemans nói. “Không chỉ là ‘Tôi muốn một mảnh lãnh thổ vì những người anh em đồng tộc của tôi ở đó.’ Nó là — tất cả những thứ nhảm nhí này”.

Khi chúng tôi nói chuyện lần đầu tiên vào đầu tháng 9, Goemans dự đoán một cuộc xung đột kéo dài. Không có yếu tố nào trong ba yếu tố chính của lý thuyết chấm dứt chiến tranh – thông tin, cam kết đáng tin cậy và chính trị trong nước – đã được giải quyết. Cả hai bên vẫn tin rằng họ có thể giành chiến thắng, và sự ngờ vực của họ dành cho nhau ngày càng sâu sắc hơn. Về chính trị trong nước, Putin chính xác là kiểu nhà lãnh đạo mà Goemans đã cảnh báo. Bất chấp bộ máy đàn áp đáng kể của mình, ông ta không có toàn quyền kiểm soát đất nước. Ông tiếp tục gọi cuộc chiến là một “hoạt động quân sự đặc biệt” và trì hoãn việc động viên toàn quốc, để không phải đối mặt với tình trạng bất ổn trong nước. Goemans dự đoán nếu ông ta bắt đầu thua cuộc, ông ta chỉ đơn giản là sẽ leo thang.

Và sau đó, trong những tuần sau khi tôi và Goemans lần đầu tiên nói chuyện, các sự kiện đã nhanh chóng diễn ra dồn dập. Ukraine đã tiến hành một cuộc phản công thành công ngoạn mục, chiếm lại những vùng lãnh thổ rộng lớn ở khu vực Kharkiv và đe dọa chiếm lại thành phố Kherson đã bị chiếm đóng. Putin, như dự đoán, đã chống trả, tuyên bố “động viên một phần” trong nước và tổ chức “cuộc trưng cầu dân ý” vội vàng về việc gia nhập Liên bang Nga tại các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Việc động viên cục bộ đã được thực hiện một cách hỗn loạn, và như khi bắt đầu chiến tranh, khiến hàng chục ngàn người phải bỏ chạy khỏi nước Nga. Đã có những cuộc biểu tình lẻ tẻ trên toàn quốc, và những cuộc biểu tình này đe dọa ngày càng lớn về quy mô. Trong khi đó, các lực lượng Ukraine tiếp tục tiến về phía đông đất nước họ.

Trong một bài đáng sợ đăng trên blog, Branislav Slantchev, cựu học sinh của Goemans, đã đưa ra một vài tình huống tiềm năng. Ông tin rằng mặt trận của Nga ở Donbas vẫn có nguy cơ sụp đổ không tránh khỏi. Nếu điều này xảy ra, Putin sẽ cần phải leo thang hơn nữa. Điều này có thể diễn ra dưới dạng nhiều cuộc tấn công hơn vào cơ sở hạ tầng của Ukraine, nhưng nếu mục tiêu là ngăn chặn những bước tiến của Ukraine, thì một lựa chọn khả thi hơn sẽ là một cuộc tấn công hạt nhân chiến thuật nhỏ. Slantchev dự báo rằng nó có thể nhỏ hơn một kiloton – tức là nhỏ hơn khoảng mười lăm lần so với quả bom ném xuống Hiroshima. Tuy nhiên, nó sẽ rất tàn khốc và gần như chắc chắn sẽ dẫn đến phản ứng dữ dội từ phương Tây. Slantchev không nghĩ rằng NATO sẽ đáp trả bằng các cuộc tấn công hạt nhân của riêng mình, nhưng chẳng hạn, NATO có thể tiêu diệt Hạm đội Biển Đen của Nga. Điều này có thể dẫn đến một hiệp leo thang khác. Trong tình huống như vậy, phương Tây cuối cùng có thể bị cám dỗ để lui bước. Slantchev kêu gọi họ không nên làm vậy. Anh ấy viết: “Đây là bây giờ. Đây là chuyện được ăn cả“.

Goemans nói với tôi: “Branislav rất lo lắng và anh ấy không phải là người nhút nhát (sợ hãi quá mức)”. Goemans cũng lo lắng, mặc dù dòng thời gian giả định của ông đã kéo dài hơn. Ông tin rằng lực lượng tăng viện mới của Nga, dù được huấn luyện và trang bị kém, và sự khởi đầu của một mùa đông sớm sẽ tạm dừng chiến dịch của Ukraine và cứu người Nga vào lúc này. “Mọi người nghĩ rằng nó sẽ nhanh chóng kết thúc, nhưng thật không may, chiến tranh không diễn ra như vậy”, ông nói. Nhưng ông cũng tin rằng Ukraine sẽ tiếp tục tấn công vào mùa xuân, tại thời điểm đó động lực như vậy và những mối nguy hiểm tương tự sẽ trở lại. Goemans nói: “Để chiến tranh kết thúc, yêu cầu tối thiểu của ít nhất một trong các bên phải thay đổi“. Đây là quy tắc chấm dứt chiến tranh đầu tiên. Và chúng ta vẫn chưa đạt đến điểm mà mục tiêu chiến tranh đã thay đổi đủ để có thể đạt được một thỏa thuận hòa bình.

Dự đoán của các nhà lý thuyết về điều gì sẽ xảy ra tiếp theo, phụ thuộc một phần vào cách họ đánh giá các diễn biến. Liệu mặt trận của Nga ở Donbas có thực sự sụp đổ, và nếu có thì bao lâu nữa? Nếu nó sụp đổ, thì Điện Kremlin có thể kiểm soát được bao nhiêu thông tin về nó? Những điều này không thể đoán trước, nhưng người ta phải dự đoán. Ví dụ, Dan Reiter tỏ ra lạc quan hơn một chút so với Goemans về việc Putin có thể bán một phần chiến thắng cho người dân Nga, vì sự quản lý chặt chẽ của ông ta đối với các phương tiện truyền thông Nga. Đối với Reiter, Putin đã đủ là một nhà độc tài, song ông ta có khả năng lùi bước.

Mặc dù là nhà lý thuyết hàng đầu về cam kết đáng tin cậy, Reiter tin rằng chiến tranh có thể kết thúc trong thời gian ngắn với một kết quả tuyệt đối, chẳng hạn như sự tan rã của Liên bang Nga. Ông nói: “Bạn thực sự không muốn một đất nước, vốn là nguồn gây ra một số kiểu đe dọa kéo dài. Tuy nhiên, đôi khi  đó chỉ là thế giới mà bạn phải sống, bởi vì thực sự loại bỏ hoàn toàn mối đe dọa thì quá tốn kém”. Ông nhìn thấy một tương lai mà Ukraine đồng ý ngừng bắn và sau đó dần dần biến mình thành một “con nhím quân sự”, một quốc gia gai góc mà không ai muốn xâm lược. Reiter nói: “Các quốc gia quy mô trung bình có thể tự bảo vệ mình ngay cả trước những kẻ thù rất nguy hiểm. Ukraine có thể tự làm cho mình trở nên dễ phòng thủ hơn trong tương lai, nhưng nó sẽ trông rất khác với tư cách một quốc gia và một xã hội so với trước khi xâm lược“. Nó sẽ giống Israel hơn, với thuế cao, chi tiêu quân sự và nghĩa vụ quân sự bắt buộc kéo dài. Reiter nói: “Nhưng Ukraine có thể bảo vệ được. Họ đã chứng minh điều đó“.

Goemans cảm thấy lo lắng hơn. Một lần nữa, những suy nghĩ của anh lại đưa anh đến với Thế chiến thứ nhất. Năm 1917, Đức không còn hy vọng chiến thắng, quyết định đánh cược để phục sinh. Nó giải phóng vũ khí bí mật của mình, chiếc tầu ngầm U-boat, để tiến hành các hoạt động không giới hạn trên biển cả. Rủi ro của chiến lược này là nó đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến; hy vọng rằng nó sẽ bóp nghẹt Vương quốc Anh và dẫn đến chiến thắng. Theo cách nói của Goemans, đây là một chiến lược “có phương hướng sai cao”, nghĩa là nó có thể dẫn đến một phần thưởng lớn hoặc một tai họa lớn. Trong trường hợp này, nó đã dẫn đến việc Hoa Kỳ tham chiến và đánh bại Đức, và việc Kaiser bị loại khỏi quyền lực.

Trong tình huống này, vũ khí bí mật là hạt nhân. Và việc sử dụng nó mang theo rủi ro, một lần nữa, thậm chí còn lớn hơn sự tham gia của Hoa Kỳ vào cuộc chiến. Nhưng ít nhất nó cũng có thể tạm thời ngăn chặn bước tiến của Quân đội Ukraine. Nếu được sử dụng hiệu quả, nó thậm chí có thể mang về một chiến thắng. Goemans nói: “Mọi người rất vui mừng về sự sụp đổ của mặt trận. Nhưng đối với tôi, nó giống như, ‘Ah-h-h!’” Vào thời điểm đó, Putin thực sự sẽ bị mắc kẹt.

Hiện tại, Goemans vẫn tin rằng khó có thể xảy ra lựa chọn hạt nhân. Và ông ấy tin rằng Ukraine sẽ chiến thắng trong cuộc chiến. Nhưng điều đó cũng sẽ mất nhiều thời gian, với cái giá phải trả là hàng trăm ngàn sinh mạng.

Mối quan hệ của Trung Quốc với Nga và cuộc chiến ở Ukraine (Phần I)

BPB

Sabine Peschel phỏng vấn Zhang Yunhua

Thục Quyên phỏng dịch

13-10-2022

Zhang Junhua sinh năm 1958 tại Thượng Hải, là Phó Giám đốc cấp cao tại Viện Nghiên cứu Châu Âu về Châu Á ở Brussels, Giám đốc điều hành của Trung tâm Phát triển và Chuyển đổi Châu Á ở Berlin, và là giáo sư thỉnh giảng tại Freie Universität Berlin. Ông học triết học và lấy bằng tiến sĩ ở Frankfurt am Main.

Thay đổi tư duy, dễ hay khó?

Từ Thức

13-9-2022

Trong một bài trước (Tại sao, 47 năm sau, vẫn chưa có thay đổi ở Việt Nam?) (1), người viết đã đặt câu hỏi: Tại sao, sau gần nửa thế kỷ, một chế độ kỳ quái là chế độ Cộng Sản (CS) vẫn ngự trị trên đầu gần 100 triệu người, ở thế kỷ 21?

Cuộc chiến tại Ukraine có mang lợi ích cho Trung Quốc?

Table China

Tác giả: Marina Rudyak Silas Dreier

Thục Quyên phỏng dịch

7-9-2022

Từ lâu, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình chưa từng phải chịu nhiều áp lực trong những ngày cận đại hội đảng (lần thứ 20) như hiện nay. Căng thẳng chung quanh Đài Loan đòi hỏi ông phải có hành động mang tính biểu tượng, thí dụ như về mặt kinh tế nắm được ngành công nghiệp bán dẫn của Đài Loan sẽ là một chiêu hấp dẫn. Tuy nhiên, một cuộc xâm lược hòn đảo này, dù lý do là chất bán dẫn hay động cơ chính trị, cũng sẽ gây ra hậu quả nặng nề cho Trung Quốc.

Bước qua lời nguyền – Tiến hành dự án đập Stung Treng là hủy diệt môi sinh

Ngô Thế Vinh

12-10-2022

Gửi 20 triệu cư dân ĐBSCL không được quyền có tiếng nói

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

Lời Dẫn Nhập: Năm 2020, đã có một lúc bao nhiêu triệu cư dân vùng hạ lưu sông Mekong thở phào nhẹ nhõm khi nghe tin Bộ Điện Lực Cam Bốt tuyên bố hoãn mọi dự án thuỷ điện trên sông Mekong trong 10 năm tới [1], như vậy là ít nhất có một thời kỳ dưỡng thương cho dòng sông bị đầy những vết cắt do chuỗi đập thuỷ điện của Trung Quốc và Lào phía thượng nguồn.

Nhưng rồi mới đây, chỉ hai năm sau, năm 2022, là một tin chấn động khác: Phnom Penh tuyên bố cho tái phục hoạt / resurrection dự án thủy điện Stung Treng 1.400 MW trên dòng chính sông Mekong, phía đông bắc Cam Bốt, sát ranh giới với Lào. Dự án này không chỉ sẽ tàn phá sinh cảnh các khu đất ngập được bảo vệ bởi Công ước Ramsar ký kết từ năm 1971, mà còn gây tác hại vô lường trên hai vùng châu thổ phì nhiêu Tonlé Sap và ĐBSCL. Đây là bài đầu tiên trong loạt 3 bài viết nhìn lại toàn cảnh cuộc hành trình gian truân của một dòng sông – Sông Mekong hơn nửa thế kỷ qua.

***

MEKONG SẼ KHÔNG XÂY THÊM ĐẬP THUỶ ĐIỆN MỚI

Tổng Giám đốc Điện Lực Cam Bốt, Keo Rattanak đã nói với các phóng viên báo chí tại tòa nhà Hội đồng Bộ trưởng ở Phnom Penh ngày 8/8/2019.

Cam Bốt không có kế hoạch xây các đập thủy điện trên dòng chính Sông Mekong mặc dù vẫn để các nhóm nghiên cứu khảo sát tiềm năng của các dự án. Chúng tôi không bàn cãi về bất cứ đầu tư nào trong lãnh vực này,” Rattanak nói tiếp. “Như vậy, quý vị không phải quan tâm về vấn đề này. Chúng tôi sẽ cố gắng đáp ứng nhu cầu điện theo những phương thức khác.[1]

 Cam Bốt phải đối đầu với tình trạng thiếu điện trầm trọng, với các khu dân cư hàng ngày bị cúp điện cùng với giá điện tăng. Thủ tướng Hun Sen nói sẽ gửi ông Rattanak đi Thổ Nhĩ Kỳ mua một con tàu phát điện (Power ship 200 MW) để bù đắp. Chính phủ cũng cố gắng gia tăng sản xuất điện mặt trời để đáp ứng nhu cầu điện cho cư dân.

Hem Odom, một chuyên viên tham vấn độc lập về nguồn năng lượng thiên nhiên, đã hoan nghênh phát biểu của ông Rattanak, với cảnh báo về một con đập dòng chính sông Mekong sẽ gây những tổn thất rộng lớn, với xói lở hai bên bờ sông, cạn kiệt nguồn cá cũng là nguồn protein trong bữa ăn hàng ngày của người dân Cam Bốt. Không phải chỉ có Cam Bốt, mà cả Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Thiếu nước từ thượng nguồn sông Mekong và từ Biển Hồ, nước mặn xâm nhập vào ĐBSCL sâu và xa hơn.”

TIN TỐT ĐẸP CHO SÔNG MEKONG

World Wildlife Fund (Quỹ Đời Sống Hoang Dã Thế giới) đã vui mừng khi nghe được bình luận mới đây của Ngài Keo Rattanak, Tổng Giám đốc Điện lực Cam Bốt, rằng ông không muốn thấy hai dự án thủy điện dòng chính sông Mekong Sambor và Stung Treng được có trong quy hoạch năng lượng từ nhiều nguồn / mix energy.

Bình luận trên được phát trong chương trình truyền hình hội thảo “Tầm nhìn Năng lượng” ở Phnom Penh do Phòng Thương mại Hoa Kỳ tổ chức và được vui mừng đón nhận do giá trị vô hạn của một dòng chảy tự do trên sông Mekong đối với hàng triệu cư dân Cam Bốt đang sống phụ thuộc vào con sông, với lượng cá bắt được là nguồn protein chính của họ.

Sông Mekong là định hình địa lý của đất nước Cam Bốt. Chảy xuống từ biên giới Nam Lào, và cuối cùng thì đổ vào ĐBSCL của Việt Nam qua hai nhánh: sông Tiền, và sông Bassac – có tên là sông Hậu khi vào Việt Nam. Sông Mekong cũng là nguồn cá nước ngọt lớn nhất thế giới. Vùng đất ngập Ramsar thuộc tỉnh Stung Treng cũng là nơi cư trú của các chủng loại cá vô cùng hiếm quý như Irrawaddy Dolphin và Pla Beuk chỉ có trên sông Mekong và đang có nguy cơ bị tuyệt chủng.

Cho tới hiện nay, khúc sông Mekong hạ lưu phía Nam Lào còn chảy tự do. Nếu Cam Bốt xây đập lớn ngăn chặn bất cứ ở khúc đoạn nào cũng sẽ gây những rối loạn về thủy học và hủy hoại của cả một hệ sinh thái không thể đảo nghịch, và cũng là thiết yếu cho sự sống còn của Biển Hồ với con sông Tonlé Sap chảy hai chiều theo mùa mỗi năm.

Những dòng sông thoáng chảy đem tới những lợi ích quan trọng từ hệ sinh thái. Dòng sông bảo dưỡng nguồn cá nước ngọt bảo đảm an toàn lương thực cho hàng triệu cư dân, đem phù sa màu mỡ cho canh nông và cả ngăn ngừa tổn thất các cơ sở hạ tầng và đất đai do sạt lở.

Thay vì xây những con đập khổng lồ như Stung Treng và Sambor, Cam Bốt nên chú tâm tới nguồn năng lượng tái tạo bền vững như năng lượng mặt trời và điện gió. Những trại điện mặt trời có thể được xây dựng nhanh chóng, với giá thành rẻ hơn và tác động môi sinh rất ít. Trong khi những con đập thủy điện khổng lồ thì cực đắt và tốn kém, mà còn đưa tới hậu quả hủy hoại nguồn cá, sự đa dạng sinh học và đời sống cộng đồng.

Một dòng sông thoáng chảy sẽ giúp cho hàng triệu cư dân vốn sống phụ thuộc vào con sông ấy tiếp tục duy trì cuộc sống ổn định, với sự đa dạng sinh học của dòng sông, để phát triển lợi ích cho những thế hệ tương lai… Teak Seng, WWF Cambodia director.

MỚI HAI NĂM MÀ ĐÃ BƯỚC QUA LỜI NGUYỀN

Dự án Đập Stung Treng 1.400 MW trên dòng chính sông Mekong đang ngủ yên bấy lâu, thì nay 2022 lại được phục sinh (resurrection), khiến các cộng đồng cư dân trong lưu vực hết sức lo ngại, và cả giới bảo vệ môi sinh vô cùng ngỡ ngàng.

Ngày 29/12/2021, chỉ ba ngày trước khi bước sang năm 2022, Nhóm Hoàng Gia / Royal Group thuộc Tập đoàn (Conglomerate) tài phiệt lớn và thanh thế nhất của Cam Bốt đã viết thư cho chính phủ Phnom Penh xin phép cho họ được nghiên cứu trong vòng 6 tháng tính khả thi (feasibility) của con đập thủy điện Stung Treng. Yêu cầu trên đã được Bộ trưởng Năng lượng và Hầm mỏ Cam Bốt chấp thuận, và tỉnh trưởng Stung Treng Svay Sam Eang cũng đã ra lệnh cho các giới lãnh đạo quận hạt hợp tác với Nhóm Nghiên cứu và Phát triển SBK được Nhóm Hoàng gia thuê mướn. [1]

Vị trí nghiên cứu để xây con đập thủy điện lớn nhất xứ Chùa Tháp nằm trên các vùng đất ngập (wetlands) tỉnh Stung Treng phía đông bắc Cam Bốt được bảo vệ bởi Công ước Ramsar 1971 – một Công ước mà chính Cam Bốt cũng đã đặt bút ký cam kết tuân thủ từ 1999.

Dự án thủy điện Stung Treng đã có từ năm 2007 nhưng đã phải khựng lại do bị các tổ chức bảo vệ môi sinh chỉ trích mạnh mẽ vì những tác động hủy hoại rộng lớn trên môi trường và cả sinh kế của người dân Cam Bốt.

Đến nay 2022, dự án ấy lại được Nhóm Hoàng Gia Cam Bốt phục hoạt – mà ai cũng biết Royal Group là một nhóm tài phiệt của chính quyền Phnom Penh, đã từng đứng sau dự án thủy điện Hạ Sesan-2 (Lower Sesan-2) trên một phụ lưu lớn nhất của sông Mekong đã từng gây tai tiếng trong các cộng đồng cư dân trong lưu vực.

Khu đất ngập Ramsar tỉnh Stung Treng chiếm một diện tích 14.600 hectares, trải dài 40 km lên tới phía bắc nơi con sông phụ lưu Sekong đổ vào sông Mekong, ngay sát với biên giới Cam Bốt và Nam Lào. Đây cũng là sinh cảnh (habitats) cuối cùng còn sống được cho các loài cá hiếm quý và rất nhiều loài chim nước đang có nguy cơ tuyệt chủng.

VÙNG XÂY CON ĐẬP STUNG TRENG:

Năm 2007 nhóm Bureyagesstroy thuộc tập đoàn Thủy điện nhà nước Nga (RusHydro) tham gia cuộc nghiên cứu xây đập Stung Treng, nhưng chỉ hai năm sau, công ty Nga này bỏ cuộc. Và rồi Công ty quốc doanh Sông Đà của Việt Nam nhảy vào thay thế. Kết quả của các cuộc nghiên cứu ấy đã gây ra rất nhiều chỉ trích gay gắt nên dự án Stung Treng phải gác lại. [1]

Tới năm 2012, cuộc khảo sát của Viện Nghiên cứu và Phát triển Ngư nghiệp Nội đảo (Inland Fisheries Research and Development Institute)

thuộc Bộ Ngư nghiệp Cam Bốt nhận thấy con đập Stung Treng sẽ làm giảm lượng thủy sản xuống tới 24% vào năm 2030. Và các nhà nghiên cứu đã cảnh báo con đập Stung Treng có thể gây tình trạng suy dinh dưỡng và ảnh hưởng tới sức khỏe của các cộng đồng cư dân nghèo.

Hình 1: trên, sơ đồ khu đất ngập trong tỉnh Stung Treng, nơi Nhóm Hoàng Gia dự trù sẽ xây con đập thủy điện 1.400 MW; dưới: cảnh quan của vùng đất ngập Stung Treng. Nguồn: Gerald Flynn / Mongabay [1]

Tháng 10/2017 Thủ Tướng Hun Sen đã đến Stung Treng chủ trì lễ khánh thành đập thủy điện Hạ Sesan-2 công suất 400 MW với diện tích hồ chứa 340 km2 gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singapore do Công ty HydroLancang của Trung Quốc nắm 51% cổ phần, Nhóm Hoàng gia Cam Bốt 39% và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) 10%.

Con đập Hạ Sesan-2 được xem là tệ hại nhất: nó đe dọa sự sinh tồn của hơn 50 chủng loại cá và cũng làm giảm 9,3 % tổng sản lượng cá trong lưu vực [khoảng 200.000 tấn cá/ năm]. Ảnh hưởng tác hại môi sinh đó không chỉ trên lãnh thổ Cam Bốt mà lên xa tới Lào, Thái Lan và xuống tới ĐBSCL, được coi như vựa lúa của Việt Nam.

Năm 2021, Tổ chức Theo Dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) đã ấn hành một hồ sơ dày 137 trang gọi “Hạ Sesan-2 một thảm họa — Lower Sesan-2 a disaster” [1], lên án các nhà xây đập đã vi phạm nhân quyền, chà đạp các cộng đồng cư dân bản địa (indigenous peoples) và con đập đã hủy hoại nguồn cá trên sông Sesan một cách nghiêm trọng, cùng lúc là sự thất bại cả về mục tiêu của sản xuất điện. Chỉ có chính người dân Cam Bốt là phải trả một cái giá quá đắt!

Hình 2: Tưởng cần nói thêm là EVN / Electricity of Vietnam, Công Ty Điện Quốc Doanh Việt Nam cũng đã nhúng tay rất sâu vào dự án Hạ Sesan-2 này ngay từ những bước đầu.

Với những hậu quả tiêu cực đó khiến công ty xây đập Trung Quốc HydroLancang và Nhóm Hoàng Gia thân chính phủ Hun Sen và đã cố gắng tô vẽ sao cho tạo ra được một hình ảnh tích cực về con đập Hạ Sesan-2. Nhưng vẫn có một cơn bão chỉ trích từ các tổ chức NGOs bảo vệ môi sinh đồng loạt lên án dự án đập Hạ Sesan-2 do những than vãn của bao nhiêu chục ngàn cư dân đã phải di dời (resettlements), do hồ chứa đã làm ngập 30,000 mẫu đất vốn là những khu sinh sống trù phú yên ổn và hạnh phúc bấy lâu của bao nhiêu ngàn gia đình qua rất nhiều thế hệ.

Đã từng qua những trải nghiệm đắng cay từ con đập Hạ Sesan-2, nay cư dân sinh sống trong tỉnh Stung Treng đang vô cùng lo ngại khi thấy Nhóm Hoàng Gia trở lại và vẫn với toán Nghiên cứu và Phát triển SBK khảo sát địa chất (geological studies) cho con đập lớn 1.400 MW – thay vì hoãn lại cho tới năm 2030.

Mao Sareth, trưởng khu ngư nghiệp Koh Khan Din, là một nội đảo vùng phía nam khu đất ngập Ramsar, tỉnh Stung Treng đã phát biểu:

“Chúng tôi đã từng phản đối con đập Don Sahong của Lào vì biết rõ nó sẽ tác hại trực tiếp trên cuộc sống của chúng tôi. Nhưng rồi, những phản đối ấy cũng vô ích và chẳng thay đổi được gì. Con đập Don Sahong vẫn cứ hoàn tất. Rồi chúng tôi phản đối con đập Hạ Sesan-2 ngay trong lãnh thổ đất nước chúng tôi và rồi cũng vô ích thôi, con đập ấy vẫn hoàn tất, chỉ có chúng tôi là mất tất cả: mùa màng, thủy sản và sinh kế cuộc sống.” [1]

Ian Baird, gốc Canada là một tên tuổi rất quen thuộc, nhà hoạt động môi sinh, từng sống nhiều năm trên đất Lào, Cam Bốt và là chuyên gia bảo vệ nguồn cá sông Mekong, khi nghe nói về kế hoạch phục hoạt đập thuỷ điện Stung Treng 1.400 MW, Ian Baird nhận định rằng con đập ấy sẽ là một đe dọa nghiêm trọng trên lưu vực sông Mekong.

“Công ước Ramsar quả thật là rất yếu, chính quyền vẫn có thể làm điều mà họ muốn, nhưng nếu so với Việt Nam và Lào, thì Cam Bốt vẫn có quan tâm nhiều hơn tới phản ứng của cộng đồng quốc tế và với Công ước Ramsar. Đó là lý do mà năm 2020, Cam Bốt đã tuyên bố hoãn mọi kế hoạch thủy điện trong 10 năm 2020-2030. Điều mà các quốc gia Mekong khác trong lưu vực không hề làm.

Hình 3: TS Ian Baird, Đại học Wisconsin, nhà hoạt động môi sinh, từng sống nhiều năm trên đất Lào, Cam Bốt và là chuyên gia bảo vệ nguồn cá sông Mekong. Nguồn: Tom Fawthrop

“Có rất nhiều lý do để phải quan tâm ở đây, nếu con đập Stung Treng vẫn cứ tiến hành. Con sông Mekong đang chết bởi hàng ngàn vết cắt / death by a thousand cuts. Tôi đã quan sát trong nhiều năm, và thật là buồn, nhưng nhưng liệu chúng ta sẽ làm được gì?” [1]

VẪN CÓ MỘT LỰA CHỌN TỐT HƠN

Trước một thực tế: Cam Bốt đang thiếu điện, mà giá điện thì rất cao, và thủy điện cũng không hề rẻ. Không những thế, 2 dự án đập dòng chính Stung Treng và Sambor sẽ có tác động hủy hoại môi sinh rất nghiêm trọng trên nguồn nước và nguồn cá trong lưu vực.

Câu hỏi đặt ra là liệu có một lựa chọn nào tốt hơn thủy điện cho đất nước Cam Bốt? Câu trả lời là có, KS Phạm Phan Long đã viết trên tạp chí chuyên ngành PV Magazine (03/12/2019) về tiềm năng điện mặt trời nổi (FSS / floating solar system) của Biển Hồ có thể lên tới 28 GW (tức là 28.000 MW), tức là gấp 20 lần công suất con đập Stung Treng (1.400 MW), với giá thành cho kwh rẻ hơn, không kể cái giá môi sinh phải trả với thủy điện. Dự án FSS này có thể được thực hiện qua nhiều giai đoạn trên một phần mặt Biển Hồ với một mạng lưới tải điện thông minh (smart grid) sẽ có khả năng giải quyết nhu cầu năng lượng điện sạch, là một ưu điểm với “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” – một ưu đãi thiên nhiên mà đất nước Cam Bốt có được. [3]

Sáng kiến dự án mặt trời nổi khác trên hồ chứa đập thủy điện phụ lưu Nam Ngum, KS Phạm Phan Long đề xuất công bố trên PV Magazine 01/11/2019 nay đang trở thành một hiện thực qua bản tin của Laotian Times ngày 20/02/2020: “chính phủ Lào đã ký kết với công ty Trung Quốc Hangzhou Safefound Technology để xây dựng giàn điện mặt trời nổi 1.200 MW trên mặt hồ đập Nam Ngum-1 khi hoàn thành có thể coi như lớn nhất thế giới.”

Nếu Phnom Penh cũng như Lào – quyết tâm thực hiện dự án mặt trời trên Biển Hồ, thì 2 con đập Stung Treng và Sambor sẽ vĩnh viễn không cần thiết, mà FSS còn bảo đảm sinh kế cho hơn 30 triệu cư dân sống trong hai vùng châu thổ Tonlé Sap và ĐBSCL Việt Nam. Nhưng đến bao giờ?

KHỞI ĐẦU CHO MỘT KẾT THÚC: MỘT NHÌN LẠI

Sự kiện Phnom Penh bước qua lời nguyền, cho phục sinh dự án đập Stung Treng 1.400 MW, sẽ là con đập dòng chính đầu tiên và lớn nhất trên sông Tonle Thom (tên Khmer của con sông Mekong) trong lãnh thổ Cam Bốt, như một hồi chuông báo động cho giới bảo vệ môi sinh, họ coi như đây là bước “khởi đầu cho một kết thúc” đối với hệ sinh thái trong Lưu Vực Dưới sông Mekong (Lower Mekong Basin).

Đây cũng chính là lúc để chúng ta ÔN CỐ TRI TÂN, nhìn lại cuộc hành trình gian truân hơn nửa thế kỷ của một dòng sông, là mạch sống (lifeline) của hơn 70 triệu cư dân sống ven sông trong lưu vực.

NHỮNG CON ĐẬP LANCANG-MEKONG

Vậy mà đã 65 năm từ khi Liên Hiệp Quốc khai sinh Ủy Ban Sông Mekong 1957 (Mekong River Committee) cùng với các dự án đập thủy điện trên sông Mekong đã có rất sớm, nhưng rồi các dự án ấy bị gác lại do cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài và lan ra cả 3 nước Đông Dương, sau chiến tranh thì là mối e ngại về tác hại rộng rãi của các con đập ấy trên môi sinh.

Có thể nói, trước thập niên 1970, Mekong vẫn còn là một con sông hùng vĩ và hoang dã, lớn thứ ba Châu Á, chảy qua 7 quốc gia kể cả quốc gia Tây Tạng* (Tây Tạng về phương diện địa dư chính trị, bấy lâu người viết vẫn ghi nhận như một quốc gia cho dù đang bị Trung Quốc xâm chiếm), với nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú, chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon Nam Mỹ.

Với chiều dài 4.800 km, Mekong là con sông lớn thứ 11 của thế giới,
với tiềm năng thủy điện khoảng 60.000 MW, chia ra như sau:

_ 28.930 MW cho Lưu Vực Trên sông Mekong (Upper Mekong Basin) hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Trung Quốc;

_ 30.000 MW cho Lưu Vực Dưới (Lower Mekong Basin) nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc, chảy qua 5 quốc gia Myanmar, Lào, Thái Lan, Cambodia và Việt Nam.

Nhưng cho tới nay, do nhu cầu năng lượng điện ngày càng gia tăng cho phát triển, con sông Mekong ấy đã và đang bị hàng ngàn “vết cắt” do vô số những con đập thủy điện trên dòng chính và khắp các phụ lưu, từ bắc xuống nam với một chuỗi những hậu quả tiêu cực như sau:

1/ _ Các Hồ Chứa Thủy Điện Giữ Lại Hơn 75 tỉ m3 Nước:

Kỹ sư Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation – người đã theo dõi và lên tiếng bảo vệ sông Mekong rất sớm từ thập niên 1990, đã làm một kết toán về dung tích tổng cộng (total storage) chuỗi hồ chứa đập thủy điện hiện nay – kể cả các hồ chứa đập phụ lưu (tributary dam reservoir) trong lưu vực sông Mekong với kết quả là: tổng số dung tích lên tới 75 tỉ mét khối (m3), chiếm 16% lưu lượng trung bình hàng năm của sông Mekong,[2] lượng nước lưu trữ và tỉ lệ so với từng nước góp vào sông Mekong như sau:

_ Trung Quốc chiếm phần lớn nhất 43 tỉ mét khối (56%),

_ Lào 25 tỉ mét khối (15%),

_ Thái Lan 5 tỉ mét khối (6%)

_ Cam Bốt 1.8 tỉ mét khối (2%)

_ Việt Nam chỉ có 1 tỉ mét khối (1.5%).

Hình 4a (trái), những đập thủy điện dòng chính Sông Mekong: 11 con đập trên sông Lancang-Mekong Vân Nam, TQ đã lưu trữ 43 tỉ m3 nước, sản xuất 21.300 MW điện; riêng Lào đang hiện thực giấc mơ trở thành “Bình điện Á Châu / Asia’s Battery”, với 9 đập thủy điện dòng chính và vô số đập phụ lưu. Lào cũng lưu trữ 25 tỉ m3 nước. Riêng con đập Luang Prabang 1.410 MW do công ty quốc doanh PetroVietnam là chủ đầu tư. [nguồn: Michael Buckley, Ngô Thế Vinh cập nhật và ghi chú].

Hình 4b (phải), vùng xám là Lưu Vực Lớn Sông Mekong [GMS / Greater Mekong Subregion] diện tích: 795.000 km2, chiều dài chính: 4.400 km, dòng chảy trung bình: 15.000 m3 /giây. [nguồn: MRC Secretariat 2000].

Không phải chỉ có lượng nước, còn thêm các yếu tố quan trọng hơn nữa là phương thức vận hành (operation) và điều tiết (regulation) của các con đập ấy. Do lấy nước vào các hồ chứa trong mùa mưa nên đã làm suy yếu dòng chảy của con sông Mekong, triệt tiêu sức mạnh của nhịp lũ (flood pulse), để tạo được dòng chảy ngược (reverse flow) trên con sông Tonlé Sap đưa nước vào Biển Hồ, vốn là một hồ chứa nước ngọt thiên nhiên lớn nhất thế giới – như một trái tim điều hòa và tiếp máu cho hai vùng châu thổ Tonlé Sap của Cambodia và ĐBSCL Việt Nam. [2]

Với hậu quả nhãn tiền là: thời điểm con sông Tonlé Sap chảy ngược vào Biển Hồ không những đến trễ hơn 3 tháng (2019) và cũng chấm dứt sớm hơn, chỉ còn có 3 tháng thay vì 5 tháng như trước đây. Rừng lũ / floodforest thiếu lũ và cá không đủ thời gian để vào đẻ trứng và tăng trưởng… Cho nên các mùa thu hoạch cá chưa bao giờ thấp đến như vậy.

Hình 5: (1) Thời kỳ trước đập (Pre-Dam Period): Diện tích Biển Hồ co giãn theo hai mùa Mưa Nắng: Mùa Khô (trái) là hồ cạn chỉ với diện tích 2.500 km2; Mùa Mưa (phải), từ tháng 5 đến tháng 9, do nước sông Mekong dũng mãnh đổ về, con sông Tonlé Sap đổi chiều, chảy ngược vào Biển Hồ làm nước hồ dâng cao hơn từ 8 tới 10 mét và tràn bờ và làm ngập các khu Rừng Lũ / flooded forest, diện tích Biển Hồ tăng gấp 5 lần hơn, khoảng 12.000 km2. (2) Thời kỳ sau đập (Post-Dam Period): do các hồ chứa thượng nguồn lấy nước vào mùa mưa, lưu lượng dưới nguồn bị giảm mạnh, sông Mekong mất nhịp lũ / flood pulse, khiến cho con sông Tonlé Sap không còn duy trì được dòng chảy ngược, Biển Hồ thiếu nước, thiếu phù sa, thiếu cá – được ví như một trái tim thiếu máu… ảnh hưởng tới hàng triệu cư dân sống trên hai vùng châu thổ Tonlé Sap và ĐBSCL. [nguồn: bản đồ Tom Fawthrop; ghi chú Ngô Thế Vinh].

Từ 15 năm qua diện tích Biển Hồ ngày càng bị thu hẹp; ước tính lượng nước từ sông Mekong thượng (upper Mekong) đổ vào Biển Hồ đã giảm mất 30 tỉ m3/ năm – ảnh hưởng trầm trọng tới nguồn nước, nguồn cá và cả thiếu phù sa là nguồn phân bón thiên nhiên thiết yếu cho đất đai nông nghiệp.

Ngày Hội Nước Sẽ Trở Thành Quá Khứ: Không biết từ bao lâu rồi, Lễ Hội Nước Bon Om Tuk có lẽ có từ thời vua Jayavarman VII thế kỷ thứ XII, người có công xây dựng khu đền đài Angkor như một kỳ quan của thế giới, và từ đó cứ hàng năm, khi vừa hết Mùa Mưa, mực nước sông Mekong bắt đầu ổn định và con sông Tonlé Sap lại chảy xuôi dòng đem theo vô số tôm cá từ Biển Hồ đổ vào các nhánh sông Mekong, xuống xa tới ĐBSCL. Đây cũng là thời điểm của Ngày Hội Nước được tính theo tuần trăng vào khoảng tháng 11 diễn ra trước Hoàng Cung, nơi bốn nhánh sông Mekong hội tụ, khu mà người Pháp gọi là Quatre Bras*. Trong dịp lễ hội này, vua và hoàng hậu tới đây chung vui với thần dân, và “Khai Mùa” cho ngư dân đánh cá, cho nông dân bắt đầu mùa gieo trồng.

[*Quatre Bras, tiếng Pháp là bốn cánh tay, tên Khmer là Chatomuk, là nơi hội tụ của 4 nhánh sông: nhánh thứ nhất từ thượng nguồn là sông Mekong Thượng (1), tới Phnom Penh chia làm hai nhánh: Mekong Hạ (2) và sông Bassac (3) là cánh tay thứ hai và thứ ba, cũng là sông Tiền và sông Hậu khi chảy vào Việt Nam, còn cánh tay thứ tư là con sông nước ngọt Tonlé Sap (4) bắt nguồn từ Biển Hồ. Đây cũng là nơi diễn ra Ngày Hội Nước Bon Om Tuk vào khoảng tháng 11 hàng năm trước Hoàng Cung.]

Nhưng rồi những năm gần đây, theo tin báo Phnom Penh Post [31/10/2015] TT Hun Sen một lần nữa đã phải ký sắc lệnh huỷ bỏ ngày Lễ Hội Nước dự trù tổ chức vào ngày 24 tới 26 tháng 11 “do mực nước sông quá thấp và tình trạng hạn hán mà Vương quốc Cam Bốt đang phải đối đầu.” Đây là lần thứ tư trong vòng 5 năm chính phủ Hun Sen đã phải hủy bỏ Lễ Hội Nước truyền thống hàng năm, thường tụ hội hàng mấy trăm ngàn người đổ về thủ đô Nam Vang để tham dự lễ hội đua thuyền trên sông Tonlé Sap.

Như một nhịp điệu có từ ngàn năm, với con Sông Tonlé Sap chảy hai chiều một hiện tượng thiên nhiên được coi như kỳ quan của thế giới, rồi ra sẽ không còn nữa và trở thành truyện cổ tích cho các thế hệ mai sau của đất nước Khmer.

2/ _ Các Hồ Chứa Cắt Giảm Hơn 65% Lượng Phù Sa:

Trước năm 1992 khi chưa có nhiều thủy điện, trung bình hàng năm qua hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, sông Mekong đổ ra Biển Đông 166.7 Mt/ năm phù sa ((Mt/ Megatone: triệu tấn)), từ năm 1993 do các hồ chứa trên thượng nguồn đã chắn giữ lại một số lượng lớn phù sa, tới thời điểm 2020, lượng phù sa ấy đã giảm xuống chỉ còn 57.6 Mt/ năm, giảm 65% và tới năm 2040 có lẽ sẽ không còn lượng phù sa đáng kể nào từ con sông Mekong đổ ra biển.[4]

Tình trạng ngăn chặn phù sa trong các hồ chứa không chỉ làm mất nguồn dinh dưỡng cho đất; dòng chảy “đói phù sa” (hungry water) còn gây ra “một tiến trình đảo ngược”, thay vì vùng châu thổ ĐBSCL được bồi đắp thêm đất thì nay dòng chảy lại nạo vét sỏi cát phù sa dưới lòng sông (riverbed incision), gây xói mòn sạt lở suốt dọc hai bên bờ sông và cả các vùng đất duyên hải. Hậu quả là một ĐBSCL đang mất đất, và mũi Cà Mau thì đang bị cắt lẹm mỗi năm. Theo ước tính của TS Lê Anh Tuấn, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Biến Đổi Khí Hậu Đại học Cần Thơ thì mỗi năm ĐBSCL đã mất đi hơn 600 hectares đất do sạt lở. Và do không có dòng chảy mạnh với phù sa để chắn sóng, khiến nước biển ngày càng lấn sâu và xa thêm vào trong đất liền.

3/ _ Lượng Nước Quan Trọng Từ Các Phụ Lưu Sông Mekong

Nước sông Mekong không chỉ từ nguồn tuyết tan trên Cao nguyên Tây Tạng, mà phần nước từ các phụ lưu đổ vào cũng rất quan trọng. Theo tường trình từ Ủy Hội Sông Mekong (MRC) thì tỉ lệ trung bình hàng năm phần góp nước từ các phụ lưu theo mỗi quốc gia như sau:

Trung Quốc 16%, Lào là lớn nhất 35%, rồi tới Thái Lan 18%, Cambodia 18%, Việt Nam 11%, Myanmar là ít nhất 2%.

Mối Hiểm Nguy Mạng Lưới Đập Phụ Lưu: Nam Ngum 150 MW có thể được xem là con đập thủy điện phụ lưu đầu tiên của Lào và được hoàn tất rất sớm 1971 giữa giông bão của cuộc chiến tranh Việt Nam.

Trước khi Lào và Cambodia có kế hoạch thực hiện dự án 12 con đập dòng chính hạ lưu, thì Lào, Cambodia, Việt Nam, Thái Lan đã và đang liên tục xây những đập phụ lưu. Thái Lan với đập Pak Mun 136 MW (1994) trên sông Mun, Việt Nam với con đập Yali Falls 720 MW (1996) cùng với các con đập phụ lưu khác trên sông Sesan và Seprok trên Cao nguyên Trung phần, Lào thì từ sau con đập Nam Ngum (1971), đã xây thêm nhiều con đập phụ lưu khác như: Nam Theun-Hinboun 210 MW trung Lào, Nam Leuk 60 MW trong vùng Bảo tồn Sinh thái tỉnh Vạn Tượng, Nam Theun 2 lớn nhất 900 MW trung Lào, Houay Ho 150 MW giữa hai tỉnh Champassak và Attapeu nam Lào, Xe Pian-Xe Namnoy 438 MW trên cao nguyên Bolovens đông nam Lào, Xe Kaman 1.468 MW tỉnh Attapeu cực đông nam.

Việt Nam tuy đứng hàng thứ 5 trong 6 nước, nhưng cũng đã xây những đập thủy điện trên khắp các phụ lưu sông Mekong trên Cao nguyên Trung phần; Việt Nam còn là một thành viên đầu tư vào dự án Mekong của Lào và Cam Bốt như vậy, Việt Nam không phải là hoàn toàn vô can, “bàn tay cũng đã tự nguyện nhúng chàm” góp phần trực tiếp gây biến đổi lưu lượng và cả sút giảm phù sa trên dòng chính con sông Mekong.

Cùng với các con đập dòng chính Mekong, mạng lưới những con đập phụ lưu cũng có ảnh hưởng tích lũy đáng kể đối với tình trạng dòng chảy, lượng phù sa và nguồn cá lưu vực sông Mekong.

Hình 6: Nam Ngum, con đập phụ lưu đầu tiên của Lào, biểu ngữ giăng ngang con đập đánh dấu 25 năm thống nhất nước Lào. Hiện đang có một dự án độ phá trên mặt hồ đập Nam Ngum-1, xây dựng giàn điện mặt trời nổi 1.200 MW nếu hoàn thành sớm có thể coi như lớn nhất thế giới.” Photo by Ngô Thế Vinh 2000.

Đập Phụ Lưu Hạ Sesan-2: Cùng với các con đập dòng chính Mekong, mạng lưới những con đập phụ lưu – điển hình là con đập phụ lưu Hạ Sesan 2 (Lower Sesan 2) đã có ảnh hưởng tích lũy đáng kể đối với tình trạng dòng chảy, lượng phù sa và nguồn cá lưu vực sông Mekong.

Con đập phụ lưu Hạ Sesan 2 gây ảnh hưởng nghiêm trọng hơn cả do nằm dưới điểm hợp lưu của hai con sông Sesan và Srepok. 3S là tên hệ thống 3 con sông phụ lưu lớn sông Mekong: Sekong, Sesan, Srepok cùng đổ vào dòng chính sông Mekong nơi tỉnh Stung Treng, đông bắc Cam Bốt.

Đập Hạ Sesan 2 với chiều cao 75 m, diện tích hồ chứa 340 km2 (gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singapore), công suất 400 MW. Điện Lực Việt Nam (EVN/ Electricity of Vietnam) đã góp 10% cổ phần trong số 816 triệu MK, phần còn lại là của Nhóm Hoàng Gia Cam Bốt (Cambodia’s Royal Group) và Công ty Năng lượng Lan Thương Trung Quốc (HydroLangcang International Energy Co., Ltd). Lại vẫn Trung Quốc, ngoài chuỗi đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam, nay cánh tay TQ nối dài xuống xa tới cả những con đập phụ lưu hạ nguồn.

Hình 7: Mạng Lưới 3S, ba sông phụ lưu: Sekong, Sesan, Srepok cùng hội tụ đổ vào dòng chính sông Mekong. Nguồn: Decarboni

Hình 8: Công ty quốc doanh Điện Lực Việt Nam (EVN / Electricity of Vietnam) cũng chung sức xây đập thuỷ điện Hạ Sesan 2 như hành động cầm súng bắn vào chân mình [nguồn: Decarboni]

Cư dân Cam Bốt sống trong vùng xây đập Hạ Sesan 2 đã cùng với Nhóm Bảo vệ 3 Dòng Sông (3S Rivers Protection Network), đã viết thư lên Quốc Hội Cam Bốt phản đối con đập, và họ cũng kéo nhau lên tới thủ đô Phnom Penh biểu tình tạo áp lực nhưng đã không đưa tới một kết quả nào.

Trước những tác hại hiển nhiên của con đập Hạ Sesan 2 trên ĐBSCL: biến đổi dòng chảy, mất nguồn nước, mất nguồn phù sa và cá… Việt Nam không những đã không có tiếng nói ngăn chặn phản đối mà còn góp vốn cho Cam Bốt thực hiện dự án tai hại ấy, có thể ví như một hành động cầm súng tự bắn vào chân mình / shoot oneself in the foot.

Nguồn Nước Sông Mekong Theo Mùa: nếu tính theo mùa, thì vào mùa khô do tuyết tan nhiều hơn trên Cao nguyên Tây Tạng, lượng nước từ khúc sông Lancang-Mekong Vân Nam đổ qua Lào xuống tới Vạn Tượng chiếm tới 80%, và xuống tới tỉnh Kratié đông bắc Cambodia là tới 40%. [2]

Khi Trung Quốc hoàn tất 11 con đập dòng chính trên khúc sông Lancang-Mekong, và chỉ riêng với hai con đập lớn nhất như hai con khủng long Nọa Trác Độ (Nuozhadu, 2014) 5.850 MW với hồ chứa lớn nhất và Tiểu Loan (Xiaowan, 2010) 4.200 MW là con đập cao nhất – theo Fred Pearce, Đại học Yale, thì “sông Mekong đã trở thành “tháp nước và nhà máy phát điện của Trung Quốc”. Philip Hirsch, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu sông Mekong Đại học Sydney đưa ra nhận định “Hai con đập Nọa Trác Độ và Tiểu Loan sẽ ảnh hưởng trên suốt dòng chảy của con sông Mekong xuống tới tận ĐBSCL của Việt Nam.”

Không thể không kể tới những yếu tố hủy hoại khác từ Trung Quốc: phá những khu rừng nguyên sinh (deforestation); dùng chất nổ dynamite khai thông các khúc sông ghềnh thác, vốn là sinh cảnh (habitats) thiết yếu của các loài cá, ảnh hưởng nghiêm trọng trên sự cân bằng thủy học, gây sụp lở bờ sông cùng phá hủy các loại hoa màu trồng ven sông, với mục đích chỉ để mở rộng lòng sông cho các con tàu lớn Trung Quốc dễ dàng đi xuống phương nam.

Với hơn 40 tỉ mét khối nước dự trữ trong các hồ chứa khổng lồ Vân Nam, Trung Quốc có trong tay thứ “vũ khí nước” đầy quyền lực để giáng cho các nước nhỏ Mekong “những bài học”. Và trong thầm lặng, Trung Quốc đã phát động một “cuộc chiến môi sinh” mà không cần tuyên chiến.

VẪN MỘT ĐIỆP KHÚC NGỤY BIỆN CỦA TRUNG QUỐC

Ngay từ thập niên 1990, khi chỉ mới có con đập dòng chính đầu tiên Mạn Loan (Manwan) 1.500 MW (1993), trong suốt bao nhiêu năm sau đó, như một điệp khúc, các học giả Trung Quốc luôn luôn ngụy biện cho rằng: “Các con đập thủy điện Vân Nam đã giúp tăng dòng chảy trong mùa khô làm giảm hạn nơi các quốc gia hạ nguồn, như vậy các con đập Trung Quốc chỉ có lợi !” [sic]

Đã thế, mà vẫn có những vị khoa bảng người Việt, cũng chỉ dựa trên lý luận thô thiển ấy với con số 16% lưu lượng trung bình/ năm từ khúc sông Lancang-Mekong Vân Nam để bảo rằng tác hại của chuỗi đập thuỷ điện bậc thềm Vân Nam / Mekong Cascades là không đang kể và đừng có đổ lỗi cho Trung Quốc! [sic]

KS Phạm Phan Long, trong một bài viết trên VOA, đã nhận định: “Do Biến đổi Khí Hậu, mưa ít dần nơi lưu vực trên là có thật, nhưng hạn hán tới sớm hơn và khắc nghiệt hơn khi thiếu mưa là do trữ nước vào các hồ chứa thủy điện, chính chúng có khả năng gây ra hạn hán cả khi có mưa, chưa kể vào những năm ít mưa, lại vẫn tích trữ nước gây hạn hán càng thêm kinh khủng.

Hình 9a: Mạn Loan (Manwan) 1.500 MW, là con đập lịch sử, con đập thủy điện dòng chính đầu tiên (1993) trên sông Lancang-Mekong, Vân Nam. Ngô Thế Vinh 09/2002 đứng bên chân con đập Manwan. Hàng chữ Hán phía trên đập: Mạn Loan Điện Xưởng 漫湾电厂 . Tư liệu Ngô Thế Vinh, Việt Ecology Foundation.

Hình 9b: Nọa Trác Độ (Nuozhadu) 5.850 MW, con đập dòng chính lớn nhất (2014) trên sông Lancang-Mekong, Vân Nam. Hàng chữ đỏ bên trái: “Hoa Năng Nọa Trát Độ thủy điện trạm” [Trạm thủy điện Nọa Trát Độ của công ty Hoa Năng / Huaneng Power International, Ltd.”]; Hàng chữ trắng bên phải tấm hình: “Năng nguyên vu thủy — Hữu dung nãi đại” (Khả năng bắt nguồn từ nước — Có sức chứa sẽ thành lớn). [photo by Ying Qiu, International River]

Và như đã phân tích, chuỗi tác hại không đơn giản chỉ có yếu tố nước, [mà nguồn nước ấy cũng rất “bất trắc” do Trung Quốc “tùy tiện” xả ra trong mùa khô từ các con đập thượng nguồn], mà còn phải kể tới những yếu tố “sinh tử” khác như: (1) phá vỡ chu kỳ dòng chảy thiên nhiên của con sông Mekong, (2) triệt tiêu nhịp lũ – flood pulse trong mùa mưa khiến không còn dòng chảy ngược trên con sông Tonlé Sap tiếp nước cho Biển Hồ — cũng là trái tim tiếp máu cho hai vùng châu thổ Tonlé Sap và ĐBSCL, (3) làm mất nguồn phù sa, mất nguồn dinh dưỡng cho đất canh tác, gây sạt lở hai bên bờ sông và cả vùng duyên hải khiến mất đất và diện tích vùng châu thổ ĐBSCL ngày một teo quắt lại, (4) lưu lượng hàng năm trên 2 con sông Tiền sông Hậu ngày một xuống thấp, dòng chảy không còn phù sa tỷ trọng thấp khi đổ ra Biển Đông rất yếu, không có khả năng chắn sóng khiến nạn ngập mặn ngày càng lấn sâu và lấn xa vào vùng châu thổ… Chưa kể tới yếu tố kép: đất lún do lạm dụng khai thác các tầng nước ngầm. Theo Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, tốt nghiệp Đại học Wisconsin, một chuyên gia sinh thái vùng đất ngập (wetlands) đã đưa ra những con số báo động (2017): “Nông thôn vùng sông nước Cửu Long bây giờ toàn xài nước ngầm; có khoảng 1 triệu giếng khoan mỗi ngày rút lên 2 triệu m3/ngày, dùng cho sinh hoạt đủ thứ, vậy nên ĐBSCL đang bị sụt lún nhanh gấp 10 lần nước biển dâng do biến đổi khí hậu.”

Tới tháng 3/2022, theo Tổng Cục Thủy Lợi, việc khai thác nước ngầm nơi ĐBSCL đã tăng lên với 2 triệu giếng khoan, mỗi ngày rút lên 2,5 triệu m3/ngày, và 40% lượng nước ngầm ấy phục vụ cho sinh hoạt, phần còn lại cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.[5]

Từ sau 1975, những dự án trọng điểm của nhà nước CS Việt Nam được cổ xuý là để “cải tạo” ĐBSCL, nhưng thực tế đã chứng minh là gây tác hại nhiều hơn. Đó là những hủy hoại mang tính tích lũy. Và kết luận dễ dàng nhất để rũ bỏ mọi trách nhiệm là đổ lỗi cho Mẹ Thiên nhiên, cho Biến đổi Khí hậu mà không kể tới một những hậu quả tích lũy của những yếu tố nhân tai, do chính con người gây ra do sự vô cảm và chạy theo các nhóm lợi ích của giới cầm quyền Hà Nội.

Hình 10: Với hơn 600 km bờ sông các tỉnh Miền Tây đang bị sạt lở; hình trái, Sông Hậu tỉnh An Giang với nhiều khúc bờ sông bị sạt lở do nhiều yếu tố nhân tai: mất lượng phù sa do hồ chứa nơi những con đập thủy điện thượng nguồn, nạn phá rừng, nạo vét lòng sông khắp nơi để khai thác cát. [VN Express 15.05.2017]; hình phải, bờ Sông Hậu sạt lở nơi huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp. [photo by PanNature VN 2009]

Người dân Việt Nam đang phải chứng kiến một kịch bản ảm đạm, như một cuốn phim quay chậm, một Đồng Bằng Sông Cửu Long còn rất non trẻ đang từ từ tan rã – cùng với cả một nền Văn Minh Miệt Vườn cũng chỉ mới hơn 300 năm tuổi”.

___________

Tham khảo:

1/ Cambodian Mega Dam’s Resurrection on the Mekong “The Beginning of the End”. Gerald Flynn, Nehru Pry,15 Sept. 2022

https://news.mongabay.com/2022/09/cambodian-mega-dams-resurrection-on-the-mekong-the-beginning-of-the-end/?fbclid=IwAR3dt-raRg8Hf0uoUs_5fLBIerjpmr8m_1vWk5c9eAJd_rrKArOvrQIOV_I

2/ Thủy Điện Lancang-Mekong gây khát nước và đói phù sa cho Đồng Bằng Sông Cửu Long cách nào? Phạm Phan Long, PE., Viet Ecology Foundation, 20.03.2020 http://vietecology.org/article/article/2382

3/ Mặt Trời Trên Biển Hồ Cứu Dòng Mekong. Phạm Phan Long, PE, Viet Ecology Foundation, 15.12.2019 http://vietecology.org/article/article/1351

4/ Effects of riverbed incision on the hydrology of the Vietnamese Mekong Delta. Doan Van Binh, et al. First published: 02 January 2021, https://doi.org/10.1002/hyp.14030

5/ Vũ Khí Giải Cứu Sông Mekong: Chất Xám và Tiếng Nói. Phóng viên Môi sinh Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị phỏng vấn BS Ngô Thế Vinh 25/04/2016.

https://quynhmon.wordpress.com/2016/04/25/vu-khi-giai-cuu-mekong-chat-xam-va-tieng-noi/

6/ Ứng phó sụt lún đất ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Tổng Cục Thuỷ Lợi 13/03/2022. http://www.tongcucthuyloi.gov.vn/tin-tong-hop/ung-pho-sut-lun-dat-o-vung-dong-bang-6260 

Nghi án “giết người diệt khẩu” trong vụ án Vạn Thịnh Phát – Trương Mỹ Lan

Mai Hoa Kiếm

12-10-2022

Sau chuyến kinh lý của ông Nguyễn Phú Trọng đến thành Hồ ngày 23-9-2022, đã xuất hiện những tin đồn râm ran về các vụ bắt bớ trong giới kinh doanh có máu mặt của những người Hoa tại Chợ Lớn.

Truyền thống “dám nghĩ, dám nói, dám làm”

Mạc Văn Trang

11-10-2022

Năm 1958 thôn Vũ La quê tôi được trên chỉ đạo xây dựng hợp tác xã nông nghiệp (HTX) điển hình. Úi già, đám cán bộ, đảng viên, thanh niên cứ phấn khởi râm ran, phấn chấn, máu trong người nóng lên rần rật. Quê ta được trên chọn làm điển hình! “Trên” về trực tiếp chỉ đạo thí điểm… “Vui gì hơn làm người lính đi đầu”! (Tố Hữu).

Hoang tưởng phong kiến Đế chế của Putin, đất nước buồn nhất thế giới

NTV

Tác giả: Thomas Schmoll

Việt Hùng, dịch

9-10-2022

Bi kịch của Nga: Nó có thể là một trong những quốc gia đáng sống nhất trên trái đất, cạnh tranh một cách hòa bình với Trung Quốc và Mỹ. Sau đó, những nỗi đau ma quái của sự tự ti mặc cảm về mặt nhận thức sẽ biến mất. Nhưng nó còn cách đây vài năm ánh sáng.

Không một ngày nào trôi qua khi tin tức từ Nga hoặc tuyên bố của Putin và quần thần về các chính sách giết người của họ, không làm bạn lạnh máu. Nhưng cũng có những hình ảnh từ đất nước rộng lớn nhất trên trái đất khiến bạn choáng váng, ví dụ như khi các giáo sĩ rao giảng điều răn của Cơ đốc giáo, rằng bạn không được giết người, để lấy âm hưởng và hương khói ban phước cho binh lính trước khi họ ra trận cho một kẻ thống trị. Tự nhận bản thân là một hoàng đế ở đâu đó giữa Peter Đại đế và Stalin, nhưng thực sự là một kẻ tàn ác.

Putin đã biến đế chế của mình thành đất nước buồn nhất thế giới. Nga là một phiên bản đặc biệt hoàn hảo của một quốc gia thất bại. Nhà nước tuy hoạt động. Nhưng một người cai trị duy nhất và băng đảng của ông ta đã biến ông ta thành con mồi của họ và dựng lên một tòa nhà cai trị thuộc loại được biết đến từ các nước châu Phi. Sự tập trung quyền lực vào Putin đã mang những hình thức
phong kiến. Ngay cả sự hoang tưởng của ông ta về việc mắc bệnh hoặc bị giết cũng phù hợp với hình ảnh của các hoàng đế và các vị vua của những thế kỷ trước. Một cách ngẫu nhiên, cũng là sự vênh váo vô lý khi vị chúa tể của những chiếc bàn dài quá mức, sải bước qua các sảnh lớn trong cung điện của mình, những người lính trong bộ quân phục bắt chước từ thời Nga còn là một đế chế
thực sự chứ không phải chỉ là một nhận thức.

Tất nhiên, ở các nước phương Tây cũng có những cách trình bày kỳ quái tương tự. Tuy nhiên, các chính trị gia (và quốc vương) không quá coi trọng bản thân ở đó và không ăn mừng sự xuất hiện của họ theo cách mà người cai trị trong Điện Kremlin ưa thích. Nếu Putin từng có cảm giác về việc tự đề cao bản thân có vẻ ngớ ngẩn, thì ông ấy đã đánh mất nó. Nếu không ông ta sẽ biết rằng, lòng yêu
nước cường điệu ngày nay nhanh chóng kết thúc trong lĩnh vực trào phúng. Điều này đã được thể hiện trong buổi biểu diễn thôn tính điên cuồng ở Điện Kremlin, khi Putin và các nhà lãnh đạo phe ly khai mà ông đang chỉ đạo đặt tay lên nhau và cổ vũ, với những tiếng la hét “Rossiya”, một hành động vi phạm luật pháp quốc tế.

Trong ảo tưởng về sự vĩ đại

Tuy nhiên, Putin cũng không nhận thấy điều đó. Ông ấy đã thành công trong việc phong tỏa bản thân khỏi những lời chỉ trích và ảnh hưởng từ bên ngoài. Có lẽ Putin có ảo tưởng vĩ đại của mình đến mức thực sự tin rằng hàng triệu người Ukraine đã bỏ phiếu trong các cuộc trưng cầu dân ý để gia nhập Nga. Phải cẩn thận với bệnh lý – nhưng với Putin, có một số bằng chứng cho thấy, ông không còn đến từ thế giới này nữa, mà bị điều khiển bởi những bóng ma não của chính ông, những người liên tục nói với ông: Bạn là người vĩ đại nhất. bạn là hoàng đế.

Làm thế nào mà Darth Wladi có thể nói vô số điều vô nghĩa mà không ngừng lại hoặc phá ra cười. Khi sáp nhập lãnh thổ quốc gia Ukraine, kẻ xâm lược viện dẫn các nguyên tắc của Liên Hiệp quốc về “quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc”. Chúng ta nhớ rằng: Liên Hiệp quốc là thể chế mà Putin coi thường và lạm dụng. “Chúng tôi đang kêu gọi chính quyền Kiev ngừng các cuộc pháo
kích và tất cả các cuộc giao tranh ngay lập tức và quay trở lại bàn đàm phán”
, Putin, lãnh chúa đã từng xâm lược đất nước láng giềng của mình, nói. Kẻ tấn công yêu cầu kẻ bị tấn công ngừng phản công. Đây là chứng điên mà không cần kiểm tra tâm thần để nhận ra.

Có những quốc gia rất đáng buồn khác trên trái đất, nhiều quốc gia trong số họ ở châu Phi, hoặc Afghanistan. Nhưng những quốc gia này, tất cả những cựu thuộc địa của các nước phương Tây, đã có rất ít cơ hội thực sự trong lịch sử gần đây của họ, để lật ngược tình thế theo hướng dân chủ. Không nói đến Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc (tạm thời), Nga đã có cơ hội trở thành một quốc gia hiện đại, mở cửa và bảo tồn bản sắc của mình, xây dựng một nền
công nghiệp hiện đại và sống không chỉ bằng nguyên liệu thô và rượu vodka.

Chủ nhắm về phía Tây phương

Cánh cửa đã mở, để bỏ lại thời kỳ của những người cai trị bị ám ảnh bởi quyền lực và giải quyết tình trạng xung đột đã ảnh hưởng đến nước Nga trong nhiều thập niên: từ chối phương Tây nhưng vẫn muốn càng giống như phương Tây càng tốt. Để cạnh tranh với phương Tây, coi đó là thước đo thành công của chính mình và đồng thời coi thường nó, chắc chắn phải dẫn đến một thử thách, hiện đang
nổ ra trong cuộc chiến chống Ukraine.

Bất cứ ai cho phép chơi punk cũng phải chịu đựng những hình ảnh trông kỳ quặc trong khung cảnh đường phố. Cả hai đều không thể. Và do đó, dần dần có sự lên án mọi thứ tự do đã đến với Nga từ phương Tây. Bối cảnh văn hóa đổi mới vô cùng tốt đẹp như chết, nó chỉ diễn ra trong các ngõ ngách (hoặc ở nước ngoài). Cuối cùng, nhân quyền cũng trở thành nạn nhân của vòng xoáy bạo lực thể
xác và lời nói này. Nhân quyền không có giá trị gì ở đất nước buồn nhất thế giới này, ngoài sự tàn bạo cổ điển. Hãy nhìn người đứng đầu Cộng hòa Chechnya thuộc Nga, Ramzan Kadyrov, tự hào tuyên bố rằng ông sẽ cử ba người con trai chưa đủ tuổi tham gia cuộc chiến chống lại Ukraine. Thật là điên rồ.

TV màn hình phẳng và máy tính bảng

Việc một lãnh chúa châu Âu ở thế kỷ 21 dám coi hàng trăm nghìn người là bia đỡ đạn cho thấy sự thiếu tôn trọng hoàn toàn đối với loài người. Đối với Putin – một cách tiếp cận quản trị hậu phong kiến khác – công dân là quân nhân hoặc quần thần, trong mọi trường hợp là những người ủng hộ chính nghĩa của ông. Ngược lại, nếu bạn không ở bên ông ta, bạn đang chống lại ông ta. Lợi ích của người dân nói chung, đặc biệt là ở các khu vực xa Moscow và St.Petersburg, đóng một vai trò quan trọng. Putin chỉ quan tâm đến họ khi nhận ra rằng, mọi thứ đang trở nên căng thẳng với mình.

Sự nghèo đói là điều hiển nhiên, vì chỉ một bộ phận nhỏ người dân Nga được hưởng lợi từ sự giàu có của đất nước và ân sủng của Putin. Tác giả của những dòng này đã có vinh dự được giúp đỡ Julia Solska, người Ukraine, xuất bản ở Đức cuốn nhật ký của mình từ những ngày đầu của cuộc chiến. Trong đó, cô viết về nạn cướp bóc cho phép rút ra kết luận về mức sống trong đế chế của Putin. “Người Nga xâm lược một quốc gia, giết người và phá hủy để đánh cắp máy tính và giày dép. Nếu chúng tôi biết rằng binh lính của Putin muốn TV màn hình phẳng và máy tính bảng, chúng tôi đã gửi chúng cho họ. Vậy thì họ có thể tha cho chính mình và chúng tôi”.

Bi kịch của Nga là nó có thể là một trong những quốc gia đáng sống nhất trên trái đất, cạnh tranh một cách hòa bình với Trung Quốc và Mỹ. Khi đó, bóng ma của sự tự ti mặc cảm về mặt nhận thức sẽ biến mất và Nga sẽ không còn cần phải đổ lỗi cho phương Tây về những thiếu sót của chính mình. Có lẽ thế giới sẽ tồn tại để nhìn thấy nước Nga này. Đó sẽ là một may mắn cho nhân loại.

Chấn động thành Hồ, bắt Trương Mỹ Lan và gõ cửa nhà Lê Thanh Hải

Thu Hà

9-10-2022

Từ chuyến kinh lý của tổng Trọng…

Hà Nội theo dõi hoạt động chống Cộng nào?

Jackhammer Nguyễn

6-10-2022

Anh H., người quen của tôi là một “nhân vật cộng đồng”. Tôi nghe mọi người nói như thế khi quen anh H. Sau đó, qua vài lần có mặt ở các buổi sinh hoạt cộng đồng, tôi từ từ hình dung ra “nhân vật cộng đồng” H. là như thế nào.

Suy thoái ngay tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và Hội đồng Lý luận Trung ương

Thu Hà

1-10-2022

Tuần qua, việc phát lộ sai phạm tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (gọi tắt là Viện Hàn lâm), cũng như việc bắt khẩn cấp Nguyễn Quang Linh, trợ lý của Phó thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh, đã gây xôn xao dư luận và ngay trong hàng ngũ các đảng viên cộng sản.

Cựu Phó Thủ tướng Đức Philipp Rösler, niềm tự hào của Tuyên giáo Việt Nam

Dương Tự Lập

19-9-2022

Nhân ngày nước Đức (Cộng hòa Liên bang Đức) thống nhất, ngày 3 tháng 10 năm 1990, nói chuyện chưa thống nhất với một cựu Phó Thủ tướng Đức “gốc Việt”, rằng ông ta có phải là người Việt gốc hay không?

Putin tuyên chiến với Mỹ và Âu châu qua việc sáp nhập 4 tỉnh Đông Nam Ukraine?

Vũ Ngọc Yên

1-10-2022

Hôm thứ Sáu 30/9, Tổng thống Nga Vladimir Putin cử hành buổi lễ sáp nhập Donetsk, Luhansk, Kherson và Zaporizhizhia, là 4 tỉnh thuộc miền đông và nam của Ukraine đã bị quân đội Nga thôn tính. Động thái này khiến cuộc chiến đã kéo dài 7 tháng bước sang một giai đoạn mới khó lường.

Mèo lại hoàn mèo, Nga lại hoàn Nga

Jackhammer Nguyễn

1-10-2022

Mùa thu năm 2022, tổng thống Putin của nước Nga tuyên bố sát nhập bốn tỉnh của Ukraine vào nước Nga, sau một cuộc “trưng cầu dân ý” được dàn dựng.