Gục ngã và đơn độc

Mekong Review

Tác giả: Will Nguyễn

Dịch giả: Châu Minh Dũng

22-10-2018

Will Nguyễn bị CA TPHCM kéo lê trên đường vào ngày 10/6/2018. Ảnh: Facebook

Người phụ nữ cao tuổi lặng lẽ bước tới và vỗ nhẹ vào vai tôi, vốn đang nhễ nhại mồ hôi dưới buổi chiều tháng Sáu tại thành phố Hồ Chí Minh. Mái tóc hoa râm, mắt hé nhìn, miệng hơi lộ các nướu răng, cô đưa một cái lon đã mở nắp và ra hiệu cho tôi uống.

Biểu tình chống Dự luật Đặc khu và An Ninh mạng đang diễn ra đồng loạt trên cả nước

10-6-2018

18h: Từ Facebooker Châu Hậu: “Phan Thiết biểu tình

Phan thiết biểu tình

Publiée par Châu Hậu sur dimanche 10 juin 2018

18h: Từ Facebook Đô Thành Sài Gòn: Người dân Sài Gòn vẫn tiếp tục biểu tình:

Về bà trùm “thần số học”, vợ “củi tươi” Nguyễn Quang Thông

Dương Quốc Chính

18-1-2024

LGT của Tiếng Dân: Sự kiện hai “khúc củi” Nguyễn Công Khế và Nguyễn Quang Thông, cựu Tổng Biên tập báo Thanh Niên vừa bị cho vào “lò”, cư dân mạng không chỉ bàn tán về nhân vật được cho là “bất khả chiến bại” Nguyễn Công Khế, mà mọi người còn xôn xao về vụ bà “thần số học” Lê Đỗ Quỳnh Hương, vợ ông Nguyễn Quang Thông.

Vì sao đại án Thủ Thiêm vẫn không được giải quyết?

Người Thủ Thiêm

1-10-2018

Các- Mác từng nói: Khi lợi nhuận tăng lên 100 phần trăm thì cha nó, nó cũng giết. Điều đó cũng có thể hiểu rằng, vì sao người ta bất chấp tình đồng loại, bất chấp đạo lý, bất chấp nghĩa nhân và luật pháp để đuổi hàng vạn người dân cố cựu ra khỏi Thủ Thiêm – vốn là nơi chôn nhau cắt rún của họ để nuốt trọn 160 héc ta đất tái định cư của dân mà Chính phủ đã phê duyệt.

Trần Mộng Tú: Phụ nữ và chiến tranh

Ngô Thế Vinh

10-7-2023

Anh tặng em mùi máu

Trên áo trận sa trường

Máu anh và máu địch

Xin em cùng xót thương

Trần Mộng Tú – Quà Tặng Trong Chiến Tranh, 1969

Hình 1: Thẻ “nhà báo” của Trần Mộng Tú khi làm cho hãng thông tấn AP (Associated Press Sài Gòn; thẻ này do MACV (US Military Assistance Command, Vietnam) cấp, chỉ có giá trị mỗi 3 tháng. Tư liệu Trần Mộng Tú

PHỤ NỮ GIỮA CHIẾN TRANH VIỆT NAM: THỜI ĐIỂM 1969

Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình [Visions of War, Dreams of Peace] [1] là nhan đề một tuyển tập thơ của các nhà thơ nữ; nếu là Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, họ đã là những nữ quân nhân như y tá, bác sĩ đã từng chăm sóc các thương bệnh binh; nếu ở những ngành nghề khác, họ đảm trách các dịch vụ không tác chiến như chuyên viên truyền tin, tiếp vận, kiểm soát không lưu, nhân viên Hồng Thập Tự… Nếu là người Việt, họ là những phụ nữ thuộc hai miền Nam hay Bắc, với những trải nghiệm khác nhau, qua những năm tháng chiến tranh. Và như từ bao giờ, cho dù ở đâu, phụ nữ và trẻ em vẫn là thành phần dễ bị tổn thương nhất trong chiến tranh.

Trong tập thơ này, có 34 nhà thơ nữ Hoa Kỳ, và sáu nhà thơ nữ Việt Nam: Xuân Quỳnh (My Son’s Childhood), Hương Tràm (The Vietnamese Mother), Hà Phương (To An Phu, From This Distance I Talk To You), Trần Mộng Tú (The Gift In Wartime, Dream of Peace), Minh Đức Hoài Trinh (Poem Without Name), Nguyễn Ngọc Xuân (My Letter to the Wall).

Hình 2: trái, hình bìa cuốn sách Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình [Visions of War, Dreams of Peace] [1] Nxb Warner Books 1991, phải, hình bìa cuốn Miểng Đạn Trong Tim [Shrapnel in The Heart] [2] của Laura Palmer”, Nxb Vintage Books 1987. Tư liệu Ngô Thế Vinh

Lời giới thiệu “Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình”: Với những nữ quân nhân Mỹ, họ là những anh hùng không được nhắc tới trong Chiến tranh Việt Nam. Con số hơn 250 ngàn người đã tự nguyện cống hiến. Nếu là y tá, họ chăm sóc thương binh và những người đang hấp hối. Họ là những người chị, những cô gái, những bà mẹ, những người vợ hay mới chỉ là người yêu. Không ai bắt họ phải nhập ngũ. Nhưng họ tự nguyện cống hiến, chấp nhận rủi ro của chiến tranh để chăm sóc những chiến binh. Chưa hết, cho dù thời gian đã qua đi, nhiều người trong số ấy nay chỉ mới bắt đầu hàn gắn những vết thương tâm can của họ. Các bài thơ đã được viết trong và sau chiến tranh, vẽ nên chân dung của những người phụ nữ bình thường khi phải đối đầu với thảm họa; với can trường và lo âu, của hy sinh và mất mát, của lòng trắc ẩn và tiếc nuối. Họ nói về sự sống còn, với hồi tưởng về những vết thương lòng / wounded hearts. Đây là những bài thơ với cảm xúc sâu xa mà bạn khó thể nào quên. Bạn sẽ luôn nhớ mãi những người phụ nữ ấy. [hết trích dẫn] [1]

Từ trong Tuyển tập này, người viết [Ngô Thế Vinh] chọn ra ba bài thơ tiêu biểu, của ba phụ nữ: vùng miền tuy khác nhau nhưng họ có một mẫu số chung, là cùng nói về nỗi đau trong chiến tranh, thời điểm năm 1969, trên ba địa danh của Việt Nam:

(1) Dusty, theo phần tiểu sử là một cô y tá Mỹ chăm sóc một thương binh trẻ mới chết đêm qua nơi vùng Tam Biên (Tri-Border Area) trên Tây nguyên.

(2) Xuân Quỳnh, một văn công trong đoàn múa, một nhà thơ và đứa con nhỏ sống dưới đường hầm trong vùng “tuyến đầu” Vĩnh Linh phía bắc tỉnh Quảng Trị.

(3) Trần Mộng Tú, nhân viên hãng thông tấn AP, sống giữa Sài Gòn trong không khí chiến tranh, mới sau đám cưới, bỗng chốc trở thành góa phụ ở tuổi mới ngoài 20.

1969 DUSTY CÔ Y TÁ MỸ

GIỮA CUỘC CHIẾN TRÊN CAO NGUYÊN

Bài thơ có nhan đề: “Hello, David”, được ghi là của một cô y tá Mỹ, có tên Dusty phục vụ trong khu cấp cứu nơi một bệnh xá dã chiến vùng Tam Biên (Tri-Border Area) trên Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Bài thơ ấy – trong nhiều năm, được đánh giá là hay và cảm động: với nhân vật xưng “tôi”, là một cô y tá – viết cho một chiến binh trẻ tên David bị thương nặng được cô chăm sóc và mới chết đêm qua.

HELLO, DAVID

CHÀO DAVID

Chào David – tên em là Dusty

Hello , David – My name is Dusty

Em là y tá của anh đêm qua

I’m your night nurse…

Em sẽ bên anh

I will stay with you

Em đo sinh hiệu của anh

 mỗi 15 phút

I will check your vitals

every 15 minutes

Em sẽ phải ghi xuống

I will document inevitability

Em sẽ treo thêm bịch máu nữa

I will hang more blood

Và cho anh thuốc giảm đau

and give you something for your pain

Em sẽ bên anh

và vuốt mặt anh

I will stay with you

and I will touch your face

Vâng, chắc chắn rồi,

Yes, of course

Em sẽ viết thư cho mẹ anh

và nói với bà rằng anh can đảm

I will write your mother

and tell her you were brave

Em sẽ viết thư cho mẹ anh

và nói anh thương mẹ biết dường nào

I will write your mother

and tell her how much you love her

Em sẽ viết thư cho mẹ anh

và sẽ nói với bà hãy ôm hôn

đứa em gái tuổi thơ ngỗ nghịch của anh

I will write your mother

and tell her to give your bratty kid sister

a big kiss and hug

Điều gì em sẽ không nói với bà

What I will not tell her

rằng anh đã hôn mê

is that you were wasted

Em sẽ bên anh

và nắm lấy tay anh

I will stay with you

and I will hold your hand

Em sẽ bên anh

và thấy sự sống của anh

thoát khỏi những ngón tay em,

đi vào hồn em

I will stay with you

and watch your life

flow through my fingers

into my soul

Em sẽ bên anh

cho tới khi anh còn bên em

I will stay with you

until you stay with me

Vĩnh biệt, David – tên em là Dusty

Goodbye, David – my name is Dusty

Em là người cuối cùng

anh thấy

I am the last person

you will see

Em là người cuối cùng

anh nắm tay

I am the last person

you will touch

Em là người cuối cùng yêu anh

I am the last person who will love you.

Vĩnh biệt, David – em tên là Dusty,

So long, David – My name is Dusty,

David, ai sẽ cho em thuốc giảm nỗi đau em?

David, who will give me something for my pain?

Dusty, y tá Việt Nam, 1969

(Dusty, Vietnam nurse,1969)

[bản dịch tiếng Việt của Ngô Thế Vinh]

Dusty, sau này còn được biết với một bút danh khác là Dana Shuster, cô rất nổi tiếng, được vinh danh như một nhà thơ nữ viết về chiến tranh, bài thơ “Hello, David” không những hay và cảm động, đã được trích dẫn nơi bìa sách. Với hai bút hiệu khác nhau, chính cô là tác giả của 13 bài thơ hay trong tuyển tập Visions of War, Dreams of Peace, (với tên Dusty: 3 bài, Dana Shuster: 10 bài).[1]

Ký giả Laura Palmer, từng sống và làm việc tại Sài Gòn, Paris, Washington, D.C., từ những năm đầu thập niên 1980s, Palmer để tâm theo dõi các cá nhân đã để lại những kỷ vật nơi Bức Tường Thương Tiếc (Vietnam Veterans Memorial ở Washington, D.C.) Cuốn sách của Palmer có tên là “Miểng đạn trong Tim” (Shrapnel in the Heart) [2] được Vintage Books xuất bản năm 1987, trong đó cô đã ghi lại những cuộc phỏng vấn.

[Có một chi tiết riêng tư rất thú vị của TMT. Khi Laura Palmer sang Việt Nam làm cho AP đã từng là bạn thân của Trần Mộng Tú – sau khi Cung mất. Sang Mỹ, TMT và Laura vẫn liên lạc với nhau. Nhưng rồi bẵng đi một thời gian dài hơn 30 năm, họ mất liên lạc. Và mới đây hai người tìm lại được nhau. TMT đã ngạc nhiên vô cùng khi biết cô ký giả Laura Palmer nay trở thành Mục sư, và hiện đang sống ở Philadelphia].

Có một nhân vật trong sách mà ban đầu, Laura Palmer chỉ biết tên là Dusty, tác giả bài thơ “Hello, David”. Vào dịp ra mắt sách cuốn Shrapnel in the Heart 1987, chính Laura Palmer đã đọc bài thơ “Hello, David” của Dusty trong một chương trình buổi sáng trên đài phát thanh quốc gia [NPR / National Public Radio]; bài thơ gây xúc động cho nhiều cựu chiến binh và gia đình họ. Bài thơ này cũng được chính Phó Tổng thống Mỹ Al Gore đọc sáu năm sau (1993) trong buổi lễ khánh thành Vietnam Women’s Memorial [Tượng đài Tưởng niệm các Phụ nữ đã phục vụ trong chiến tranh Việt Nam].

Hình 3: Hình chụp một phần của tượng đài Vietnam Women’s Memorial tại Washington, D.C. của điêu khắc gia Glenna Goodacre (1939 – 2020) được Phó Tổng thống Al Gore cắt băng khánh thành nhân ngày Cựu Chiến Binh 11/11/1993. Nguồn: Montana Public Radio, © Public Domain

Trong gần 20 năm, ký giả Laura Palmer chỉ được biết Dusty là tác giả bài thơ nổi tiếng “Hello, David”, và được nghe các câu chuyện về hai nhiệm kỳ Dusty phục vụ ở Việt Nam khoảng giữa 1966 – 1968, như trong Tết Mậu Thân 1968, Dusty kể rằng cô đã phải đứng trong phòng mổ suốt 72 giờ khiến hai bàn chân sưng phù tới mức không thể cởi giày ra được trong hai ngày!

Nhưng rồi, vào những năm sau này, cũng chính ký giả Laura Palmer khi tiếp xúc với các nhóm cựu chiến binh khác, họ cho biết là chưa từng được gặp hay làm việc với Dusty trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Laura Palmer bị áp lực phải trở lại tìm gặp Dusty và yêu cầu cô ta, nếu có thể cung cấp các chứng từ hay hình ảnh về thời gian cô phục vụ ở Việt Nam. Câu trả lời của Dusty là không thể. [4]

Phát hiện của ký giả Laura Palmer về phần tiểu sử không thật của Dusty đã làm nhiều cựu chiến binh và gia đình họ ngỡ ngàng và cả thất vọng. Họ cảm thấy như bị phản bội khi biết rằng Dusty chưa hề là một nữ y tá trong quân đội Mỹ, và chưa hề có mặt ở Việt Nam chăm sóc thương binh trong chiến tranh. Laura Palmer đã báo ngay cho Vietnam Women’s Memorial Foundation, và lúc đó Debbie Elliot đang phụ trách tổ chức này, đã ra một thông báo:

Và bây giờ cần thêm một “ghi chú cuối trang” (footnote) trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Các bạn có thể đã đọc những bài thơ của một phụ nữ tên Dana Shuster nói về kinh nghiệm của cô như một y tá chiến trận / combat nurse ở Việt Nam. Cô ta còn được biết tới với một bút danh khác là Dusty, về một bài thơ nổi tiếng viết về một cô y tá chăm sóc một thương binh đang hấp hối. Nhưng gần đây người ta mới phát hiện ra rằng Dana Shuster chưa từng trong quân ngũ và cũng chưa bao giờ là một y tá”. [4]

Một thân nhân của cựu chiến binh, Karen S. Zacharisa đã phát biểu: “Một người nào đó nói rằng, mình có mặt ở đó cầm tay một người đang hấp hối tên là David là điều không thể tưởng tượng được. Zacharisa nói rằng cô rất đau buồn nhưng bây giờ thì cứ chờ xem điều gì là động lực để Shuster làm như vậy, nhưng cô cũng xác nhận rằng ngay cả bây giờ đọc bài thơ ấy vẫn thực sự gây xúc động. Ký giả Laura Palmer cho biết có nhiều cựu chiến binh cũng nghĩ như vậy”. [4]

Dẫu sao, Dana “Dusty” Shuster cũng đã tạo được mối quan tâm tới những y tá quân đội, và thi ca của Dusty đã giúp mọi người nhận biết được sự hy sinh và cống hiến của những phụ nữ ấy trong chiến tranh Việt Nam. [1]

Ý kiến người viết [Ngô Thế Vinh]: Trong sáng tạo văn học, không nhất thiết bản thân tác giả phải là người thật việc thật giống như nhân vật trong tác phẩm. Với tài năng và sức mạnh của trí tưởng tượng sáng tạo, nhà thơ nhà văn vẫn có thể sáng tác ra những bài thơ, áng văn giá trị, “thật hơn cả sự thật” làm xúc động sâu xa lòng người. “Hello, David” vẫn là một bài thơ hay và cảm động, nhưng điều mà Dana “Dusty” Shuster đã làm thất vọng nhiều ngưởi – trong đó có các cựu chiến binh và gia đình của họ, không phải vì cô đạo văn đạo thơ của ai, nhưng chính là phần cô đã man khai về lý lịch của mình, khi họ biết cô ấy chưa hề là một y tá, và chưa hề có mặt ở Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Nếu Dana “Dusty” Shuster hiểu được rằng, vẫn có thể có “những sự thật trong hư cấu văn học”, thì cô đâu cần phải vẽ ra một lý lịch khác như vậy. Chính điều đó đã làm mất đi sự tin cậy của độc giả nơi cô!

1969 XUÂN QUỲNH VÀ CON SƠ SINH NƠI TUYẾN ĐẦU VĨNH LINH, QUẢNG TRỊ

Xuân Quỳnh, sinh năm 1942 tại Hà Đông (cùng nơi sinh với Trần Mộng Tú). Xuân Quỳnh từ năm 13 tuổi đã được tuyển vào Đoàn ca múa nhạc Trung ương. Từ một cô văn công, Xuân Quỳnh đến với thi ca. Năm 20 tuổi (1962), Xuân Quỳnh được cử đi học lớp sáng tác cho các nhà văn trẻ. Từ 1964, giã từ Đoàn ca múa, bắt đầu làm biên tập viên cho tuần báo Văn Nghệ, Xuân Quỳnh nổi tiếng ngay với tập thơ đầu tay có tên “Tơ tằm – Chồi biếc”. Năm 1968, là tập thơ thứ hai “Hoa dọc chiến hào” phản ánh cảm xúc của nhà thơ trước cảnh bom đạn của đất nước.

Xuân Quỳnh có những tác phẩm thơ và truyện viết về trẻ thơ như: Lời ru trên mặt đất (1978), Bầu trời trong quả trứng (1982), và tập truyện Mùa xuân trên cánh đồng (1981), Bến tàu trong thành phố (1984).

Bài “Tuổi Thơ của con” được ghi là sáng tác năm 1969 trong thời gian Xuân Quỳnh đi thực tế ở vùng tuyến đầu Vĩnh Linh, phía bắc tỉnh Quảng Trị. (Bài thơ này sau đó được in trong cuốn Bầu trời trong quả trứng. Nxb Kim Đồng, 1982). Vĩnh Linh sát với vùng phi quân sự DMZ phía bắc vĩ tuyến 17. Vào thời điểm 1969, Vĩnh Linh từng được báo chí Mỹ mệnh danh là “Vùng Trắng – White Zone”, hay còn được gọi là “vùng oanh kích tự do”.

TUỔI THƠ CỦA CON

MY SON’S CHILDHOOD

Tuổi thơ con có những gì

What do you have for your childhood

Có con cười với mắt tre trong hầm

That you still smile in the bomb shelter

Có làn gió sớm vào thăm

There is the morning wind which comes to visit you

Có ông trăng rằm sơ tán cùng con

There is the full moon which follows you

Sông dài, biển rộng, ao tròn

The long river, the immense sea, a round pond

Khói bom đạn giặc, sao hôm cuối trời

The enemies’ bomb smoke, the evening star

Ba tháng lẫy, bẩy tháng ngồi

At three months you turn your head, at seven you crawl

Con chơi với đất con chơi với hầm

You toy with the earth, you play with a bomb shelter

Mong ngày, mong tháng, mong năm

I long for peace everyday, every month for a year

Một năm con vịn vách hầm con đi

For a year, you toddle around the shelter

Trời xanh các ngả ngoài kia

The sky is blue, but way over there

Cỏ xanh quanh những hàng bia trên mồ

The grass is green far away on the ancient tombs

Quả tim như cái đồng hồ

My heart is a pendulum

Nằm trong lồng ngực giục giờ hành quân

Pounding my chest, keeping time for the march

Dế con cũng biết đào hầm

The small cricket knows to dig a shelter

Con cua chả ngủ, canh phòng đạn bom

The crab doesn’t sleep: it, too, fears the bombs

Trong trăng chú cuội tắt đèn

In the moonlight, even the hare hides

Để cho mắt giặc mây đen kéo về

The black clouds hinder the enemy’s sight

Cái hoa cái lá biết đi

Flowers and trees join the march

Theo người qua suối, qua khe, qua làng

Concealing troops crossing streams, valleys, villages

Chiến hào mặt đất dọc ngang

My son, trenches crisscross everywhere

Sẽ dài như những con đường con qua

They’re as long as the roads you’ll someday take

Hầm sâu giờ quý hơn nhà

Our deep shelter is more precious than a house

Súng là tình nghĩa đạn là lương tâm

The gun is close by, the bullets ready

Mẹ nuôi ngọn lửa trong hầm

If I must shoot.

Để khi khôn lớn con cầm lên tay

When you grow up, you’ll hold life in your own hands

Những điều mẹ nghĩ hôm nay

Whatever I think at present

Ghi cho con nhớ những ngày còn thơ

I note down to remind you of your childhood days

Ngày mai tròn vẹn ước mơ

In the future, when our dreams come true,

Yêu thương thêm chuyện ngày xưa nước mình

You’ll love our history all the more.


Xuân Quỳnh
– Vĩnh Linh, 24-11-1969

(bản dịch tiếng Anh của Phan Thanh Hao và Lady Borton)

Xuân Quỳnh được sinh ra và lớn lên trong nền giáo dục “thép đã tôi thế đấy” ở Miền Bắc, với lằn ranh “ta và địch” phải rất rạch ròi. Và trong nền “văn hóa chiến tranh” đó, với bài quốc ca “thề phanh thây uống máu quân thù”, đứa con thơ cũng đã được mẹ dạy “súng là tình nghĩa, đạn là lương tâm”, (bản dịch tiếng Anh với câu: “The gun is close by, the bullets ready”, đã không lột tả được ý nghĩa đích thực tính “chiến đấu máu lửa” của câu thơ này).

Xuân Quỳnh không chết trong chiến tranh, nhưng cùng chồng là nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ và con trai đã chết trong một tai nạn giao thông nhiều nghi vấn ở Hải Dương năm 1988. Năm 2016, 28 năm sau Xuân Quỳnh được truy tặng giải thưởng văn học danh giá nhất của Hà Nội: giải thưởng Hồ Chí Minh. Lưu Quang Vũ cũng đã được truy tặng giải này từ năm 2000.

1969 TRẦN MỘNG TÚ NHẬN TIN CHỒNG TỬ TRẬN GIỮA MỘT SÀI GÒN TRONG KHÍ HẬU CHIẾN TRANH

Trần Mộng Tú sinh năm 1943 tại Hà Đông, kém Xuân Quỳnh một tuổi. TMT đã có một thời con gái hoa mộng với tình yêu đầu đời như mọi thiếu nữ khác. Sau Lễ Phục Sinh một tuần, ngày 12/4/1969, là một đám cưới, Cung tử trận ngày 30/7/1969 – chỉ ba tháng sau – là đám tang chồng. TMT trở thành góa phụ ở tuổi mới ngoài 20. Bài thơ Quà Tặng Trong Chiến Tranh được TMT sáng tác trong nước vào thời điểm rất đau thương này, từ những xúc động trước cái chết của người yêu đầu đời và là chồng mới cưới của cô.

Hình 4: Trần Mộng Tú và Thái Hoàng Cung trong ngày đám cưới (ngày 12 tháng 4 năm 1969). Kiên Giang – Rạch Giá là địa danh định mệnh, nơi chuẩn úy – nhà giáo Thái Hoàng Cung, chồng mới cưới của Trần Mộng Tú tử trận ba tháng sau trong một cuộc hành quân (tháng 7 năm 1969), thời điểm TMT làm bài thơ này. Tư liệu TMT

Năm 1990, lần đầu tiên hai bài thơ viết về chiến tranh của Trần Mộng Tú (The Gift in Wartime / Quà Tặng trong Chiến Tranh và Dream of Peace / Giấc Mơ Hòa Bình) được chọn đăng trong tuyển tập thơ: “Visions of War, Dreams of Peace” [1] (Tầm nhìn Chiến tranh, Giấc mơ Hòa bình). Đó là cũng là lần đầu tiên thơ Trần Mộng Tú xuất hiện trên văn đàn thế giới. Quà Tặng trong Chiến Tranh là bài thơ được chọn cho bài viết này.

QUÀ TẶNG TRONG CHIẾN TRANH

THE GIFT IN WARTIME

Em tặng anh hoa hồng

I offer you roses

Chôn trong lòng huyệt mới

Buried in your new grave

Em tặng anh áo cưới

I offer you my wedding gown

Phủ trên nấm mồ xanh

To cover your tomb still green with grass

Anh tặng em bội tinh

You give me medals

Kèm với ngôi sao bạc

Together with silver stars

Chiếc hoa mai màu vàng

And the yellow pips on your badge

Chưa đeo còn sáng bóng

Unused and still shining

Em tặng anh tuổi ngọc

I offer you my youth

Của những ngày yêu nhau

The days we still in love

Đã chết ngay từ lúc

My youth died away

Em nhận được tin sầu

When they told me the bad news

Anh tặng em mùi máu

You give me the smell of blood

Trên áo trận sa trường

From your war dress

Máu anh và máu địch

Your blood and your enemy’s

Xin em cùng xót thương

So that I may be moved

Em tặng anh mây vương

I offer you clouds

Mắt em ngày tháng hạ

That linger on my eyes on summer days

Em tặng anh đông giá

I offer you cold winters

Giữa tuổi xuân cuộc đời

Amid my springtime of life

Anh tặng môi không cười

You give me your lips with no smile

Anh tặng tay không nắm

You give me your ams without tenderness

Anh tặng mắt không nhìn

You give me your eyes with no sight

Một hình hài bất động

And your motionless body
 Anh muôn vàn tạ lỗi

Seriously, I apologize to you

 Xin hẹn em kiếp sau

 I promise to meet you in our next life

 Mảnh đạn này em giữ

 I will hold this shrapnel as a token

Làm di vật tìm nhau.

By which we will recognize each other.

Sài Gòn Tháng 7/ 1969

Trần Mộng Tú

Bản dịch tiếng Anh của Vann Phan

Bài thơ tiếng Việt của TMT nguyên là một cuộc đối thoại giữa hai người, “thi sĩ và tử sĩ”, nhưng qua bản dịch cùa Vann Phan, có chỗ đã biến thành một độc thoại – với ngôi thứ nhất!

Điều khá ngạc nhiên là trong bài thơ “Quà Tặng Trong Chiến Tranh”, người ta không nghe thấy tiếng khóc gào thét của nỗi đau mất mát từ người góa phụ trẻ Trần Mộng Tú, khi người yêu đầu đời, người chồng mới cưới của cô bị tử trận. Khi ấy và cả những năm về sau này, người ta cũng không thể tìm thấy lửa hận thù “ta và địch” trong thơ TMT, mà chỉ có nỗi thổn thức xót thương chung cho tang tóc của cả đôi bên trong chiến tranh:

Anh tặng em mùi máu

Trên áo trận sa trường

Máu anh và máu địch

Xin em cùng xót thương

Phạm Xuân Đài trong bài điểm sách Thơ tuyển 1969-2009 của TMT, trên Diễn Đàn Thế Kỷ (12/8/2010) đã viết: “Bản lãnh của TMT là nuốt đắng cay vào trong để kết tinh thành những giọt nước mắt như ngọc rơi xuống trang thơ.”

Không, TMT có khóc chứ, chỉ có điều cô không khóc ngay khi đi đón và chạm tay vào cỗ quan tài đã bốc mùi, nhưng là những năm về sau này, của những đêm dài không ngủ với những giọt nước mắt rỉ rả và rất âm thầm:

Tôi trôi mãi rồi cũng phải giạt vào một chỗ. Bảy năm sau [1976] tôi lấy chồng, sanh con, tôi sống bình thường như tất cả mọi người đàn bà khác trên một đất nước không có chiến tranh. Tôi cũng vui, cũng buồn với những thăng trầm của đời sống. Ở đời sống hàng ngày, tôi quên dần cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm về trước. Nhưng tôi nhớ rất rõ ràng là cái bất hạnh đó nó có hiện diện trong kiếp người của mình. Thỉnh thoảng Cung vẫn về trong giấc mơ, dù suốt ngày hôm trước tôi không hề nghĩ đến. Cung về như còn sống hay về như đã chết thì khi tỉnh dậy, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ trào ra trên gối. Tôi cố gắng không làm dao động người nằm bên cạnh đang ngon giấc. Buổi sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản nhiên bước vào đời sống trước mặt: Giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho con. [5]

Rồi cũng có một trận khóc rất thảm thiết – nhưng phải mãi tới 23 năm sau, khi TMT lần đầu tiên về Việt Nam, tới thăm Nhà thờ Tân Định, nơi còn giữ hũ tro cốt của người chồng năm nào:

Tôi đi len lỏi giữa những dãy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc. Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến. [5]

Với ba bài thơ trích dẫn, từ ba chiến tuyến, đã như một Dẫn Nhập khá dài cho một bài viết về nhà thơ Trần Mộng Tú.

***

TRẦN MỘNG TÚ

Sinh quán Hà Đông, Bắc Việt. Lớn lên ở Hà Nội, rồi Hải Phòng, năm 1954 di cư vào Nam. Từ 1968 tới 1975 làm nhân viên hãng thông tấn The Associated Press Sài Gòn. Di tản sang Mỹ tháng Tư năm 1975. Ở hải ngoại, Trần Mộng Tú cộng tác với các tạp chí văn học và trang mạng ở Mỹ và các nước khác. Trần Mộng Tú hiện sống với gia đình ở một vùng ngoại ô yên tĩnh bên ngoài Seattle, tiểu bang Washington, Tây Bắc Hoa Kỳ. Bước qua tuổi “cổ lai hy”, TMT vẫn làm thơ, viết văn, và mỗi cuối tuần cùng chồng tới nhà thờ làm công tác thiện nguyện.

TMT VỚI MỘT TIỂU SỬ THƠ

Người Đàn Bà Thi Sĩ Việt Nam:

Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam

Bỏ lại trên quê hương

Một mối tình

Một mối tình được gắn huy chương

Huy chương anh dũng bội tinh…

Tôi người đàn bà thi sĩ Việt Nam

Đang sống trên đất Mỹ

Chồng tôi người bản xứ

Chúng tôi có ba con chưa đến tuổi thành niên

Đời sống êm đềm

Trong một thành phố nhỏ…

Tmt

TÁC PHẨM TMT ĐÃ XUẤT BẢN:

Hình 5: hình bìa một số tác phẩm tiếng Việt của Trần Mộng Tú đã xuất bản, từ trái: Vườn Măng Cụt (2009), Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (1969-2009), Để Em Làm Gió (1996), Mưa Sài Gòn Mưa Seattle (2006), Câu Chuyện của Lá Phong (1994), Ngọn Nến Muộn Màng (2005), Thơ Trần Mộng Tú (1990), Cô Rơm và Những Truyện Ngắn (1999), Lịch Trần Mộng Tú Xuân Ất Mùi 2015. [nguồn: Blog’s TMT]

Tiếng Việt:

(1) Thơ Trần Mộng Tú (Tập Thơ-1990) Nxb Người Việt. (2) Câu Chuyện Của Lá Phong (Tập Truyện Ngắn-1994) Nxb Người Việt. (3) Để Em Làm Gió (Tập Thơ-1996) Nxb Thế Kỷ 21. (4) Cô Rơm và Những Truyện Ngắn (Tập Truyện Ngắn-1999) Nxb Văn Nghệ. (5) Ngọn Nến Muộn Màng (Tập Thơ-2005) Nxb Thư Hương. (6) Mưa Sài Gòn Mưa Seattle (Tập Truyện- 2006) Nxb Văn Mới. (7) Vườn Măng Cụt (Tập Truyện Ngắn và Tản Văn – 2009 Nxb Văn Mới). (8) Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (Thơ 1969-2009- Tác Giả Xuất Bản). (9) Blog: tranmongtu.blogspot.com

Tiếng Anh:

(1) Visions of War, Dreams of Peace, Writings of Women in the Vietnam War. Warner Books 1991. (2) American Literature Textbook, Glencoe / McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000. (3) An Anthology of Vietnamese Poems: From the Eleventh through the Twentiedth Centuries. Yale University Press, New Haven and London, 2001. (4) The Defiant Muse (The Vietnamese Feminist Poems), The Feminist Press and The Women’s Publishing House Hanoi, Vietnam 2007.

Các bài thơ được phổ nhạc:

1/ Dòng Sông Đứng Lại (nhạc Phạm Anh Dũng). 2/ Tháng Mười Hoa Cúc (nhạc Phạm Anh Dũng). 3/ Quà Tặng Chiến Tranh (nhạc Phạm Anh Dũng). 4/ Tháng Mười Hoa Cúc (nhạc Hoàng Quốc Bảo). 5/ Quán Lạ (nhạc Hoàng Quốc Bảo). 6/ Giọt Tình Sầu (nhạc Nam Lộc). 7/ Gọi Anh Mùa Xuân (nhạc Anh Bằng). 8/ Nhân Chứng (nhạc Vũ Tiến Dũng). 9/ Chia Tay (nhạc Nhật Ngân).10/ Kiếp Sau (nhạc Nhật Ngân). 11/ Thanh Xuân (nhạc Nguyễn Tuấn).12/ Mùa Thu Paris (nhạc Nguyễn Minh Châu).13/ Dòng Sông Đứng Lại (nhạc Lê Thanh Cảnh). 14/ Ngọn Nến Muộn Màng (nhạc Lê Thanh Cảnh).15/ Tháng Tư Nhuộm Tóc (nhạc Lê Thanh Cảnh). 16/ Quà Tặng Trong Chiến Tranh (nhạc Nguyễn Ngọc Tiến).

Hình 6: trái, hình bìa cuốn Mưa Sài Gòn, Mưa Seattle, Tạp Văn của Trần Mộng Tú, Nxb Văn Mới 2006; phải, hình bìa Thơ Tuyển Bốn Mươi Năm (1969-2009) của Trần Mộng Tú, Tác giả xuất bản 2009. Đến nay, đã hơn nửa thế kỷ – hay chính xác hơn 54 năm sau (1969-2023), bắt đầu bước vào tuổi 80, Trần Mộng Tú vẫn làm thơ, vẫn với sức sáng tác phong phú và sung mãn. Có thể nói, Trần Mộng Tú như một hiện tượng rất hiếm hoi: bà là một nhà thơ không có tuổi tác.

Trần Mộng Tú làm thơ, viết truyện ngắn, tùy bút, làm báo. Sự nghiệp văn học của Trần Mộng Tú chủ yếu là thơ. Thơ của Trần Mộng Tú gồm nhiều thể loại: thơ tình, thơ thời sự, với tình yêu thương sâu sắc trước các thảm kịch như chiến tranh Trung Đông, khủng bố 911 ở Mỹ (Trả lại tôi), 39 thùng nhân chết trên con đường kiếm sống (Tôi không thở được), thảm họa môi sinh Formosa với hàng loạt cá chết (Gửi người em Vũng Áng)…

Văn chương của Trần Mộng Tú thanh thoát. Ở đó không hề có bóng dáng của thù hận; và với thể loại nào cũng thấm đẫm những tình cảm đôn hậu, yêu thương, rất Trần Mộng Tú.

TÌM LẠI THỜI GIAN ĐÃ MẤT 1968 TMT VÀ CƠ DUYÊN VỚI AP SAIGON

Sau khi thi đậu tú tài 2, Trần Mộng Tú vẫn đi học thêm Anh văn ở mấy lớp dạy tư. Khi Ba Tú về hưu, Tú muốn đi làm thêm phụ giúp gia đình. TMT có một thời gian ngắn đi làm trong PX Ambassador. PX này dành riêng cho sĩ quan cao cấp và nhân viên ở Tòa Đại Sứ. Tuy Ba là công chức, làm ở sở Địa Chánh, tiếng là ông Tham, ông Phán nhưng lương hưu cũng chẳng có nhiều.

TMT có khiếu về ngôn ngữ, nói và nghe tiếng Anh tốt nhưng không biết nhiều về báo chí. Khi đó, nhân có một người anh họ tên Đinh văn Ngọc, vừa đang học Luật vừa làm cho AP, bị động viên năm 1968. Anh ấy nói: Em vào đây học tiếng Anh nhanh hơn ở trường, cứ thử đi.” Rồi anh ấy mang cô em vào giới thiệu. Lúc đó Tú cũng liều, đâu biết là cả AP bao nhiêu năm nay toàn đàn ông không có phụ nữ nào cả. Tú nghĩ chắc lúc đó ông Bureau Chef muốn có một cô vào làm như cần một bông hoa trang trí cho văn phòng”. Làm ở AP, Tú đã học được rất nhiều. Lương lại cao hơn những việc khác. Việc làm có phẩm chất, hơn nữa sau giờ trưa, ông Bureau Chef AP còn cho Tú 2 giờ đi học thêm tiếng Anh.

Văn Phòng AP trong Passage Eden trên lầu 4, phòng 420-422. Nơi còn có các văn phòng của đài truyền hình NBC, của tuần báo nổi tiếng US World and News Report. TMT có rất nhiều kỷ niệm với Passage Eden, với tiệm kem Givral – nơi góc đường Tự Do và Lê Lợi. Nơi mỗi lần Thái Hoàng Cung, người yêu đến đón, buổi trưa về nhà anh ăn cơm, thỉnh thoảng hai người vào ăn kem hay mua bánh mang về. Tuy chưa cưới nhau, nhưng TMT đã được mẹ Cung – một nhà giáo nổi tiếng nghiêm khắc, khi ấy bà đang làm Giám thị Đại học xá nữ Thanh Quan trên đường Trần Quý Cáp. Bà rất thương cô con dâu tương lai và đã coi TMT như một đứa con trong gia đình.

1968 TÌNH YÊU ĐẦU ĐỜI ĐẸP NHƯ MƠ

Do hai gia đình có hai bà mẹ thân nhau, TMT và Thái Hoàng Cung có dịp quen nhau từ hồi trung học. Cung là con thứ hai trong một gia đình ba anh em trai. Ba Cung nguyên là nhà giáo dạy tiếng Pháp, mở một trường học ở Nam Định, ông bị Việt Minh bắt và thủ tiêu trong thời gian cuộc kháng chiến chống Pháp. Lúc đó mẹ Cung cũng là nhà giáo, còn rất trẻ đã sớm góa bụa, bà đem ba đứa con về Hà Nội, đứa lớn nhất lúc đó chỉ mới 10 tuổi, bà vừa đi dạy học vừa bươn chải nuôi nấng ba con. Vì không biết ngày chồng chết, bà lấy ngày ông bị Việt Minh bắt đi làm ngày giỗ. Rồi tới năm 1954, sau Hiệp định Genève, bà lại dẫn ba con di cư vào Nam.

Cung học xong năm cuối trường Jean-Jacques Rousseau, sau tú tài 2, Cung chọn thi vào trường Đại học Sư phạm, tốt nghiệp ban Pháp văn, được bổ nhiệm đi làm giáo sư dạy tiếng Pháp trong một trường trung học nhỏ ở miền Tây, nhưng chưa được một năm thì có lệnh tổng động viên sau trận Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968.

Sau khi học xong khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức, trước khi ra đơn vị, Cung xin gia đình cha mẹ TMT cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, TMT có chồng từ tháng 6-1968.

 NỖI KHẮC KHOẢI CỦA MỘT CHINH PHỤ –  1968 BUỔI TRƯA SÀI GÒN

Mùa mưa đang về giữa Sài Gòn

con đường Tự Do vỡ òa bong bóng

em đi dưới trời mưa

Em nhớ anh

em khóc

 

Những chiếc taxi nằm im

Sài Gòn trong mưa

Sài Gòn buổi trưa

Sài Gòn như nỗi chết

Sao anh còn trẻ thế

Sao em còn trẻ thế

Sao tình yêu hai ta còn trẻ thế

lại lăn vào

một cuộc chiến già nua

Bây giờ một người lính mới

cầm cây súng cũ xì

ở tận chi khu Trà Bồng

một địa danh nghe mà

ngơ ngác

Bây giờ một người con gái

cầm trái tim mình bằng cả hai tay

đi dưới cơn mưa

đầy bong bóng nước

 

Ôi Sài Gòn buổi trưa

Em nhớ anh

Em nhớ anh

em khóc.

Trần Mộng Tú – 1968

 1969 BẢN TIN TRONG NGÀY

Em đi trong thành phố

mùa đông đến sau lưng em

gió thổi trên nóc nhà thờ Đức Bà

em se mình trong chiếc xích lô

Bản tin em lấy về sáng nay ở Nha Báo Chí

số chết của ta và địch

chia đôi rất công bình

Ở tòa báo em làm

những người phóng viên

đang thu xếp ngày mai ra Đà Nẵng

không có ai đi Kiên Giang*

làm sao em gửi được cho anh

một nụ hôn vào chiếc bao thư

làm sao em gửi được cho anh

những giọt nước mắt sáng nay của em

vào trong bao thuốc lá

Em se mình trong tòa báo

hoang mang

cúi xuống một bản tin mới ra

Trưa nay

Ta chết nhiều hơn địch

Em gọi trong lồng ngực đáng thương của mình

Ôi anh!

Ôi anh!

Ôi anh!

Buổi chiều

em trở về

chiếc xích lô vẫn còn đầy gió.

Trần Mộng TúTháng 3-1969

1969 TANG TÓC BA THÁNG SAU NGÀY CƯỚI

Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969, khi tôi – TMT – đang ngồi xem những tấm ảnh màu đám cưới gửi từ Mỹ về, sắp xếp để làm một cuốn album, thì nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên khi thấy Carl và anh Huân là hai người ở Sở trước mặt. Anh Huân làm phòng tối, phụ trách về rửa phim, in hình và Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng bao giờ đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm. Tôi lúc đó làm thư ký cho hãng thông tấn The Associated Press, công việc của tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hãng: từ phát lương cho nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán hình ảnh, thư ký cho ông chánh văn phòng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v... Những việc này không bao giờ phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca đêm.

Cả hai người bước vào buồng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau, không ai muốn là mình nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng không hiểu chuyện gì. Cuối cùng Carl nói: “Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đã tử trận.” Tôi đứng ngẩn người, nhìn lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl nói tiếp: “Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định tin rõ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của Đại học xá Trần Quý Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi.” Tôi ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đình.

Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng 7 năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đã đi dạy được một năm, anh bị gọi trong chương trình Tổng Động Viên. Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968. Lúc làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi khu Trà Bồng), chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao được. Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt phái về dạy học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào tháng 10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.

Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ. Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài.

“Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sài Gòn.”
Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay để giữa lòng phi đạo. Anh chồng tôi dặn:
“Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ.”

Buổi trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên sân bay, cái sân bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan có phủ xộc xệch lá quốc kỳ, mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một vài chiếc lá quăn queo sót lại của vòng hoa chiều qua còn dính ở đó. Tôi tự thấy mình bé nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt, áo nhàu nát, tóc bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nhìn chung quanh mình. Cái sân bay trông sao mông mênh thế mà cái áo quan thì bé tí, tôi đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân bay không một bóng người, vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những phuy dầu chưa kịp xếp vào kho. Hình như đã có mùi hôi bốc ra từ áo quan, tôi đứng lui ra một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy mình nghẹn thở, ngực nặng và đau buốt, đau thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.

Hai ngày, một đêm ở Kiên Giang đã làm tôi đuối sức. Tôi có làm gì đâu. Tôi chỉ không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người tôi không còn nước. Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ sữa ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc, nên đi đón xác con mà bà còn nhớ đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô con dâu tiểu thư, cô con dâu còn mới như vuông lụa chưa thêu.

“Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa thì mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con.”
Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên ngoài để vào bên trong chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đã phải bước qua từng cái túi có bọc thây người ở trong, có cái thòi hai bàn chân còn nguyên đôi giày saut ra một đầu, có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái thòi nguyên một khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi không còn cảm giác nữa. Không biết tôi có giẫm phải ai không. Tôi cố gắng không giẫm lên những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn thấy gì đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo: “Đúng là Cung rồi”.

Hình 7: Một góc của phi trường Bình Thủy, Cần Thơ 1969, nơi chiếc quan tài của Thiếu úy Thái Hoàng Cung được chiếc máy bay vận tải của Quân đội Mỹ thả xuống.

Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài. “Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sài Gòn.” [5]

Tôi thấy hình như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống. Tôi thấy một dòng nước đục chảy lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nhìn vào những người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây người để tìm chồng, tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi còn may mắn hơn họ.

Người ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày đứng cạnh áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì tôi đứng nhìn mấy cây nến chảy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả chén cơm đã khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng vì không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi thò lò cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt mũi có vẻ khang khác với nhng người trong trại lính này. Có người cũng từ xa đến chưa tìm ra xác chồng, xác con đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần.

Tôi đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay ở xã Vĩnh Thanh Vân. Xã này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi, và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau:

“Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!”

Người anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác chỉ có ba người trong gia đình này ít khóc nhất. Bà mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con dâu uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói gì làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính đang khóc ngoài kia thì bà lại đỡ lo. Không biết còn kẹt ở đây đến bao giờ? Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá giang máy bay quân sự về Sài Gòn, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con. Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước, còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời vì lúc đó ông có một ngôi trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi bộ cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê đò về, tính ngày đi của chồng dùng làm ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá 10 tuổi tìm đường ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai làm được gì thì bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt thì vốn chóng khô vì nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả ít một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ lắm, lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà, cô còn may mắn chán.

Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên được máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường Bình Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đò về Sài Gòn. Trong khi đó thì các con của bà: con sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.

Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân Sơn Nhất thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim cho chiến tranh thì hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhàu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ tang thương. Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên, quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.

Sau này tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy, sao mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường? Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.

Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được miếng đất chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên được.
Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở nhà thì phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những người lân cận và một vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. H
nhìn tôi, nhìn quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái cảnh này những năm gần đây. Tôi còn trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta. [5] [Bình Thủy, 1969]

1970 TMT TRỞ LẠI SỐNG VỚI BÌNH THƯỜNG MỚI

Cho dù có chồng chất đau đớn và tang thương đến thế nào, cuộc “chiến tranh già nua” ấy – chữ của TMT, vẫn cứ lạnh lùng tiếp diễn, với vô số đạn bom vô tri của cả đôi bên. Mỗi ngày Sài Gòn, và cả trên khắp nẻo đường đất nước, vẫn có thêm bao nhiêu vành khăn tang mới và rồi họ vẫn cứ phải sống.

Sau khi Cung mất, TMT trở lại đi làm cho AP, vẫn được cả hãng quý mến, họ mừng đám cưới rồi sau đó lo đám tang cho chồng TMT, chỉ cách nhau có 3 tháng. Vì mẹ TMT và mẹ Cung thân nhau nên liên hệ hai gia đình không có gì thay đổi từ ngày Cung mất. Trong suốt 7 năm còn ở Việt Nam, mỗi trưa đi làm ra TMT đều về nhà ăn cơm với Mẹ Cung, nếu không phải ngày đi học thì ra nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thăm mộ chồng, sau đó mới trở lại Sở làm.

Trở lại với Văn phòng AP ở Sài Gòn. Cứ 2 năm office thay một ông Bureau Chef mới. Ông nào cũng quý mến và bảo vệ người con gái duy nhất kém may mắn của AP. Tuy không phải là nhà báo, TMT đôi lần cũng được đi du lịch nước ngoài, sang Mỹ, rồi sang Nhật với danh nghĩa ký giả AP ở thời điểm 1971- 1972. Hồi đó ra nước ngoài rất khó. TMT đi rồi lại về, không hề nghĩ chuyện ở lại Mỹ. Ba Tú thương con gái, cứ dặn đi dặn lại: “Con đi chơi rồi về chứ đừng ở lại một mình xứ người.

Hình 8: Trần Mộng Tú (2a) Tokyo 1971, (2b) New York 1972. Tư liệu TMT

Hàng ngày tiếp xúc với các ký giả, phóng viên nhiếp ảnh từ các nơi tới, từ Mỹ sang. Họ đến rồi đi, Tú chưa hề nghĩ mình sẽ lập gia đình với một người nước ngoài. Ngay cả sau khi người chồng mới cưới của TMT tử trận, TMT cũng dửng dưng với những ký giả muốn làm thân.

Tuy không phải ký giả nhưng đôi khi TMT cũng phải chạy tới mấy nơi có họp báo để lấy tài liệu, ghi notes nếu các ký giả ra chiến trường hết. Có lúc Office vắng tanh cả tuần liền, chỉ còn Tú và ông Chánh Văn Phòng, TMT phải lo mọi việc từ mua hình, chạy đi lấy bản tin đến họp báo bỏ túi. Mấy photo stringer [chụp hình nghiệp dư] Việt Nam thì thích gặp Tú lúc tới bán hình vì bao giờ Tú cũng trả thêm cho họ, thay vì 20 US$ cho một tấm hình, Tú trả cho họ 25 US$ – trong đó có nhà báo Nguyễn Tú A, mà Tú còn nhớ.

Từ một cô học trò mới xong Trung Học, TMT rơi ngay vào môi trường báo chí của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. TMT học được nhiều giữa chiến tranh và đời sống. TMT nghĩ cũng nhờ đó mà Tú trưởng thành trong cách viết về chiến tranh sau này. Thỉnh thoảng TMT cũng sang văn phòng Tuần báo Times bên khách sạn Continental để đưa hay lấy một tài liệu gì đó, gặp nhà báo Phạm Xuân Ẩn. Mẫu người khắc khổ, ít nói nhưng Tú nhớ mỗi lần gặp, Phạm Xuân Ẩn tuy không cười nói vồn vã, nhưng thường nhìn Tú bằng ánh mắt hiền từ, không thấy giống điệp viên 007 chút nào.

TMT học việc rất nhanh. Chỉ khó khăn lúc đầu, thỉnh thoảng khi có biểu tình dưới phố, ngay trước tòa nhà Quốc Hội, mấy ký giả Mỹ lôi Tú xuống nhờ dịch mấy biểu ngữ, Tú lúng túng vô cùng vì không biết danh từ chuyên môn tiếng Anh về Đả Đảo, Hoan Hô. Dần dần làm lâu, nghề dạy nghề, cũng thông thạo. Bây giờ thì quên nhiều lắm rồi. Thỉnh thoảng, tòa soạn AP trống trơn, các ký giả ra chiến trường hết, nếu có “Họp Báo Chớp Nhoáng” bên MACV hay bên Bộ Dân Vận Chiêu Hồi, Chánh Văn Phòng cử TMT đi, Tú cũng biết ghi lại để mang về office cho ông.

BẦY CHIM BỎ XỨ * (Tên một tổ khúc của nhạc sĩ Phạm Duy)

NHỮNG NGÀY ĐẦU DI TẢN – TMT VÀ FRANK

Hơn ai hết, giới truyền thông báo chí Mỹ đã biết rất rõ số phận những ngày tháng Tư cuối cùng của Sài Gòn; và chuyến bay đầu tiên di tản nhân viên của hãng Thông tấn AP là vào ngày 21/4/1975.

Nhóm Việt Nam được di tản sớm gồm có: Trần Mộng Tú và ba mẹ, cùng với Nick Út, và gia đình Đặng Văn Phước. Khi tới Mỹ, họ được đưa ngay vào khu tạm trú ở Camp Pendleton – là một trại lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ gần San Diego. Do TMT có một người bạn tên John Parkson, trước làm cho NBC Sài Gòn, có văn phòng ngay cạnh AP, anh ấy mang theo người vợ Nhật vào trại thăm, thấy TMT có cha mẹ già nên muốn bảo lãnh cho ra ngay. TMT và ba mẹ ra trại ngày thứ Sáu 13/6/75, và ở nhà người bạn đó, nơi thành phố Encino, California. Mới được hai tuần lễ, thì có một ngân hàng Nhật tên Sumitomo Mitsui trên đường Figueroa, Los Angeles có opening cần mướn một thâu ngân viên / bank teller, TMT nộp đơn tới phỏng vấn, cùng với hai cô người Mỹ khác, may mắn sao họ nhận TMT, có lẽ thấy Tú là người Á Đông, lại thông thạo Anh Ngữ.

Cũng người bạn NBC ấy đã thuê cho gia đình TMT một apartment gần World Trade Center trên đường Figueroa nơi có ngân hàng Mitsui. TMT có thể từ nhà đi bộ tới chỗ làm việc vì lúc đó làm gì có xe, và cũng chưa đi học lái xe. Có việc thì mừng lắm, đi làm ngay nhưng TMT không biết là cô có thể hưởng trợ cấp và đi học miễn phí. Nếu biết, Tú chắc sẽ đi học một nghề gì đó.

Trừ Nick Út vì có giải Pulitzer (1973) với tấm ảnh “Em bé Napalm” được giữ lại làm phóng viên ảnh cho AP. Đặng Văn Phước, phóng viên nhiếp ảnh khác cũng được giữ lại nhưng anh Phước bị gửi sang Hồng Kông, do vất vả quá, nên xin thôi AP và trở lại Mỹ.

Các nhân viên khác thì AP cho nghỉ việc, mỗi người được AP cấp cho một số tiền là 3.000 USD, rồi tự túc sau đó. [Theo chuyên gia ngân hàng Võ Tá Hân, thì số tiền đó khá lớn, nếu tính theo thời giá bây giờ là khoảng hơn 16.000 USD].

TMT vẫn tin rằng mọi việc do Trời sắp đặt cả. Khi ấy, trong building có một chàng trai Mỹ tên Frank – có cha gốc người Anh và mẹ gốc Ái Nhĩ Lan, cũng mới dọn vào trước đó một tháng. Anh ấy vừa từ Orange County lên, và mới vào làm công chức. Hai người thỉnh thoảng gặp nhau ở khu Mail Box trong chung cư. TMT hỏi han đường xá, Frank tận tình chỉ dẫn, thấy Tú có cha mẹ già và nhà chưa có xe nên anh nhận đưa cha mẹ Tú đi nhà thờ cuối tuần, anh cũng là người theo đạo Thiên Chúa.

Rồi hai người, TMT và Frank nên duyên vợ chồng. Tháng 9/1976 – 7 năm sau ngày Cung mất, Frank và Tú chính thức lập gia đình, sau này TMT mới biết Frank nhỏ hơn 5 tuổi.

Lúc lập gia đình TMT gần như hai bàn tay trắng nhưng có được việc làm. Hai vợ chồng thuê apartment để ở. Khi sanh con đầu lòng, mẹ chồng cho tiền down mua căn nhà đầu tiên, hàng tháng chỉ trả ít, không phải cố gắng. Frank là người sống rất giản dị và chăm làm, anh nói Tú ở nhà trông con, một mình anh đi làm là đủ. TMT vẫn nhớ câu anh nói: Nếu em không muốn con em đưa em vào nhà dưỡng lão thì cũng không gửi con vào nhà trẻ. TMT ở nhà đến khi cháu út 11 tuổi Tú mới đi làm trở lại. Công việc mới sau này là thông dịch viên hữu thệ, khó thi vào nhưng TMT đã vượt qua, và làm công việc ấy trong lãnh vực y tế cho đến lúc nghỉ hưu.

Frank tốt nghiệp Đại học Công Giáo Loyola Chicago, có cử nhân toán, ban đầu đi làm công chức trong lãnh vực kế toán, nhưng than công việc chán quá! TMT bàn với chồng: anh nên đi học về computer, Tú nghĩ sẽ thích hợp hơn với anh. Lúc đó là thập niên 1980, môn học này tương đối rất mới. Frank nghe lời vợ, xin thôi đi làm. TMT bán nhà, trả hết tiền gốc, còn được bao nhiêu, hai vợ chồng dùng nửa số tiền đó down mua một căn nhà khác nhỏ hơn, số tiền còn lại cho Frank đi học. Frank học 6 tháng về Computer Programmer xong, có việc ngay, lương khá. Tú nói chưa được, anh phải vừa đi làm, vừa đi học thêm sao cho tương đương với trình độ 4 năm. Frank nghe, đi làm ra, đến UCLA học thêm, hết khóa này đến khóa khác.

Vẫn với bản năng đảm đang của người phụ nữ Việt Nam, chỉ biết lo cho chồng cho con. Tối nào sau khi dỗ cho con ngủ, TMT cũng đợi chồng tới 11 giờ khuya, tới khi chồng về cùng ăn bữa tối, mới đi ngủ. Frank sẵn giỏi toán, vào ngành điện toán như cá gặp nước. Đi làm ở đâu cũng thành công, và là nhân viên chính của hãng.

Đến bây giờ Frank vẫn nói: nhờ vợ mới có công việc thích hợp. Cũng để thấy, phụ nữ Việt Nam biết lo cho chồng con và xoay sở trên đất người như thế nào.

Khi TMT bị đẩy ra khỏi nước, cả gia đình Cung cũng ra đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác gì những người còn sống, cũng bị chiếm đoạt tài sản, cũng bị đuổi nhà. Ngôi mộ Cung trên miếng đất đã được Mẹ mua cho trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi cũng bị dời đi. Người anh họ còn ở lại, tìm cho anh một nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.

SEATTLE ĐẤT LÀNH CHIM ĐẬU 1988

Sau 13 năm sống ở California. Năm 1988, Trần Mộng Tú ở tuổi 45, đã cùng gia đình dọn về sống ở Seattle, tiểu bang Washington. Nơi có không khí trong lành và cuộc sống bình yên hơn Los Angeles. Cùng với năm tháng êm đềm trôi qua, ba đứa con đều đều tới tuổi trưởng thành: hai trai, một gái và các cháu nội ngoại và rồi ra ở riêng.

Frank không chỉ là người chồng mà còn là một người bạn. Frank quý mọi người và không kỳ thị. Anh tôn trọng những người bạn Việt Nam của TMT. Tới mức có một người bạn văn của TMT phải khen: Frank hiền như một ông thánh. TMT thì không nghĩ như vậy, vì ông thánh ấy cũng có lúc “biển động, núi gầm” nhưng do cả hai quan tâm tới nhau, tương kính như tân, và họ biết nhường nhịn, biết trân quý những ngày êm ả.

Về sở thích văn chương của TMT, Frank tuy không chia sẻ được trong việc sáng tác, nhưng khuyến khích và hỗ trợ vợ tối đa. Căn nhà rộng, hai vợ chồng mỗi người một phòng. Frank có master bedroom làm office luôn. TMT có một phòng và một office. Vẫn dư một phòng nên TMT làm thành phòng đọc sách kiểu Nhật. Chiếu trúc, gối trúc mang từ VN về.

Ở cửa phòng viết của TMT, Frank treo một dòng chữ viết tay ‘Quiet! Poet at work’ khi Tú ở trong đó, để các con không làm phiền mẹ.”

TMT tin vào số phận, nghĩ rằng Thượng Đế đã viết cho mỗi người một kịch bản, mình cứ thế mà theo mà đóng vai trò đã định sẵn, thế thôi. Tôi cám ơn Thượng Đế đã tạo ra tôi là một người biết yêu chữ nghĩa, nhất là yêu Thơ.

Hình 9: Trần Mộng Tú nơi thư phòng. Trên cánh cửa bên ngoài phòng làm việc của TMT có dán mảnh giấy với mấy chữ viết tay của Frank, chồng Chị: “Quiet! Poet at work”, sao cho đám con nhỏ không làm phiền mẹ. Hơn 40 năm sau ngày cưới, nay đã là ông bà nội ngoại, nhưng họ vẫn giữ được lễ “tương kính như tân”. Nguồn: Blog’s TMT

NHÀ THỜ TÂN ĐỊNH SÀI GÒN 23 NĂM SAU [11-1998]
… “Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi tìm Cung ở nhà thờ Tân Định. Tôi đi len lỏi giữa những dãy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T” là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có hình chỉ có ghi họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.

Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến. [Bình Thủy tháng 8-1969, Tân Định, tháng 11-1998] [5]

THƠ TMT TRONG SÁCH GIÁO KHOA MỸ NĂM 2000

Có ba sự kiện đáng nhớ năm 2000 trong sự nghiệp văn học của TMT:

(1) Từ năm 2000, có một giai đoạn Trần Mộng Tú viết truyện nhi đồng cho báo Los Angeles Times;

(2) Có thơ Anh ngữ trong sách giáo khoa Mỹ cho chương trình trung học (American Literature – Glencoe – 1999).

(3) Chủ Bút Nguyệt San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt ở California. (2002 – 2005).

Hình 10: Trần Mộng Tú viết truyện ngắn nhi đồng tiếng Anh mỗi cuối tuần trên báo Los Angeles Times từ năm 2000. Nguồn: L.A. Times archives

Trong bộ sách giáo khoa Glencoe Literature, trước khi giới thiệu bài thơ “Quà Tặng Trong Chiến Tranh, qua mục “Gặp Trần Mộng Tú”, tác giả bài thơ được giới thiệu như sau: Trần Mộng Tú người có trải nghiệm trực tiếp với chiến tranh, đã phát biểu: “Chiến tranh là điều khủng khiếp”. TMT sinh ở Hà Đông, Bắc Việt Nam. Cô và gia đình di cư vào Nam năm 1954. Do cuộc chiến tranh Đông Dương, Pháp đã bị lực lượng cộng sản đẩy ra khỏi Việt Nam. Rồi Miền Nam Việt Nam cũng không yên ổn được bao lâu, và một cuộc nội chiến nổ ra giữa cộng sản và người quốc gia không cộng sản. Tới thập niên 1960s, khi Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp vào cuộc Chiến tranh Việt Nam, thì TMT làm việc cho hãng thông tấn AP ở Sài Gòn. Khi Hoa Kỳ rút quân ra khỏi Việt Nam năm 1975 (thực sự Hoa Kỳ đã rút quân ra khỏi Việt Nam từ 1972, ghi chú của người viết), AP đã di tản nhân viên Việt Nam của họ do sợ bị cộng sản trả thù, TMT và gia đình cùng với nhiều ngàn người Việt khác đã tỵ nạn sang Hoa Kỳ. Từ bậc tiểu học, TMT đã mơ trở thành nhà văn, nhưng thơ văn của TMT chỉ thực sự được xuất bản tại Hoa Kỳ. Hiện nay TMT làm thơ, viết truyện ngắn cho các nhà xuất bản văn học tiếng Việt tại Hoa Kỳ và hải ngoại. TMT sinh năm 1943.[3]

Phần tiểu sử Trần Mộng Tú trong cuốn sách Giáo khoa Glencoe (2000), phải nói là thiếu sót, chỉ ghi cô làm cho hãng Thông tấn AP và làm thơ, nhưng đã không nói tới một sự kiện quan trọng ảnh hưởng trên suốt cuộc đời TMT, là cô trở thành quả phụ ở tuổi mới ngoài 20, khi người chồng mới cưới của cô đã tử trận chỉ 3 tháng sau ngày cưới.

Một chi tiết nữa khá quan trọng, là bài thơ Quà Tặng Trong Chiến Tranh bản gốc tiếng Việt là cuộc đối thoại đau xót giữa hai người: cô gái trẻ TMT và người chồng mới cưới vừa tử trận, nhưng bản dịch bài thơ sang tiếng Anh có đoạn lại trở thành cuộc độc thoại của “ngôi thứ nhất”. Sự sơ sót ấy vẫn lặp lại trong hai cuốn sách giáo khoa Mỹ xuất bản cách nhau 9 năm, [Visions of War 1991, và Glencoe Literature 2000].

Một bản dịch “Quà Tặng Trong Chiến Tranh” của Đặng Vũ Vương đúng với tinh thần nguyên bản tiếng Việt nhưng là 57 năm sau (1969 – 2023):

QUÀ TẶNG TRONG CHIẾN TRANH

GIFTS IN WARTIME

Em tặng anh hoa hồng

my gift to you a rose

Chôn trong lòng huyệt mới

to bury it inside the newly dug grave

Em tặng anh áo cưới

my gift to you my wedding dress

Phủ trên nấm mồ xanh

to drape it over the new green tomb

Anh tặng em bội tinh

you gave me the silver star

Kèm với ngôi sao bạc

that came along with the military medal

Chiếc hoa mai màu vàng

and the insignia of yellow apricot flowers

Chưa đeo còn sáng bóng

that are still shiny for being never worn

Em tặng anh tuổi ngọc

I gave you the jade-quality time

Của những ngày yêu nhau

Of the days of us loving each other

Đã chết ngay từ lúc

that died right away at the moment

Em nhận được tin sầu

when I received the dreadful news

Anh tặng em mùi máu

You gave me the smell of blood

Trên áo trận sa trường

still lingering on your battle dress

 Máu anh và máu địch

your blood and the enemy’s blood

Xin em cùng xót thương

and asked me to have pity on both

Em tặng anh mây vương

I gave you the hanging clouds

Mắt em ngày tháng hạ

the eyes of mine of summer days

Em tặng anh đông giá

I gave you the wintry freeze

Giữa tuổi xuân cuộc đời

In the middle of the spring of life

Anh tặng môi không cười

you gave me non smiling lips

Anh tặng tay không nắm

you gave me unclenched hands

Anh tặng mắt không nhìn

you gave me non seeing eyes

Một hình hài bất động

A totally non-moving form
 Anh muôn vàn tạ lỗi

I beg you I beg you to pardon me

 Xin hẹn em kiếp sau

with the hope of a next life ‘s reunion

 Mảnh đạn này em giữ

This shrapnel is for you to keep

Làm di vật tìm nhau.

as a token for us to find each other

Sài Gòn Tháng 7/ 1969

Trần Mộng Tú

Đặng Vũ Vương – Translated 4/16/2023

Hình 11: Từ trái, (1) bìa cuốn Sách Giáo khoa Văn Học Mỹ, (2) trang đầu của tác phẩm với thủ bút của nhà thơ Trần Mộng Tú tặng người viết, 3) trang tiểu sử, giới thiệu nhà thơ Trần Mộng Tú; (4) trang thơ tiếng Anh “Quà Tặng Chiến Tranh” với hai tấm hình tìm thấy được trên xác của một tử sĩ Bắc quân. American Literature Textbook, Glencoe/ McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000. Tư liệu Ngô Thế Vinh

Bài thơ “Quà Tặng Trong Chiến Tranh”, dịch sang Anh văn đã được chọn vào sách giáo khoa Mỹ (American Literature – Nxb Glencoe /McGraw-Hill) vào năm 1999, để cho các học sinh Trung Học có dịp so sánh với bài diễn văn The Gettysburg Address của Tổng Thống Abraham Lincoln đã làm nhiều người xúc động và tự hào.

TMT thì xúc động vì bài Thơ đó viết vào năm 1969, như một tờ vàng mã đã hóa trên phần mộ ở đất nước Việt ba mươi năm về trước, bây giờ ở trên đất Mỹ bài thơ được mang ra như một mảnh băng quấn lại một vết thương đã thành sẹo. Vết sẹo, thoảng có khi nào cúi xuống nhìn cũng chợt ửng đỏ. [6]

Một giai thoại về bà cô Trần Mộng Tú: có một câu chuyện hy hữu về cuốn sách, Jessy là tên một đứa cháu gọi Frank — chồng TMT bằng bác, năm đó Jessy học lớp 11 ở Houston, Texas. Khi cháu được học bài thơ “A Gift in Wartime” cháu giơ tay nói: Đó là bài Thơ của Cô tôi / My aunt. Nhưng không ai tin vì Jessy là thằng bé Mỹ đặc, tóc vàng mắt xanh. Tháng sau, cháu Jessy tới Seattle đòi chụp một tấm hình với Aunty Tú, rồi mang về lớp để làm bằng chứng, lúc đó thì tụi bạn Jessy mới thực sự tin.

Hình 12: Trần Mộng Tú 1994. Photo by Lê Phúc

2003 LOS ANGELES: THE ETHNIC PULITZERS

Năm 2003, Trần Mộng Tú được The New California Media (NCM) trao giải thưởng báo chí cho bài “Bình Luận”: Một chốn Bình an [A Safe Place], đã được đăng trên trên nguyệt san Phụ Nữ Gia Đình. Giải thưởng đặc biệt này còn có tên gọi là “The Ethnic Pulitzers”.

Tổ chức NCM đã viết về TMT như sau: “Trần Mộng Tú đã được biết tới trong thế giới truyền thông từ 1965 [*từ 1968, ghi chú / hiệu đính của người viết] như một thư ký của hãng thông tấn AP Sài Gòn. Khi chiến tranh chấm dứt năm 1975, Trần Mộng Tú đã thoát ra khỏi Việt Nam như một người tỵ nạn. Với lòng yêu văn chương Việt Nam cùng với những cảm xúc của tình cảnh lưu vong đã biến cô thành một nhà văn. Cùng với công việc của một chủ bút, Trần Mộng Tú còn phụ trách mục bình luận trên tờ báo tiếng Việt, đúng như tên gọi quan tâm tới các vấn đề “Phụ nữ và Gia đình”. Trần Mộng Tú đã viết và xuất bản một tập thơ và một cuốn truyện ngắn. Bài bình luận được thắng giải của Trần Mộng Tú viết về đứa con gái của bà lên New York làm việc thiện nguyện cho hội Hồng Thập Tự ngay sau biến cố 9/11/2001. Bỗng chốc, bà cảm thấy nước Mỹ nơi bà chọn đi tỵ nạn sau cuộc chiến tranh xâu xé ở Việt Nam, không còn là một chốn bình an như bà vẫn nghĩ. Với lòng hãnh diện và cả với những nỗi lo âu cho đứa con của mình trên xứ sở đang dung thân, đã thúc đẩy bà viết bài báo này.Trần Mộng Tú phát biểu: “Mặc dầu đó là mối lo của một bà mẹ Việt Nam, nhưng cũng là mối lo của tất cả các bà mẹ khác.”

Hình 13: Năm 2003, Trần Mộng Tú được The New California Media (NCM) trao giải thưởng báo chí cho bài “Bình Luận”: Một chốn Bình an / A Safe Place, đã được đăng trên tờ nguyệt san Phụ Nữ Gia Đình. Giải thưởng đặc biệt này còn có tên gọi là “The Ethnic Pulitzers”. Nguồn: tư liệu TMT

Hình 14: hình chụp 2002 tại tòa soạn nhật báo Người Việt, từ trái Minh Phú, Đỗ Quý Toàn, Trần Mộng Tú, Bùi Bích Hà, Hoàng Vĩnh, Phạm Phú Minh. Cũng là thời gian Trần Mộng Tú đang làm chủ bút Nguyệt San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt ở California, cùng với nhà văn Bùi Bích Hà làm Chủ nhiệm (20022005). Tư liệu NT Ngọc Dung

Hình 15: Bìa Tuyển tập Thơ Song ngữ Nàng Thơ Ngạo Mạn / The Defiant Muse, do The Feminist Press at the City University of New York xuất bản 2007, có duy nhất một bài thơ Trần Mộng Tú “Con Mèo Cô đơn – The Lonely Cat”.

HỘI NGỘ AP 36 NĂM SAU: SAIGON 1975 – LITTLE SAIGON 2011

Năm 2011, tại hải ngoại, lần đầu tiên có một buổi hội ngộ các cựu nhân viên Văn Phòng Associated Press Saigon tại tòa báo Người Việt, Little Saigon, California.

Hình 16: Năm 2011, tại hải ngoại có một buổi họp mặt các cựu nhân viên Văn Phòng Associated Press Saigon tại tòa báo Người Việt, Little Saigon, California. Từ trái: Neal Ulevich ( AP), Terry Wolkerstofer (nhà báo tự do), Carl Robinson (AP ), Trn Mng Tú (AP) và Frank (chồng TMT), Phương Dung Robinson (vợ Carl), Đặng Văn Phước, áo khoác đen (phóng viên nhiếp ảnh AP), Murray Fromsen (nhà báo tự do), Linda Deutch (nhà báo tự do), Valerie Komor (nhà báo tự do), Nick Út (phóng viên nhiếp ảnh AP), Edie Lederer (nhà báo tự do), Dick Pyle (Trưởng phòng Thông Tấn AP) và vợ; người ngồi phía trước cầm tấm hình là Lư Xây (chuyên viên phòng tối rửa hình của AP). Tư liệu và ghi chú của Trần Mộng Tú

2016 ĐỐT HÌNH ĐÁM CƯỚI VÀ ĐÁM TANG

Tôi nghĩ mình đã bước vào tuổi cuối đời rồi, lúc đó TMT đã bước qua tuổi 70, không biết “Cuốn theo chiều gió” lúc nào. Không nỡ để lại lúng túng cho mấy đứa con. Chúng đốt thì sợ Mẹ buồn, giữ thì không biết để đâu. Thôi thì mình tránh cho ai được cảnh lúng túng đau lòng thì nên tránh. Mình quen với đau lòng rồi. Bây giờ tôi còn giữ lại một chút tàn tro.

Hình đám cưới và đám tang gần 100 tấm. Đã đốt hết một nửa ở nhà. Còn một nửa mang xuống Cali đốt tiếp. Lúc đốt cũng đau lòng lắm, nước mắt nước mũi giàn giụa.

Hình 17: Đốt hình đám cưới, đốt hình đám tang ngày 31/10/2016, trong giàn giụa nước mắt, rũ bỏ kỷ niệm, trả về với “tro than” trong sân nhà Chị Bùi Bích Hà. Tư liệu TMT.

TMT không sao nhớ được đã viết xuống bao nhiêu bài thơ. Vì trong cả 15 năm đầu ở hải ngoại, chưa có computer nên toàn viết tay, lúc nào TMT cũng làm thơ được. Đang lái xe, ngưng lại ở góc đường hay kẹt xe ở xa lộ cũng viết được những câu thơ chợt đến. Hồi đó đã có lần tông vào cột telephone rồi. Một lần tông vào cái xe truck đằng trước vì lúi húi viết trên volant. Bây giờ thỉnh thoảng dọn lại tủ sách, hoặc giữa đống sách vở chung quanh nhà, gặp một bài thơ, không biết viết từ bao giờ.

Nhiều người nhắc tới Bình Thủy 1969gọi đó là truyện ngắnnhưng thực sự đó là một “tự truyện” của TMT; được nhà văn Phùng Nguyễn đánh giá đó là một “Hồi Ký về Chiến Tranh hay nhất. [6]

2009 CÔ GÁI TRONG HÌNH CÓ PHẢI TÔI KHÔNG?

Có người gửi tôi tấm hình trên mạng

cô gái Sài Gòn áo trắng khăn tang

đi trong Sài Gòn bốn mươi năm cũ

cô gái trong hình có phải tôi không?

Ô hay tại sao tự nhiên tôi nhận

Sài Gòn cả trăm cô gái giống tôi

cả ngàn khăn tang trên đầu góa phụ

góa phụ còn hồng một vệt son môi

Ô hay tại sao tự nhiên tôi chối

Sài Gòn ngày ấy trắng toát khăn tang

những cô trẻ lắm mắt đầm đìa lệ

theo tay ai dắt đi vào nghĩa trang

Sài Gòn bây giờ khói nhang đã tắt

góa phụ ngây thơ tóc đã phai xanh

nhìn lại tấm hình nhận ra cô gái

khẽ gọi tên cô Trần Thị Chiến Tranh.

Tmt 30/ 04/ 2009

VẪN VỚI MỘT CHỮ NẾU

Nếu mùa Xuân có thật

Em sẽ quên tất cả những mùa khác

Nếu anh sống sót trở về

Em sẽ quên như chưa hề có chiến tranh.

_ tmt

2023 NHƯNG RỒI VẪN CỨ MÃI MỘT BÀI THƠ THÁNG 4 Ở ĐÂY

Hôm qua

ở đây là ngày đầu mùa xuân

tờ lịch rơi xuống một nụ đào

Tháng Ba sắp hết

Tháng Tư như lệ sắp trào

 

Tháng Ba ở quê tôi năm đó

thành phố nào thảng thốt

con đường nào chảy máu

bãi biển nào oan khiên

Một người lính vừa tự kết liễu đời mình

 

Giày trận có linh hồn

nón trận có khối óc

áo nhà binh có gói một trái tim

tất cả phủ trên anh

thành một bài “Truy Điệu”

 

Tháng Ba

người giẫm đạp lên nhau

chiếc thuyền lao ra biển

tiếng kêu thất thanh

tiếng khóc như cánh chim bay lạc

 

Tháng Ba

con chạy về tìm Mẹ

Con đi đi

Mẹ già rồi ở lại

 

Tháng Ba

Chồng chạy về tìm vợ

Em đi đi

Các con đi đi

Anh là lính

Anh ở lại

 

Thế là Mẹ mất con

Không biết mất nơi nào

Thế là vợ mất chồng

Không biết mất ở đâu

 

Tháng Tư

cả nước mất nhau

mất tất cả

không còn gì

 

Vật ngoài thân

thời gian tìm lại được

Nhưng mảnh vỡ trong tim

đã rơi dần từng mảnh

ngay bước đầu tiên

trên con đường di tản

không bao giờ tìm lại được

 

Người di tản

của bất cứ quốc gia nào

trái tim cũng mất dần từng mảnh

nên khi chết

họ chết với một trái tim không nguyên vẹn

có người chết

với lồng ngực rỗng

họ mất nguyên cả trái tim

 

Tháng Ba ở đây vào Xuân

tháng Tư đầy hoa đào nở

mỗi đóa hoa như một giọt nước mắt hồng

rơi xuống trái tim tôi.

 

– tmt

(Vào Xuân 3-20-2023)

THƠ VÀ CHỮ TMT: MỘT SUỐI NGUỒN TƯƠI TRẺ

Kể từ bài thơ đầu tiên, cho tới nay Trần Mộng Tú đã có hơn nửa thế kỷ làm thơ, viết văn, viết báo. Bước qua tuổi “cổ lai hy”, chưa có dấu hiệu gì là TMT chậm lại. Vẫn có đó một TMT như một suối nguồn tươi trẻ, luôn luôn mới mẻ, và tưởng như là bất tận.

thể nói cái hay của thơ của TMT là sự giản dị, không bị gò bó trong nguyên tắc hay một thể thơ nào, thơ của TMT chỉ như “chuyện kể” hoặc ngắn như một “bản tin” và chất thơ là ngay nơi mỗi con chữ. Không chỉ làm thơ, nhưng TMT còn viết văn – văn của Chị như một thể thơ xuôi – prose.

Ngày nào mà Trần Mộng Tú còn thở, còn hiện diện trên thế gian này, vẫn còn những trái ngọt hay cả với những trái đắng từ “thực phẩm trần gian – les nourritures terrestres [tên một tác phẩm thơ xuôi của André Gide, 1897], và Trần Mộng Tú vẫn còn làm thơ, thơ và chữ chính là hơi thở cuộc sống của Trần Mộng Tú.

Để có thể viết đầy đủ về cuộc đời rất đặc biệt của nhà thơ Trần Mộng Tú, thật sự phải cần tới một cuốn sách. Cũng nhân đây gợi ý với các bạn trẻ trong và ngoài nước, đang chuẩn bị cho một luận án văn học, Trần Mộng Tú – đi ra từ chiến tranh, nhưng lại là “biểu tượng của một nền văn hóa hòa bình”, và chân dung TMT sẽ là một đề tài hấp dẫn và phong phú để các bạn trẻ khám phá dấn thân vào.

NGÔ THẾ VINH

Little Saigon, Fourth of July 2023

__________

Tham Khảo:

1/ Visions of War, Dreams of Peace. Writing of Women in the Vietnam War. Warner Books, New York 1991

2/ Shrapnel in The Heart. Letters and Remembrances from the Vietnam Veterans Memorial. Laura Palmer. Vintage Books, New York 1987.

3/ American Literature Textbook, Glencoe/ McGraw-Hill, A Division of McGraw-Hill Companies, 2000

4/ NPR* Celebrated Military Nurse, Poet Revealed as a Fraud _ September 30, 2006 https://www.npr.org/2006/09/30/6173681/celebrated-military-nurse-poet-revealed-as-a-fraud

5/ Bình Thủy 1969. Hồi ức Trần Mộng Tú. Mưa Sài Gòn Mưa Seattle. Nxb Văn Mới, California (2006).

6/ Ba câu hỏi cho Trần Mộng Tú. Phùng Nguyễn. Da Màu 27/09/2016: https://damau.org/44226/ba-cau-hoi-cho-tran-mong-tu

Nhiệm vụ khó khăn nhất của Israel

 FAZ

Tác giả: Christoph Ehrhardt, Gregor Grosse Christian Meier

Vũ Ngọc Chi, chuyển ngữ

19-10-2023

Cuộc tấn công trên bộ của Israel vào Dải Gaza là một thách thức lớn đối với quân đội của họ. Nước này là một trong những cường quốc quân sự hàng đầu, nhưng Hamas và Hezbollah cũng rất mạnh. Một cái nhìn tổng quan.

Từ Cần Tiên, viên tướng dũng cảm đã chống lệnh của Đặng Tiểu Bình và Quân ủy Trung ương Đảng CSTQ

Bùi Xuân Bách

8-7-2021

Ngày mồng 4/6/1989, quân đội TQ đã đàn áp dã man cuộc biểu tình đòi dân chủ của sinh viên, học sinh trên quảng trường Thiên An Môn. Nhiều đơn vị lớn của Quân đội được điều về Bắc Kinh tham gia trấn áp, trong đó có Tập đoàn quân 38, đóng tại Bảo Định, vùng trung tâm tỉnh Hà Bắc, cách Bắc Kinh khoảng 150km về phía Tây Nam.

Chuyện nhà thì quáng, chuyện ngoài thì sáng

BBT Tiếng Dân

12-11-2021

Từ khi Bộ trưởng Tô Lâm ăn thịt bò dát vàng bên Anh bị lộ, hơn một tuần qua, cả hệ thống truyền thông “lề đảng” im như thóc. Cũng câu chuyện tương tự, xảy ra hơn ba năm trước với tổng thống Nicolás Maduro của Venezuela, thì nhiều tờ báo trong nước lớn tiếng lên án.

Ma Cao kế tiếp? Canh bạc lớn của Trung Quốc ở Campuchia

LTS: Những gì đang diễn ra ở thành phố Sihanoukville, Campuchia, cũng sắp diễn ra ở Việt Nam, tại các đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc. Mặc dù luật đặc khu chưa chính thức thông qua, thế nhưng các nhà đầu tư Trung Quốc đang có mặt tại các đặc khu nói trên, họ đang chuẩn bị sẵn sàng để triển khai các dự án đã lên kế hoạch.

Hãy nhìn vào các đặc khu Sihanoukville ở nước láng giềng Campuchia, hay Boten ở Lào, để thấy rằng người dân bản xứ đã bị gạt qua bên lề xã hội, nơi tổ tiên họ đã sống nhiều thế hệ, để rồi bây giờ họ bị chính quyền buộc phải nhường sân chơi cho những người đến từ phương Bắc và các đại gia lắm tiền nhiều của.

Tin tặc đánh giặc cứu Ukraine

Guardian

Đinh Từ Thức, chuyển ngữ

18-3-2022

LGT: Ngày 15-3-2022, hai tác giả Chris Stokel-Walker và Dan Milmo có bài viết đăng trên báo Guardian có tựa đề: ‘It’s the right thing to do’: the 300,000 volunteer hackers coming together to fight Russia. (Đó là việc làm chính đáng: 300.000 tin tặc tình nguyện họp lại để đánh Nga). Sau đây là nội dung bài dịch:

Sân golf Phan Thiết – Bài 4: Kế hoạch hoàn hảo

Phan Bình Minh

25-5-2020

Tiếp theo bài 1bài 2bài 3

I. Từ sình lầy thành kim cương

Sân golf Phan Thiết với tên gọi chính thức là Sân golf Ocean Dunes, gồm 18 lỗ nằm ngay trung tâm thành phố Phan Thiết, thuộc tỉnh Bình Thuận. Trước đây, khu vực này là một đầm lầy ven biển, sau đó được cải tạo và xây dựng thành một sân golf lấy tên là Ocean Dunes và ngay cạnh đó là khách sạn nổi tiếng Vĩnh Thủy nhìn ra đại dương, nghe thấy tiếng sóng biển.

Ai phải “tạ tội với Hoàng Sa”?

Blog RFA

Gió Bấc

25-1-2024

Mời đọc lại bài trên Tiếng Dân: Khu tưởng niệm Hoàng Sa, nỗi đau và chiếc “bánh vẽ” lòng yêu nước…  —  Lý do gì mà khu tưởng niệm “Nghĩa sĩ Hoàng Sa” ở huyện đảo Lý Sơn ngưng xây dựng?

Kỷ niệm 50 năm ngày Trung Công xâm chiếm Hoàng Sa trôi qua lặng lẽ trên hầu hết tờ báo lề đảng. Không có những trang tuyên truyền rầm rộ như 50 năm chiến thắng Đện Biên Phủ trên không hay 50 năm chiến thắng Mậu Thân với hình ảnh lễ lạc, phát biểu của lãnh đạo…

Chủ tịch nước bị loại giữa lúc vụ bê bối Covid bị phanh phui

Asia Sentinel

Tác giả: David Brown

Song Phan chuyển ngữ

17-1-2023

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc. Nguồn: VNE

Nguyễn Xuân Phúc theo các đồng minh Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam về vườn

Nửa thế kỷ cải tạo làm cạn kiệt tài nguyên, một Đồng bằng Sông Cửu Long đang chết dần

Ngô Thế Vinh

8-2-2023

Gửi ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL không được quyền có tiếng nói

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

順天者存,逆天者亡

Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong

Thuận với thiên nhiên thì còn.  

Nghịch với thiên nhiên thì mất. [Mạnh Tử]

“Kế hoạch phát triển nào cũng phải tính tới cái giá môi sinh phải trảenvironmental costs đối với sức khoẻ của người dân và cả trên nguồn tài nguyên lâu dài của đất nước.”  Ngô Thế Vinh

***

Lời Dẫn Nhập: Trong lịch sử cận đại, kể từ sau 1975, cụm từ “cải tạo” của người Cộng Sản Việt Nam, trong mọi lãnh vực, hàm chứa một nội dung tồi tệ nhất, chỉ có ý nghĩa độc ác, tha hoá con người, huỷ hoại môi sinh, làm cạn kiệt mọi nguồn tài nguyên, và để lại một đất nước không có tương lai. Đây là bài thứ 2 viết về 48 năm cải tạo Đồng Bằng Sông Cửu Long của nhà nước CS Việt Nam đã và đang phá huỷ cả một vùng châu thổ phì nhiêu nhất Châu Á và cũng là của thế giới, và làm nghèo cả một đất nước ra sao.

BÀI HỌC VỠ LÒNG: DÒNG CHẢY SINH THÁI (1)

Câu nói dân gian của ông bà từ các thế hệ khai phá đất phương Nam đã trối trăng lại cho con cháu là làm gì thì làm, nhưng nhứt định không được “ngăn sông cấm chợ” vì nó trái với tinh thần tự do phóng khoáng của người dân ĐBSCL [TS Dương Văn Ni, ĐH Cần Thơ].

Ngay cả với giới khoa học môi trường, khái niệm về “Dòng Chảy Sinh Thái” không mới.

Trước thập niên 1950s, hầu như mọi mối quan tâm đều tập trung vào khai thác tiềm năng nguồn nước từ các dòng sông để phát triển, dẫn tới việc xây dựng ồ ạt các đập thuỷ điện và đổi dòng những con sông lớn nhỏ trên khắp hành tinh này.

Sang đến thập niên 1970s, người ta mới bắt đầu nhận ra những hậu quả tác hại  của những con đập trên các dòng sông do những bước phát triển không bền vững ấy – unsustainable development – đặc biệt là sự suy thoái phẩm chất nguồn nước và tác động tiêu cực tới hệ sinh thái nên đã quan tâm sửa chữa.

Tới thập niên 1990s, tầm quan trọng của chế độ thuỷ văn tự nhiên – dòng chảy (flow regime) rất được quan tâm, và được coi như một “chỉ dấu lành mạnh” của dòng sông với toàn thể hệ sinh thái nước ngọt (healthy freshwater ecosystems).

Tại những quốc gia tiên tiến, với sửa sai kịp thời, người ta đã đạt được một số cải thiện về phẩm chất nước, nhưng tính đa dạng sinh học của nguồn nước vẫn còn bị suy thoái. Vậy nguyên nhân chính của thiếu sót ấy là gì?

Đó là: “dòng chảy – flow,  được coi là biến số chủ yếu – master variable” ảnh hưởng trên mọi biến số khác như: phẩm chất nước, chu kỳ năng lượng (energy cycle), môi trường sống (physical habitat), và những ảnh hưởng tương tác sinh học (biotic intereactions) – để cùng điều hoà các hệ sinh thái nước ngọt (freshwater ecological systems). [Karr 1991, Poff et al 1997]. (1)

Hình 1: Dòng chảy sinh thái được hiểu như dòng chảy với lượng nước và phẩm chất nước của con sông chảy thông suốt qua thời gian. Sự đo lường này được căn cứ trên toàn thể lượng và phẩm chất của dòng chảy nhằm duy trì một hệ sinh thái nước ngọt thiết yếu cho sự sống và con người phụ thuộc vào. Dòng chảy sinh thái với 5 yếu tố cần được quan tâm: (1) Thuỷ học; (2) Sinh học; (3) Phẩm chất nước; (4) Liên hệ với đất đai; (5) Cấu trúc địa hình. https://www.alberta.ca/about-environmental-flows.aspx (1)

Người ta đã bắt đầu nêu ra tiêu chuẩn về dòng chảy tối thiểu (minimum flows) để làm loãng ô nhiễm (pollution dilution), giữ cho dòng sông ít bị tổn thương để bảo vệ sinh hoạt dân cư và  các loài cá cùng những sinh vật sống dưới nước.

Nếu “biến số chủ yếu / master variable là dòng chảy” không được duy trì và chỉ điều chỉnh vài biến số khác là hoàn toàn không đủ để phục hồi một hệ sinh thái lành mạnh.

Những biến đổi do con người gây ra (anthropogenic alterations) trên “chế độ dòng chảy thiên nhiên” là nguyên nhân khủng khoảng tính đa dạng sinh học của hệ thống nước ngọt toàn cầu hiện nay, đó là: các cống ngăn chặn dòng chảy, các con đập, sự đổi dòng lấy nước, xả nước thải vào nguồn nước, khai thác đất đai và biến đổi khí hậu.

Duy trì dòng chảy sinh thái cần tới những phương thức nhất quán và giao thoa  (interdisciplinary) với nhiều lãnh vực. Tổ chức Bảo Tồn Thiên Nhiên / The Nature Conservancy khuyên nên dùng một “khung bậc – hierarchical framework” để phát hiện mẫu của dòng chảy nhằm mau chóng áp dụng các biện pháp quản trị thích nghi (adaptive management of flow). (1)

Một cách khái quát, có thể định nghĩa Dòng Chảy Sinh Thái của sông Mekong-Cửu Long dài 4.800 km chảy qua 7 quốc gia (Tây Tạng được kể là một quốc gia ) như sau:

“Mekong – Cửu Long là mạch sống, để bảo vệ mạch sống ấy là duy trì một “dòng chảy sinh thái  – environmental flow, cần thiết để bảo vệ lưu vực như một  toàn thể hệ sinh thái lành mạnhbền vững”, cụ thể hơn là duy trì một chế độ dòng chảy với nguồn nước sạch với phù sa, nuôi dưỡng một hệ thủy sinh (tôm cá, rong tảo và các vi sinh vật) và một nền canh nông phong phú (lúa gạo, cây trái), đó là nguồn lương thực thiết yếu, và cũng là bảo vệ những nền văn hóa ven sông của 70 triệu dân đang sống trong lưu vực.”

CHUỖI ĐẬP THUỶ ĐIỆN THƯỢNG NGUỒN SÔNG MEKONG

Hẳn mọi người không quên, là tuy đã bước sang cuối thập niên thứ hai của Thế Kỷ 21 (2017), mà TS Phạm Tuấn Phan, sinh quán Hà Nội, có bằng tiến sĩ vật lý và điện toán Đại học Belarus thuộc khối Liên Xô cũ, nguyên Giám đốc Điều hành Ban Thư ký Uỷ hội Sông Mekong (CEO / MRC Secretariat) nhiệm kỳ 2016-2018, là người bản địa đầu tiên trong lưu vực được vinh dự đảm trách chức vụ quan trọng và danh giá này, mang hai căn cước: một công dân Việt Nam và một công dân Mekong.

Tại Diễn đàn Khu vực họp tại Luang Prabang ngày 22/02/2017, liên quan tới Dự án thuỷ điện Pak Beng 912 MW, con đập dòng chính (mainstream dam) thứ ba của Lào, khi trao đổi với nhóm nhà báo – trong đó có phóng viên môi sinh Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị, TS Phạm Tuấn Phan đã mạnh mẽ phát biểu: “Thuỷ điện không khiến dòng Sông Mekong sẽ chết. Tôi nghĩ chúng ta nên hiểu rõ điều này trước đã“. Chắc chắn ông Phan sẽ không nói câu đó nếu ông hiểu được một điều rất cơ bản: thế nào là “Dòng chảy Sinh Thái để giữ cho con sông Mekong không chết. [Hình 2]

Phát biểu của ông Phạm Tuấn Phan trong vai trò lãnh đạo Uỷ Hội Sông Mekong / Mekong River Commission, một tổ chức liên quốc gia [Lào, Thái Lan, Cambodia, Việt Nam] không những lỗi thời, thiếu cơ sở khoa học, đi ngược lại quan điểm của bao nhiêu tổ chức bảo vệ môi sinh quốc tế và ngay trong lưu vực sông Mekong từ nhiều năm nay. Quan điểm sai trái của TS Phạm Tuấn Phan đã gây tác hại cho nỗ lực bảo vệ sông Mekong bấy lâu và cả rất thiếu trách nhiệm với các cộng đồng cư dân ven sông, trong đó có ngót 20 triệu cư dân trên chính vùng đất mẹ của ông, nơi mà “những người nông dân ĐBSCL đang khốn đốn muốn chết“, và một số không ít – ngót 2 triệu người, đã rời bỏ quê hương đi tha phương cầu thực là điều rất dễ thấy.

Hình 2: phải, tại Diễn đàn Khu vực họp tại Luang Prabang ngày 22/02/2017 liên quan tới Dự án thuỷ điện Pak Beng – con đập thượng nguồn dòng chính thứ ba của Lào, khi trao đổi với nhóm nhà báo, trong đó có phóng viên môi sinh Lê Quỳnh (5), báo Người Đô Thị (người cầm máy ghi âm), ông Phạm Tuấn Phan Giám đốc Điều hành Ban Thư ký Uỷ hội sông Mekong đã mạnh mẽ phát biểu: “Thuỷ điện không khiến dòng sông Mekong sẽ chết. Tôi nghĩ chúng ta nên hiểu rõ điều này trước đã.” Chắc chắn ông Phạm Tuấn Phan sẽ không nói câu đó nếu ông hiểu thế nào là “Dòng chảy Sinh Thái” để giữ cho con sông Mekong không chết [Photo by Thiện Ý]; trái, phóng viên môi sinh Lê Quỳnh, trên khúc sông Mekong Bắc Lào. Nguồn: Earth Journalism Network, 2017

Từ ngót ba thập niên qua, người viết và Nhóm Bạn Cửu Long (5) đã không ngừng lên tiếng về mối nguy cơ từ những con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam (Lancang-Mekong Cascades) của Trung Quốc, tiếp theo đó là chuỗi 9 con đập thuỷ điện dòng chính của Lào, rồi tới 2 dự án đập của Cambodia, tác hại trên toàn hệ sinh thái lưu vực Sông Mekong và ĐBSCL ra sao, như: làm nghẽn dòng chảy, mất lưu lượng nước, mất nguồn phù sa nơi các hồ chứa thượng nguồn, đã dẫn tới một tiến trình đảo ngược nơi ĐBSCL, thay vì được bồi đắp như bấy lâu thì nay đang dần dần tan rã, với các bờ sông và bờ biển bị sạt lở và mũi Cà Mau thì bị cắt lẹm mất đất 600 ha mỗi năm.

Kể từ ngày Ngoại trưởng nhà nước Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm phạm phải một sai lầm chiến lược khi đặt bút ký Hiệp định Uỷ hội sông Mekong / MRC / Mekong River Commission năm 1995 từ bỏ quyền phủ quyết [veto power] vốn đã có trong Hiệp ước Uỷ Ban Sông Mekong / Mekong River Committee từ năm 1957 thời Việt Nam Cộng Hoà.

Thực tế cho thấy trong ngót nửa thế kỷ qua, Việt Nam là một quốc gia cuối nguồn, đã hoàn toàn bất lực, không những không làm gì được để ngăn chặn bất cứ một dự án thuỷ điện nào phía thượng lưu – còn phải kể thêm là chính các công ty quốc doanh Việt Nam – trên thực tế là các nhóm lợi ích, đã đồng loã góp tay góp vốn xây dựng một số đập thuỷ điện ở Lào và Cambodia, thúc đẩy thêm cho quá trình tự huỷ hoại ấy.

_ Tại Lào: Công ty quốc doanh Dầu khí Việt Nam (PVPC / PetroVietnam Power Co.) đã được chính nhà nước CS Việt Nam bật đèn xanh cho đem vốn sang làm chủ đầu tư cho con đập dòng chính Luang Prabang 1.460 MW lớn nhất trên lãnh thổ Lào, mà ai cũng biết con đập thượng nguồn ấy có tác dụng huỷ hoại mau chóng hơn cả một hệ sinh thái ĐBSCL vốn đã mong manh, với cái giá kinh tế và xã hội rất cao mà 20 triệu dân của 13 tỉnh Miền Tây sẽ phải gánh trả, với ảnh hưởng trực tiếp trên luống cày, trên từng ngụm nước uống, và cả trên chén cơm tô cá của họ. [KS Phạm Phan Long, Việt Ecology Foundation] (6) [Hình 3 a]

_ Tại Cambodia: Công ty Quốc doanh Điện Lực Việt Nam/ EVN (Electricity of Vietnam) đã góp 10% cổ phần trong số 816 triệu MK, để xây dựng con đập phụ lưu Hạ Sesan-2 (Lower Sesan 2) 400 MW lớn nhất của Cambodia, phần còn lại là của Nhóm Hoàng Gia Cam Bốt / Cambodia Royal Group và Công ty Năng lượng Lan Thương Trung Quốc/ Hydrolangcang International Energy Co., Ltd. Lại vẫn Trung Quốc, ngoài chuỗi đập bậc thềm Vân Nam, nay cánh tay TQ nối dài xuống xa tới cả những con đập phụ lưu hạ nguồn. [Hình 3 b]

Hình 3: Các công ty quốc doanh của nhà nước CSVN kết hợp với các nhóm lợi ích – bất kể đạo lý, đi tìm nguồn lợi nhuận bất cứ ở đâu – cho dù có hại cho đất nước mình ra sao. Trái, công ty quốc doanh Dầu khí PetroVietnam là chủ đầu tư con đập Luang Prabang 1.460 MW, con đập thuỷ điện dòng chính lớn nhất của Lào. (6) Nguồn: Michael Buckley]. Phải, công ty quốc doanh Điện lực Việt Nam / EVN góp vốn góp công vào dự án Hạ-Sesan-2 (LS2) 400 MW, đập thuỷ điện phụ lưu lớn nhất của Cambodia đã ảnh hưởng tác hại trực tiếp tới ĐBSCL, Việt Nam. Nguồn: Decarboni

Câu hỏi được đặt ra là, tại sao nhà nước CS Việt Nam không thể không biết nhưng họ vẫn coi nhẹ những tổn thất môi sinh và xã hội như thế. Câu trả lời rõ ràng: khi mà giới lãnh đạo Hà Nội có toàn quyền quyết định, lại được các nhóm lợi ích chia chác cho hưởng lợi, trong khi người dân không được phép có tiếng nói và phải gánh chịu mọi tổn thất và cả di luỵ cho các thế hệ tương lai.

Hình 4: Cảnh khô hạn nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long. Và mọi người vẫn không quên sự kiện đau lòng, vào cuối tháng 3 năm 2016, nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng đã phải vô vọng kêu cứu Trung Quốc xả nước từ đập thuỷ điện Cảnh Hồng / Jinghong Dam để cứu hạn cho ĐBSCL, nhưng vô ích và đó cũng chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Nguồn: VNExpress 03.11.2016

Trước nguy cơ: mất dòng chảy, mất nguồn nước ngọt, mất phù sa, và cả một vùng châu thổ phì nhiêu là ĐBSCL đang bị lún dần và chìm trong biển mặn, hậu duệ của những thế hệ dũng mãnh tiên phong khai phá trong cuộc Nam Tiến cách đây mới hơn ba trăm năm, nay đang bị tê liệt, không được quyền cất tiếng nói và phải tủi nhục chấp nhận lùi bước trước thảm hoạ có thể bị xoá đi cả một nền Văn Minh Miệt Vườn và trong một tương lai không xa, có thể vào thế kỷ tới nếu không có được một giải pháp cứu nguy tức thời. Rồi ra sẽ có những đợt tỵ nạn môi sinh (ecological refugees) lớn hơn, trên tầm vóc quốc gia, vào giữa thế kỷ 21 này.

LÃNH ĐẠO TỪ MIỀN BẮC

Cả ba miền Bắc, Trung, Nam đâu có thiếu nhân tài, nhưng do từ nhân cách và tính độc lập của họ, đã khiến những tài năng và nguồn chất xám ấy đã bị thể chế hy sinh một cách không thương tiếc.

Từ ngày Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn [NN & PTNT] được chính thức thành lập từ 1995, trải qua 4 đời Bộ trưởng đều có gốc gác từ Miền Bắc:

_ Nguyễn Công Tạn, Thái Bình, Bắc phần 1995-1997

_ Lê Huy Ngọ, Thanh Hoá, Bắc phần, 1997-2004

_ Cao Đức Phát, Nam Định, Bắc phần, 2004-2016

_ Nguyễn Xuân Cường, Hà Tây, Bắc phần, 2016-2021

Trong suốt khoảng thời gian đó, có thể nói ĐBSCL – một hệ sinh thái mong manh có thể ví như một cơ thể sống, đã bị các lãnh đạo từ ngoài Bắc vào không ngừng chặt chém bằng những con dao mổ trâu.

Chỉ mới đây thôi, từ tháng 4 năm 2021, lần đầu tiên Việt Nam có một Bộ Trưởng Bộ NN & PTNT gốc gác từ Miền Nam: ThS Lê Minh Hoan, tốt nghiệp ĐH Kiến Trúc – ông là đứa con thứ sáu, sinh ra và lớn lên trên vùng Đất Sen Đồng Tháp, nên ông còn có một tên gọi khác là Chú “Sáu Sen – Six Lotus”. Chưa bao giờ như lúc này, ĐBSCL cần tới một khuôn mặt lãnh đạo mới, với ý tưởng mới để kịp thời vực dậy cả một vùng châu thổ đang chết dần.

GS Võ Tòng Xuân là người vui mừng trước tin này. Trao đổi với phóng viên Dân Việt 08/04/2021, Doctor Rice VTX đã nhận định: “Tân Bộ trưởng Bộ NN & PTNT là người tài, nhiệt tình, có cái nhìn sâu rộng, đặc biệt là rất thành thạo về lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở vùng ĐBSCL, và GS Võ Tòng Xuân đã hiến kế cho BT Lê Minh Hoan nên thành lập nhóm tư vấn riêng cho mình. “Nhóm tư vấn này là những người có chuyên môn, nhà khoa học, có nhiệm vụ hỗ trợ, nghiên cứu, kiến nghị các vấn đề có liên quan, giúp BT Bộ NN & PTNT có quyết sách chính xác, rõ ràng, cụ thể đưa ngành nông nghiệp Việt Nam ngày càng phát triển.

Nói về một nhóm tư vấn, thì nguồn chất xám ấy không ở đâu xa, người viết nghĩ ngay tới Nhóm Nghiên Cứu Đại Học Cần Thơ với công trình “Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thuỷ Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé (06/9/2018), bao gồm những tên tuổi rất quen thuộc từ Đại Học Cần Thơ: TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến Đổi Khí Hậu, ThS Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái, TS Dương Văn Ni, chuyên gia môi trường và tài nguyên thiên nhiên, TS Nguyễn Hồng Tín, Trưởng Bộ môn Hệ thống Nông nghiệp Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL; TS Đặng Kiều Nhân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL.(2)

Hình 5: Nhóm Nghiên Cứu Đại Học Cần Thơ với công trình Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thuỷ Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé (06/9/2018), từ phải theo ngược kim đồng hồ: TS Lê Anh Tuấn, TS Đặng Kiều Nhân, ThS Nguyễn Hữu Thiện, anh Kiệt một nông dân vùng dự án CLCB, TS Dương Văn Ni, TS Nguyễn Hồng Tín. (2)

Họ là các nhà khoa học môi trường dày kinh nghiệm, đôi chân đã dính phèn, với nhiều năm trăn trở và lăn lộn với đồng bằng sông nước Cửu Long, và một số trong nhóm nghiên cứu này cũng đã tích cực tham gia vào bước hình thành Bản “Quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050”, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư / KH & ĐT chủ trì;(4) Công ty Royal Haskoning DHV đứng ra nghiên cứu và viết báo cáo; họ đã mời nhóm chuyên gia Hà Lan, Đức và Việt Nam cùng hợp tác. Do có quá nhiều vấn đề phức tạp, thời gian nghiên cứu Quy hoạch Tích hợp này đã kéo dài 3 năm. Theo TS Lê Anh Tuấn, người có tham gia trong nhóm nghiên cứu với chức danh là “chuyên gia môi trường và nông nghiệp”, “Tính thực tế và khả thi của báo cáo này – và cũng là nội dung NQ13/BCT hiện nay đang quá sớm để có được một đánh giá.” Và theo Luật Quy hoạch thì mỗi tỉnh ở ĐBSCL phải tự làm quy hoạch cho tỉnh mình trên cơ sở của Bản Quy hoạch Vùng ĐBSCL.

Phải đương đầu và giải quyết bao nhiêu hệ luỵ tồn tại từ sau 1975, đứa con Đồng Tháp Lê Minh Hoan có bản lãnh hay không là trong lúc này. Trước mắt, rất cần ông BT có chính kiến đánh giá khách quan và khoa học về các công trình cải tạo ĐBSCL bấy lâu trong 48 năm qua và gần đây nhất là Siêu Cống Cái Lớn.

MỘT CHUỖI CẢI TẠO THẤT BẠI: KHÔNG AI NHẬN TRÁCH NHIỆM

Những bước “cải tạo tự huỷ của nhà nước CS Việt Nam nơi ĐBSCL trong ngót nửa thế kỷ qua, với những công trình “nghịch thiên – chống lại thiên nhiên”, đã để lại những di luỵ tác hại nghiêm trọng và tích luỹ trên nguồn tài nguyên và sự sống còn của cả một vùng châu thổ phì nhiêu nhất Châu Á và cũng là kho lương thực của Việt Nam.

Có thể kể một số “công trình cải tạo ĐBSCL” từ sau 1975:

_ Xây chuỗi đê bao chắn lũ để mở rộng khu làm lúa cao sản ba vụ, đã làm mất 2 túi nước thiên nhiên khổng lồ, là khu Tứ Giác Long Xuyên và vùng trũng Đồng Tháp Mười.

_ Xây trên sông những cống đập chắn mặn, ngăn chặn dòng chảy, phá vỡ nhịp đập thiên nhiên (Mekong Pulse) của toàn hệ sinh thái ĐBSCL điển hình là 3 dự án lớn: (1). Ngọt hoá Bán Đảo Cà Mau, (2) Công trình Cống đập Ba Lai, và gần đây nhất là, (3) Cống Đập Cái Lớn Cái Bé được mệnh danh là Công trình của Thế Kỷ. [sic]

(1) Ngọt Hoá Bán Đảo Cà Mau: Một chuỗi những hối tiếc

Ba công trình khủng gồm: Ô Môn – Xà No và Ngọt Hóa Bán đảo Cà Mau “với kinh phí tính bằng đơn vị hàng ngàn tỷ đồng cho đến nay kết quả được-mất của các dự án này cũng chưa hề được đánh giá” [TS Dương Văn Ni, ĐHCT]. Trong suốt giai đoạn 1990 đến năm 2000, hàng trăm cống đập, đê biển, đê sông ngăn mặn, giữ ngọt đã được rộng rãi đầu tư xây dựng. Theo tính toán – chỉ trên lý thuyết của ngành thủy lợi thuộc Bộ NN & PTNT [dưới thời 2 Bộ Trưởng Nguyễn Công Tạn, 1995-1997; Lê Huy Ngọ, 1997-2004], hệ thống đưa nước ngọt từ sông Hậu về Bán đảo Cà Mau để cung cấp nước tưới, chủ yếu trồng lúa, cho 70.000 ha đất của tỉnh Bạc Liêu, 50.000 ha đất của Cà Mau và 66.000 ha đất của Kiên Giang.

Hình 6a: trái, Bản đồ Quy hoạch thủy lợi vùng Nam Bán Đảo Cà Mau. Hình 6b: phải, Âu thuyền Tắc Thủ do Cty CP Tư vấn XD Thủy lợi II thiết kế và xây dựng từ 2001 tại ngã ba sông Ông Đốc – Cái Tàu – sông Trẹm, Cà Mau, với kinh phí gần 80 t đồng nhưng sau khi hoàn thành năm 2006, đã chứng tỏ không những là vô dụng,  còn gây thêm cản trở giao thông. Photo by Nguyễn Kiến Quốc (2)

Hình 7: những nơi dòng sông không chảy, ĐBSCL dày đặc ô nhiễm và sinh cảnh thì đang chết dần. Photo by Ngô Thế Vinh 12.2017

Nhưng các dự án khủng ấy đã gây ra những hậu quả nhãn tiền là:

_ Về khía cạnh hệ sinh thái, do dòng chảy sông rạch thường xuyên bị ngăn chặn bởi các cống, nên sự kết nối hữu cơ giữa “hệ sinh thái sông và biển” với thủy triều từ biển hoàn toàn bị triệt tiêu trong thời gian cống bị đóng. Và khi mở cống, do ô nhiễm tích luỹ lại theo dòng nước lan toả huỷ diệt sinh cảnh và nguồn thuỷ sản nơi cửa sông và vùng cận duyên.

Phía trong cống không còn hiện tượng nước lớn, nước ròng mỗi ngày, hoặc nước rong nước kém cho chu kỳ rằm mỗi nửa tháng. Khi chưa có cống đập, thủy triều trong sông rạch vùng Bán đảo Cà Mau tuy không đều nhưng có khi biên độ cao đến gần 2 mét. Do các cống đóng suốt mùa khô, nên khúc sông bên trong trở thành hồ nước tù đọng khiến tình trạng ô nhiễm gia tăng trầm trọng. Rác rưởi từ nguồn phế thải gia cư, cộng thêm với các độc chất phục vụ trồng lúa như thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân bón hoá học tràn xuống tích tụ dày đặc. [Hình 7]

_ Về khía cạnh công trình, do các cống ngăn mặn đã gây cản trở giao thông trên sông rạch nên phải tốn kém làm thêm những công trình khác như âu thuyền Tắc Thủ, được xây từ năm 2001 tại ngã ba sông Ông Đốc – Cái Tàu – sông Trẹm, thuộc hai huyện Thới Bình và U Minh, Cà Mau với kinh phí gần 80 tỷ đồng nữa. Công trình này do Cty CP Tư vấn XD Thủy lợi II thiết kế và xây dựng. Âu thuyền Tắc Thủ sau khi hoàn thành năm 2006, đã chứng tỏ không những là vô dụng, mà còn gây thêm cản trở giao thông. Cho đến nay, hầu như không ai chịu trách nhiệm về kế hoạch thất bại và đầu tư vô cùng lãng phí này. (2)

Hình 8: Người dân Bạc Liêu và rồi lan sang Cà Mau rủ nhau đi phá cống đập ngăn mặn. Nguồn: tư liệu VTV – Giữa đôi dòng mặn ngọt 1998 (2)

Kết quả là chỉ sau hơn 5 năm, công trình ngọt hóa Bán đảo Cà Mau đã bộc lộ những bất cập giữa lý thuyết và thực tế gây nhiều khó khăn cho đời sống cư dân trong vùng. Từ năm 1997-1998, đã có hàng trăm nông dân đòi phá các hệ thống cống đập này để lấy nước lợ vào nuôi tôm; tháng 7/1998 nông dân Bạc Liêu kéo nhau đi phá đập Láng Trâm và phong trào phá cống ngăn mặn lan sang tỉnh Cà Mau. [Hình 8]

Cuối cùng, sau năm 2000 Chính quyền phải nhượng bộ để cho các tỉnh trong vùng chuyển đổi 450.000 ha đất trồng lúa sang vùng nuôi tôm, cũng có nghĩa là hy vọng đưa vùng đất này trở về điểm xuất phát, trả lại hệ sinh thái tự nhiên của hai mùa mặn ngọt.

Không chỉ có vậy, ngoài sự lãng phí 1.400 tỷ đồng, Dự án Ngọt hoá Bán đảo Cà Mau, cho dù có sửa sai nhưng vẫn còn để lại những tổn thất về môi trường tự nhiên và nguồn tài nguyên nên càng làm cho đất nước nghèo thêm. Các mục tiêu chính của dự án Ngọt hóa Bán đảo Cà Mau gần như hoàn toàn thất bại.

(2) Cống Đập Ba Lai: Một hối tiếc lớn hơn nữa

Sau thất bại của các công trình “nghịch thiên” Ngọt Hoá Bán đảo Cà Mau, tưởng như đã là một bài học đắt giá, nhưng tiếp theo là công trình thuỷ lợi được coi là lớn nhất ĐBSCL: Cống đập Ba Lai, tại cửa sông Ba Lai, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre thêm “một bài học không học phát xuất từ Bộ NN & PTNT thời Bộ trưởng Cao Đức Phát, 2004-2016.

Công trình chắn ngang cửa sông Ba Lai được khởi công tháng 02/2000, từ xã Thạnh Trị kéo sang xã Tân Xuân. Kinh phí ban đầu lên tới hơn 66 tỷ đồng VN. Trên lý thuyết – như từ bao giờ vẫn trên lý thuyết, cống đập Ba Lai có chức năng: ngăn mặn, giữ ngọt cho 115.000 hecta đất, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600 ngàn dân cư Thành phố Bến Tre và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành; cùng kết hợp với phát triển giao thông thuỷ bộ và cải tạo môi trường sinh thái vùng dự án. [sic]

Hai năm sau, từ tháng 04/2002 cống đập Ba Lai bắt đầu được đưa vào hoạt động, được vinh danh lúc đó là công trình thuỷ lợi lớn nhất ĐBSCL. Và từ đây, cửa sông Ba Lai, một trong 8 cửa của Cửu Long chính thức bị đóng lại. [Hình 9]

Hình 9: Cửu Long / Chín Cửa Hai Dòng; Sông Tiền 6 cửa: (1) cửa Tiểu, (2) cửa Đại, (3) cửa Ba Lai, (4) cửa Hàm Luông, (5) cửa Cổ Chiên, (6) cửa Cung Hầu. Sông Hậu 3 cửa: (7) cửa Định An, (8) cửa Ba Thắc (9) cửa Tranh Đề. Cửa Ba Thắc rất nhỏ đã bị thiên nhiên bồi lấp từ lâu; nay thêm cửa sông Ba Lai thì bị nhà nước CSVN xây đập chặn lấp 2002, khiến nay chỉ còn Thất Long / Bảy Cửa Hai Dòng. (2)

Hình 10: trái, Từ ngày có cống đập Ba Lai, cửa sông Ba Lai đã bị đóng lại. [Cửa Ba Thắc thì đã bị bồi lấp từ cả trăm năm nay], và Cửu Long Giang nay chỉ còn 7 nhánh: Thất Long; Photo by Lê Quỳnh]; phải, những giề lục bình phủ kín sông rạch do nước tù đọng phía trong các cống chắn khiến ghe tàu đi lại khó khăn, nhiều nơi người dân đã phải dùng thuốc diệt cỏ để khai quang lục bình nhằm tạo lối đi khiến nước sông lại càng thêm ô nhiễm. Lục bình còn ngăn cản ánh sáng và không khí rất cần thiết cho sự sống còn của các loài thuỷ sinh. Photo by Ngô Thế Vinh 12/2017

Hình 11: Xây cống đập lớn đóng cửa sông, thay vì “ngọt hoá con sông Ba Lai” nhưng đã đưa toàn tỉnh Bến Tre tới tình trạng ngập mặn tệ hại hơn; trái, sáng ngày 10/01/2020, một buổi hội thảo Khoa học & Công nghệ Cấp Nhà Nước [sic] để giới thiệu túi nước ngọt có sức chứa từ 1 m3 tới 100 m3 do công ty nhựa Tân Đại Hưng sản xuất [SGGP Online 11/01/2020]; phải, để sống còn với hạn mặn bủa vây, người dân Bến Tre nay phải “mua nước ngọt” chứa trong những “túi nhựa đủ cỡ”. Nguồn: báo điện tử Bộ TN & MT 12/01/2020

Xây dựng cống đập Ba Lai không những đã rất tốn kém, nhưng khi phát hiện sai lầm thì việc phá bỏ, làm sạch môi trường còn bội phần tốn kém hơn và chuyển đổi sinh hoạt của cư dân cũng không phải là dễ dàng. 

Cho tới nay, cống đập Ba Lai với chi phí hơn 66 tỷ đồng, đã vận hành được hơn 21 năm [2002-2023], hiệu quả công trình cống đập Ba Lai ấy ra sao? Những cống ngăn mặn Ba Lai đã không đạt mục đích vì còn chằng chịt những cửa sông kinh rạch khác không có cống ngăn đã tập hậu chuyển nước mặn vào bên trong hệ thống cống đập đã xây. Dự trù còn phải chi thêm 900 tỷ đồng nữa để “nạo vét bồi lấp” cho những hệ luỵ từ một công trình 66 tỷ gây ra? Liệu có ai can đảm đứng ra nhận trách nhiệm cho những thất bại thảm hại của dự án này?

Chúng ta hãy nghe một tiếng nói trầm tĩnh và trí tuệ của đứa con sinh ra và lớn lên từ ĐBSCL, TS Dương Văn Ni, chuyên gia về đa dạng sinh học Đại Học Cần Thơ: “Với giải pháp công trình, muốn xây cống đắp đê ở đâu cần hỏi dân. Quan điểm của tôi, ngân sách chưa nên đầu tư quá lớn cho việc đắp đập ở các cửa sông lớn vì hiệu quả đến đâu chưa đánh giá được, mà gây hại thì lại rõ như cống đập Ba Lai”. [Tạp chí Thuỷ sản Việt Nam].

Địa bàn môi trường không phải như một bàn cờ để dễ dàng xoá đi bày lại. Một câu hỏi được đặt ra: với những tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai — Bộ NN & PTNT, hay Bộ TN & MT/ Tài Nguyên Môi trường hay chính phủ trung ương hay Bộ Chính Trị sẽ nhận trách nhiệm với phong cách “đem con bỏ chợ” như hiện nay?

(1) Cái Lớn Cái Bé: Thêm Một Sai Lầm Thế Kỷ

Với những công trình khủng trước đó gồm: Ngọt Hóa Bán đảo Cà Mau với kinh phí lên tới tính bằng đơn vị hàng ngàn tỷ đồng, rồi tới thất bại của cống đập Ba Lai cho đến nay kết quả được-mất của các dự án này cũng chưa hề được đánh giá cụ thể, thì chính phủ lại phê duyệt chủ trương đầu tư (498/QĐ/ TTg) một dự án khủng khiếp hơn tiếp theo là Dự án hệ thống thuỳ lợi Cái Lớn – Cái Bé ! Vì vậy, người dân không khỏi băn khoăn là liệu tiền của bỏ ra nhưng các khuyết điểm trong dự án trước đó có tiếp tục bị lặp lại? [TS Dương Văn Ni, ĐHCT].

Dự án Thủy lợi Cái Lớn Cái Bé (CLCB) liên quan tới lãnh đạo của một ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng (từ 2011 tới nay), hai ông Thủ tướng: Nguyễn Tấn Dũng (2006-2016), Nguyễn Xuân Phúc (2016-2021), và một ông Bộ trưởng NN & PTNT Nguyễn Xuân Cường, (2016-2021).

Dự án CLCB được đề xuất từ năm 2011 với mục tiêu trên lý thuyết là một công trình nhằm ứng phó với nước biển dâng và biến đổi khí hậu và cũng để duy trì đất trồng lúa bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu, theo quy hoạch thuỷ lợi tổng thể cho ĐBSCL đã được nguyên TT Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt ngày 19.04.2016.

Dự án Thủy lợi CLCB Giai đoạn 1 được nguyên TT Nguyễn Xuân Phúc* phê duyệt ngày 17.04.2017 dựa theo tờ trình của Bộ NN & PTNT. Toàn bộ công việc soạn thảo dự án, nghiên cứu khả thi cho đến lập báo cáo Đánh giá Tác động Môi trường (ĐTM) đều nằm trong một “chu trình khép kín” thuộc quyền kiểm soát của Bộ NN & PTNT mà không cho thấy có một tổ chức, cá nhân độc lập nào tham gia.

Chủ đầu tư dự án là Ban Quản lý đầu tư và Xây dựng Thuỷ lợi 10 thuộc Bộ NN & PTNT. Từ đơn vị tư vấn lập báo cáo dự án là Liên danh Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam – Viện Quy hoạch Thuỷ lợi Miền Nam – Công ty cổ phần Tư vấn Xây dựng Thuỷ lợi 2 rồi đến cơ quan lập báo cáo ĐTM là Viện Kỹ thuật Biển thuộc Quy hoạch Thuỷ lợi Việt Nam, tất cả đều là những đơn vị trực thuộc quản lý hành chính của Bộ NN & PTNT hoặc Bộ NN & PTNT có quyền ra chỉ đạo trực tiếp. Điều này có nghĩa các chuyên gia độc lập, tổ chức xã hội dân sự và cư dân không thực sự được tham vấn và có tiếng nói nào vào quyết định của dự án.

Hình 12: trái, bản báo cáo Đánh giá Tác Động Môi trường (ĐTM)Dự án Hệ thống thuỷ lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé; phải, vùng dự án CLCB (màu hồng) trong lưu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long.

Theo báo cáo ĐTM thì mục tiêu (trên lý thuyết) của dự án Hệ Thống Thuỷ Lợi CLCB giai đoạn 1 là: Kiểm soát mặn. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, tạo nguồn nước ngọt. Tăng cường khả năng thoát lũ. Phát triển giao thông thủy, bộ trong vùng dự án. Với tổng vốn đầu tư cho dự án Giai đoạn 1 là 3.309,5 tỷ đồng (tương đương với 150 triệu MK).

Với một công trình xây dựng thuỷ lợi có thời gian vận hành tối thiểu 50 năm, có khi lâu hơn, nhưng đánh giá tác động môi trường (ĐTM) chỉ tập trung chủ yếu vào phân tích tác động của giai đoạn chuẩn bị và xây dựng dự án mà lại thiếu sót về tác động của việc vận hành hệ thống thuỷ lợi CLCB sau khi xây dựng xong.

 Một điều đáng lưu ý là báo cáo ĐTM liên tục lặp đi lặp lại một ý quan trọng, được cho là ý kiến của 8 trên tổng số 39 UBND xã trong phần tham vấn cộng đồng: “đề nghị Chủ dự án thực hiện nghiêm túc biện pháp gây ô nhiễm. [sic]

Với một báo cáo ĐTM còn nhiều thiếu sót như thế thì không thể quyết định gì cả để khởi công một “Công trình Thế kỷ”, chống lại thiên nhiên, có khả năng huỷ hoại cả một hệ sinh thái mong manh của ĐBSCL, ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản xuất sinh kế của hàng triệu cư dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao nhiêu vấn đề kỹ thuật chưa có biện pháp giải quyết.

Từ bài học thất bại của Công trình Ngọt hoá Bán đảo Cà Mau, tiếp theo là một thất bại khác của công trình Cống đập Chắn mặn Ba Lai, và mới đây, là Công trình Thế Kỷ Siêu Cống Cái Lớn [Hình 13], đang gây ra những hậu quả nhãn tiền! Nhiều nhà khoa học và giới hoạt động môi trường đã không ngừng lên tiếng cảnh báo rằng: nếu không có một đánh giá môi trường chiến lược/ ĐTM [SEA / Strategic Environmental Assessment] cho toàn ĐBSCL mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình hình mặn-ngọt cho từng vùng, rồi lập ngay quy hoạch xây dựng một loạt hệ thống cống đập chỉ để ngăn mặn nơi các cửa sông lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái mong manh đã có đó từ ngàn năm và hậu quả sẽ khôn lường.

Hình 13: Từ dự án (trái) tới hiện thực (phải); ngày 5/03/2022, TT Phạm Minh Chính (kế nhiệm TT Nguyễn Xuân Phúc) cùng Bộ trưởng Bộ NN & PTNT Lê Minh Hoan (kế nhiệm BT Nguyễn Xuân Cường) cùng đến khánh thành công trình Siêu Cống Cái Lớn Cái Bé giai đoạn 1. Chỉ mới qua hơn một năm vận hành từ tháng 01/2022, “công trình thế kỷ và nghịch thiên” này đã bộc lộ những yếu kém, đang giết chết “Dòng Chảy Sinh Thái” của cả một hệ thống sông rạch, gây ra những tác động tiêu cực và ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống cư dân trong vùng. Nguồn: photo by TT Online 13/03/2022

CẢI TẠO ĐBSCL VỚI NHỮNG SUY NGHĨ CHƯA TỚI     

Chỉ mới đây thôi, tháng 9, 2022, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, là một “thuyền nhân miệt vườn”, hơn 40 năm sau, từ Sydney Úc Châu, sau chuyến đi thỉnh giảng tại Đại Học Cần Thơ, trở lại thăm Kiên Giang quê cũ – (thuộc khu Tứ Giác Long Xuyên gồm 3 tỉnh: Kiên Giang, An Giang, Cần Thơ), nơi ông đã sống suốt những năm niên thiếu, đã phát biểu cảm nghĩ như sau:

Việt Nam có gì đáng ngạc nhiên? Nhiều lắm. Hiện tượng “triều cường” ngày nay không chỉ là đặc sản của Sài Gòn mà đã lan tràn sang Cần Thơ. So với 20 năm trước, đó là một ngạc nhiên đối với tôi. Nhưng với anh tài xế taxi thì ảnh không ngạc nhiên vì ảnh có cách giải thích. Anh ấy giải thích rằng vì mấy con rạch bị lấp và biến thành bất động sản, nhà cửa xây lên quá nhiều, không có quy hoạch nên dẫn đến tình trạng vừa lún vừa ngập nước triền miên.

Sông ngòi vùng quê ngày nay nó cứ lờ đờ, ô nhiễm. Nguyên nhân? Nông dân chỉ tay về cái cống khổng lồ ở sông Cái Lớn nó ngăn nước mặn, nhưng cũng làm thay đổi dòng chảy của tất cả các nhánh sông trong vùng. Con sông trước nhà tôi ở dưới quê bị ô nhiễm trầm trọng và khái niệm nước lớn nước ròng đang dần dần biến mất. Tôi tự hỏi tại sao mấy người chủ trương xây cái cống khổng lồ đó không tính toán lợi và hại trước, hay là họ có tính toán mà không đạt? Ai chịu trách nhiệm cho sự ảnh hưởng của cái cống đó đến hệ sinh thái và mùa vụ? Có vẻ chẳng ai chịu trách nhiệm.[Nguyễn Văn Tuấn, Diễn Đàn Thế Kỷ, 30/09/2022]

Vẫn GS Nguyễn Văn Tuấn viết trên facebook: Cái siêu cống này đã gây ra nhiều tác hại. Nó được thiết kế để ngăn mặn, nhưng ngay cả người nuôi tôm cũng đau khổ vì nó. Còn nông dân thì khỏi nói, và cụ thể là quê tôi ở Kiên Giang. Nếu có dịp đi sâu vào các con rạch, các bạn sẽ thấy những cái máy bơm nước chạy suốt đêm. Để làm gì? Để bơm nước từ ruộng ra sông. Lý do gần là ruộng bị ngập nước. Lý do xa hơn là cái cống ở sông Cái Lớn. Cái cống này, sau khi xây xong và được coi là một công trình của thế k, nó làm thay đổi dòng nước các con sông ở Kiên Giang. Thay đổi theo chiều hướng xấu hơn. Nước sông cứ lình bình, khái niệm nước lớn, nước ròng gần như không còn nữa. Nước tràn vào ruộng làm cho bà con vất vả kiểm soát nước nôi (vì nếu không thì lúa chết hết). Nói chuyện với dân địa phương mới biết là lúa chết đã xảy ra, nên nông dân phải dùng máy bơm nước từ ruộng đổ về sông. Một hậu quả khác của cái cống là tình trạng ô nhiễm ở các con sông đã trầm trọng thì giờ đây càng trầm trọng hơn. Cá tôm khó sống trong sông. Lục bình ‘trỗi dậy’ ở nhiều con rạch, đến nỗi ghe xuồng khó đi lại được. Trước khi xây cái cống này, chắc chắn người ta đã tính toán. Nhưng chẳng hiểu họ tính toán ra sao mà hậu quả như ngày nay. Tôi rất muốn xem cái báo cáo đánh giá môi trường để biết họ tính toán dựa vào giả định nào và phương pháp có đúng không. Cái cống gọi là công trình thế kỷ” cần phải được đánh giá lại về lợi và hại. Nếu không có những đánh giá độc lập, với cái đà xây thêm những cái cống như vầy – CLCB giai đoạn 2 thì hậu quả sẽ còn nghiêm trọng hơn rất nhiều.”

Có thể tin được không, sau một năm vận hành Siêu cống Cái Lớn với những hệ luỵ sai sót, nhưng theo báo chí nhà nước thì vẫn rêu rao: “Lợi ích khủng từ “Siêu cống” [báo Lao Động 17/01/2022] và cả trên Wikipedia* của các nhóm lợi ích, thì vẫn “nói lấy được” là Dự án CLCB đã tuân theo tinh thần “Nghị quyết 120 của Chính Phủ” – nhưng thực tế là một phá sản đối với Nghị quyết 120 CP và rồi “sau khi hoàn thành thử nghiệm giai đoạn 1 thành công [sic] thì một số địa phương trong vùng tây sông Hậu đã có kiến nghị chính phủ cho triển khai tiếp giai đoạn 2 của dự án nhằm ngăn xâm nhập mặn cho vùng ĐBSCL” [sic]

_ [Ghi chú của người viết: Wikipedia* bấy lâu vẫn được coi như bộ bách khoa toàn thư mở, dễ tiếp cận, cung cấp nhiều thông tin hữu ích được sử dụng như nguồn tham khảo và cả trích dẫn, nhưng các bạn trẻ cần thận trọng, đã có không ít những thông tin sai lạc từ các trang Wikipedia này, vì đó là sản phẩm trí tuệ trá hình của bộ máy tuyên truyền hùng hậu của nhà nước CSVN muốn hướng dẫn dư luận quần chúng cả tin theo ý họ].

GS Nguyễn Văn Tuấn đưa ra một nhận định có tính báo động: Tình trạng ô nhiễm nước, đất, không khí ở miệt quê đang là nguyên nhân của sự gia tăng chóng mặt về các căn bệnh không lây như ung thư, phổi, tiểu đường, và tim mạch. Nếu không kiểm soát được vấn đề ô nhiễm môi trường, tôi e rằng ngót 20 triệu dân miền Tây sẽ đứng trước một đe doạ rất lớn về sức khỏe.

Chỉ riêng câu hỏi này của GS Nguyễn Văn Tuấn, người viết muốn gửi tới ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng – người quyền lực nhất hiện nay, và ông Thủ tướng đương nhiệm Phạm Minh Chính, người kế thừa ông Nguyễn Xuân Phúc và trước đó là ông Nguyễn Tấn Dũng – để nhắc nhở với hai ông rằng:

… Giữa năm 2017, khi Dự án cống ngăn mặn Cái Lớn Cái Bé – được Bộ NN & PTNT dưới thời BT Nguyễn Xuân Cường đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi sôi nổi, nguyên do là đã có một chuỗi những thất bại của các công trình ngăn mặn trước đó – điển hình là sự thất bại toàn tập của cống đập ngăn mặn Ba Lai, tỉnh Bến Tre. Và gần như tuyệt đại đa số những tiếng nói trí tuệ độc lập từ các chuyên gia hàng đầu am hiểu hệ sinh thái ĐBSCL đều lên tiếng phản đối và can ngăn.

Nhưng khi, nguyên Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đặt bút Nghị Quyết 120 NQ-CP vào tháng 11/2017, một nghị quyết “thuận thiên” được coi như bước ngoặt lịch sử của nông nghiệp ĐBSCL, nhưng rồi – như từ bao giờ, các nhóm lợi ích với thế lực rất mạnh, vẫn bám mục tiêu đòi hỏi phải xây dựng hệ thống thủy lợi quy mô lớn, như dự án cống đập ngăn mặn Cái Lớn – Cái Bé (CLCB). Các nhóm lợi ích từ Nam ra Bắc luôn luôn có thế lực lũng đoạn chi phối mọi chính sách của nhà nước, những dự án do họ đưa ra phải được duyệt và thông qua thì họ và cả giới chức tham nhũng trong chính phủ mới có ăn, mặc kệ hậu quả ra sao và nông dân trồng lúa cứ nghèo. [GS Võ Tòng Xuân]

Ông nguyên Thủ tướng, với bàn tay phải đặt bút ký nghị quyết Nghị Quyết 120 NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL, nhưng rồi cũng chính bàn tay trái của ông bật đèn xanh cho các nhóm lợi ích – có thế lực mạnh hơn, khởi công Dự án Cái Lớn Cái Bé, hơn 3 ngàn tỷ vẫn còn đầy rẫy những sai sót.(3) Thực chất Dự án CLCB là một phá sản của Nghị Quyết 120 NQ-CP, khiến nhà nghiên cứu môi trường độc lập Nguyễn Hữu Thiện đã phải thốt lên: Với dự án CLCB, Nghị Quyết 120 NQ-CP hoàn toàn rơi vào thế “thất thủ chiến lược” (3)

Ai cũng hiểu rằng, ngót nửa thế kỷ qua, những nghị quyết và những khẩu hiệu đến từ Bộ Chính Trị Ba Đình Hà Nội thì quá nhiều, nhưng khoảng cách giữa những Nghị Quyết và Thực Tế của đất nước trong 48 năm qua vẫn còn là cả một khoảng cách đại dương.

CHẤT XÁM VÀ TIẾNG NÓI BỊ LÃNG QUÊN

Đồng Bằng Sông Cửu Long, một vùng đất nước rất giàu tài nguyên, không hề thiếu chất xám và những tiếng nói trí tuệ. Nhưng do tính kiêu căng của đảng Cộng Sản cầm quyền, lại được kết nối với sự tham lam của các nhóm lợi ích, khiến nguồn chất xám ấy đã bị lãng phí và những tiếng nói trí tuệ độc lập ấy không những không được lắng nghe, mà còn cả bị đe doạ trấn áp. Người viết muốn nhắc tới một một “Think Tank của Đại Học Cần Thơ.”

Nhóm Nghiên Cứu Mekong Đại Học Cần Thơ (2), đã nêu rất rõ là: hệ thống các cống chặn mặn làm mất nguồn năng lượng dòng chảy nước ngọt từ phía thượng nguồn (mũi tên màu xanh) và năng lượng thuỷ triều đem dòng nước mặn từ biển vào (mũi tên màu đỏ) khiến môi trường tự nhiên của ĐBSCL không còn được tẩy rửa hàng ngày (con nước lớn- con nước ròng), hàng tháng (con nước rong- con nước kém), và hàng năm (mùa nước nổi- mùa nước cạn) như trước kia. Hệ quả là hàm lượng oxy hòa tan (DO) trong nước rất thấp khiến sông rạch mất cả khả năng tự làm sạch nguồn nước bằng cơ chế oxy hóa. [Hình 14]

Hình 14: Nhờ năng lượng dòng chảy nước ngọt từ phía thượng nguồn (mũi tên màu xanh) và năng lượng dòng nước mặn từ biển (mũi tên màu đỏ) mà môi trường tự nhiên của ĐBSCL được tẩy rửa hàng ngày (con nước lớn-ròng), hàng tháng (con nước rong-kém), và hàng năm (mùa nước nổi-cạn). Nguồn nước này cũng giúp cho nước chảy được trong các kênh rạch vì địa hình ĐBSCL quá bằng phẳng. (2) Những cống đập ngăn mặn của Bộ NN & PTNT đang “khai tử” dòng chảy và nhịp đập / Mekong Delta Pulse của hệ sinh thái ĐBSCL. [Nhóm Nghiên Cứu Mekong Đại Học Cần Thơ] (2)

Triệt tiêu Dòng Chảy Sinh Thái, với hậu quả là: gia tăng ô nhiễm nguồn nước trong các sông rạch, nước đổi sang màu đen, bốc mùi hôi thối do các chất hữu cơ bị phân hủy; và nguồn nước trong các vùng thủy lợi hoàn toàn không còn sử dụng được cho mục đích ăn uống, kể cả sinh hoạt tắm giặt hàng ngày.

Người dân nay phải sống bằng nước ngọt bơm từ những giếng ngầm, nguồn nước ngầm này cũng ngày một cạn kiệt và hạ thấp; có nơi cư dân đã phải khoan đến độ sâu 80 – 120 mét để tới được nguồn nước ngọt. Nhu cầu khai thác các tầng nước ngầm để lấy nước ngọt quá lớn – mà nguồn nước ngầm ấy không phải là vô hạn — hiện có hơn 2 triệu giếng khoan lấy nước ngọt từ các tầng nước ngầm, đang làm gia tăng tốc độ sụt lún đất nơi ĐBSCL, có nơi nhanh gấp 10 lần hơn mực nước biển dâng.

Về khía cạnh tài nguyên, nguồn thủy sản cũng là nguồn chất đạm/ protein quan trọng trong mỗi bữa ăn với tô cá chén cơm của cư dân ĐBSCL bị sút giảm nghiêm trọng: các loài cá trắng của nước chảy có nguy cơ bị tiêu diệt do dòng sông bị chặn bởi các cống đập, chỉ còn lại các loài cá đen nước tù của ao hồ như cá lóc, cá trê, cá rô phi… Đây là hậu quả tất yếu khi mà hệ sinh thái sông ngòi (riverine environment) đã bị chuyển sang hệ sinh thái ao hồ (lacustrine environment) (Nguyễn Hữu Thiện, 2018).

Do môi trường nước cực kỳ ô nhiễm, lại thêm, lục bình phát triển tràn lan phủ kín cả mặt thoáng sông rạch khiến ghe tàu đi lại rất khó khăn nên nhiều nơi người dân đã phải phun thuốc diệt cỏ trên lớp lục bình nhằm khai quang thuỷ lộ khiến nước sông càng ô nhiễm thêm nữa; và do thiếu nguồn chất đạm từ tôm cá và các loài thuỷ sản khác đã ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng, trẻ em có nguy cơ bị suy dinh dưỡng. [Hình 10]

Các loại cây quen sống ở vùng nước lợ, điển hình như cây dừa nước, hư hại và chết do vùng nước lợ bị ngọt hoá. Nói chung, toàn thể tính đa dạng của hệ sinh thái khu vực quy hoạch bị xuống cấp và bị huỷ hoại nghiêm trọng.

Về phương diện xã hộiở những nơi có cống đập ngăn chặn dòng chảy, việc canh tác trở nên khó khăn, chi phí cao mà lợi nhuận sút giảm, cộng thêm môi trường nước bị ô nhiễm, là một trong những lý do khiến tình trạng di dân – ecological migration ngày càng phổ biến và nhiều người đã bỏ đồng ruộng đi tìm kế mưu sinh ở các khu công nghiệp bên ngoài ĐBSCL hoặc trên thành phố. (2) Trong hai thập niên qua đã có ngót 2 triệu cư dân ĐBSCL phải rời bỏ quê hương vốn được coi là “vùng mật ngọt” với gạo trắng nước trong tôm cá đầy đồng thì nay phải ra đi tìm kế sinh nhai. Trong nghịch cảnh đó thì phụ nữ và trẻ em là bị nhiều tổn thương nhất.(2)

HƯỚNG TỚI NHỮNG BIỆN PHÁP PHI CÔNG TRÌNH 

Trong 48 năm qua, nhiều công trình cải tạo lớn đã được đem ra thử nghiệm trên khắp ĐBSCL như: đắp đê ngăn lũ, làm đê kè để giảm sóng hay chuyển hướng dòng chảy, xây dựng hàng loạt những cống chặn mặn… Có thể nói là các “chuyên gia quốc doanh” từ ngoài Bắc vào Nam không hiểu gì hệ sinh thái tinh vi của ĐBSCL, nên đã thô bạo dùng “dao mổ trâu” để thực hiện những cuộc giải phẫu thần kinh và đã để lại những hậu quả tác hại lâu dài, rất khó sửa chữa.

Trước những nan đề, mặn ngọt, thay đổi khí hậu, sử dụng đất đai, nước biển dâng, cũng như bao nhiêu khắc nghiệt của mẹ thiên nhiên từ thuở hoang sơ, bấy lâu con người đã biết thích nghi sống hài hoà với thiên nhiên, nếp sống ấy đã tạo ra một nền văn hoá sông nước. Giải pháp xây dựng những công trình thô bạo chống lại mẹ thiên nhiên vẫn là một chọn lựa thiếu khôn ngoan và là một đương đầu không cân sức, đã đến lúc các nhà khoa học môi trường thức thời đã đi tìm những “biện pháp phi công trình” chung sống và thích nghi với thiên nhiên là chủ yếu.

Thế nào là các biện pháp thích nghi phi công trình / non-structural adaptation measures: đó là không chọn xây những công trình lớn cố định vĩnh cửu để đối phó với một hệ sinh thái không ngừng biến động: tính cố định của các công trình đã chứng tỏ lỗi thời trong một môi trường sống không ngừng đổi thay.

Và trong suốt dòng lịch sử phát triển hơn 300 năm của ĐBSCL, người nông dân và ngư dân đã luôn luôn biết sống hoà hợp với thiên nhiên, biết thích nghi để tồn tại mà không gây tổn hại cho môi trường và không vắt kiệt nguồn tài nguyên vốn không phải là vô hạn. 

Những ví dụ: 
_ trước
khi có nha khí tượng, người nông dân qua kinh nghiệm tích luỹ, đã biết dự báo thời tiết, nắng mưa khá chính xác và hiệu quả.

_ chưa có nha địa chất, nhưng họ đã biết đánh giá các vùng thổ nhưỡng, để chọn đúng loại cây trồng, không chỉ có cây lúa, họ biết đa canh để giữ màu cho đất.

_ chưa có nha thuỷ văn, họ đã biết chọn giống, nuôi trồng thuỷ sản phù hợp sinh cảnh: mặn-ngọt-lợ theo vùng.

Với hiện trạng môi trường suy thoái trầm trọng như hiện nay – mà đa phần do chính con người gây ra, điều mà nhà nước cần quan tâm là:

_ giúp họ được sống trở lại với một môi trường không tù đọng không ô nhiễm đang đầu độc họ: mở cửa các cống đập cho các dòng sông được chảy.

_ với dòng chảy và thuỷ triều là những động lực làm thanh sạch và tẩy rửa môi trường bị tù đọng như hiện nay.

_ với các nhà máy xây dựng và hoạt động ven sông như nhà máy giấy Lee & Man, các nhà máy điện than đa phần từ TQ phải được giám sát chặt chẽ về xử lý ngay tại các nguồn xuất phát các nước thải và chất thải

_ nâng cao ý thức cộng đồng về bảo vệ môi trường: tạo cho họ các tiện dụng gia cư tối thiểu như nhà vệ sinh, nơi thải rác thay vì đổ hết xuống sông rạch.

_ về tổng thể, nên có quy hoạch các khu cư dân hợp lý, thiết lập quỹ dự phòng như một hình thức bảo hiểm của nhà nước để tài trợ khi cư dân bị thiệt hại trong giai đoạn thay đổi khí hậu cực đoan như thời điểm 2016.

_ với một môi trường dần dà được tẩy rửa thanh sạch, nguồn nước lênh láng trở lại sử dụng được, giảm nhu cầu khai thác tầng nước ngầm, giảm độ sụt lún mười lần nhanh hơn nước biển dâng như hiện nay.

_ Ở một chừng mực nào đó, cần chủ động kiểm soát và cả chấp nhận phần nào tổn thất do biến đổi khí hậu nhưng phải biết nói không với những công trình tốn kém và mang tính tự huỷ hoại như hiện nay.

TS Lê Anh Tuấn, nguyên Phó Giám đốc Viện Biến đối Khí hậu ĐH Cần Thơ đã nói tới “Giải pháp phi công trình” trong sử dụng đất đai và khai thác tài nguyên ĐBSCL với nhấn mạnh là cần linh hoạt: đó là những phương thức mềm” với chi phí rẻ, dễ thực hiện, thiên về bảo vệ duy trì, cải thiện môi trường, thuận thiên, bảo tồn tính đa dạng sinh học, với ý thức rằng phải cần thời gian mới thấy hiệu quả của nó.

Một ví dụ: tìm ra các sinh kế phù hợp không gây tổn thương cho hệ sinh thái và điều kiện tự nhiên: ví dụ mùa mưa trồng lúa, mùa nắng nuôi tôm, nuôi cá nước mặn, nước lợ, tổ chức du lịch sinh thái – tìm hiểu văn hóa bản địa, phát triển khai thác, chế biến các lợi thế cây, con ở từng vùng miền (như trồng sen, chế biến sen, dệt lụa từ sợi sen, … hoặc một số loại cây ưu thế), phát triển nguồn năng lượng sạch (điện mặt trời, điện gió), dần dần thay thế cho nguồn nhiên liệu hoá thạch như than đá, dầu mỏ, làm tăng khí thải CO2 gây hiệu ứng nhà kính (green house effect) và cả gây thêm ô nhiễm…

Hình 15: một điển hình về đa dạng hoá sinh kế phát triển nông thôn “phi công trình” không gây tổn thương cho hệ sinh thái ĐBSCL. Nguồn: TS Lê Anh Tuấn, ĐH Cần Thơ

Ưu tiên “phi công trình” không có nghĩa là bài bác mọi “công trình” mà cần có sự phối hợp hài hòa, chỉ xây dựng công trình khi nào thật sự cần thiết, nên bắt đầu các công trình nhỏ trước khi có những công trình lớn hơn.

TS Lê Anh Tuấn thuộc ĐH Cần Thơ đã chọn khu vực lúa-sen-cá-du lịch sinh thái ở Đồng Tháp như một điển hình về giải pháp “phi công trình, với minh họa rất dễ hiểu với người nông dân.

VẪN NHỮNG DỰ ÁN SAI LẦM TỪ HỆ THỐNG

Suốt gần nửa thế kỷ – chính xác hơn là 48 năm sau 1975, như một chuỗi sai lầm từ hệ thống, nhà nước CSVN đã thiết lập vội vã nhiều dự án lớn – mà họ gọi là các “dự án trọng điểm” – rất tốn kém với tham vọng “cải tạo” ĐBSCL, mà đa phần là can thiệp rất thô bạo, gây tác hại trên một hệ sinh thái hết sức phức tạp và rất mong manh của cả một vùng châu thổ phì nhiêu của Châu Á.

Do tính cục bộ, chạy theo lợi nhuận, chỉ với những “nghiên cứu mệnh danh là khoa học” nhưng theo phong cách: làm nhanh ăn nhanh; mà ngôn từ rất thời thượng trong nước hiện nay là “tư duy theo nhiệm kỳ” – chủ yếu bị chi phối bởi các nhóm lợi ích các chủ đầu tư, rồi đem chính mạng sống và kế sinh nhai người dân ra đánh bạc, bất chấp ý kiến của họ, đồng thời trấn áp các phản biện – tiếng nói phản biện của các nhà khoa học còn có thể bị gán cho cái tội chết người là “phản động” lợi dụng tự do dân chủ, hoặc nhẹ hơn là vào tù với tội danh “trốn thuế” và nhà nước CS đã gạt bỏ mọi khuyến cáo của các chuyên gia kinh nghiệm có thẩm quyền.

Tuy với những đe doạ trấn áp như vậy, nhưng vẫn không thiếu những nhà hoạt động môi sinh độc lập can đảm và bền bỉ cất lên tiếng nói của lương tri. Họ hướng tới mục tiêu tối hậu là bảo vệ cả một vùng châu thổ với ngót 20 triệu cư dân, nhằm giảm thiểu những tác hại lâu dài trên nguồn tài nguyên của đất nước và của các thế hệ tương lai. 

Nguyên lý bất di bất dịch là: Trước Hết là Không Gây Hại (Primum Non Nocere), vẫn cứ mãi là bài học vỡ lòng, là kim chỉ nam cho các bộ trưởng, vụ trưởng các ngành trước khi khởi công bất cứ một dự án nào trên ĐBSCL. Thế nhưng trong thực tế chưa có một chứng cớ nào cho thấy họ hành động theo nguyên lý căn bản trên.

BIÊN NIÊN SỬ: CÁC CÔNG TRÌNH NGHỊCH THIÊN

Có thể liệt kê ngay một số những dự án chính đã và đang gây tác hại và tổn thương lâu dài cho toàn hệ sinh thái ĐBSCL như:

_ Dự án đê bao chống lũ: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], với những đê bao ngăn lũ chỉ để có thêm đất làm lúa cao sản 3 vụ, vắt kiệt đất đai, lại không còn nguồn phù sa, nước thì tù đọng tích luỹ ô nhiễm đồng thời làm mất hai vùng trũng Đồng Tháp Mười và khu Tứ Giác Long Xuyên như hai hồ dự trữ nước ngọt cho toàn ĐBSCL trong Mùa Khô, có tầm quan trọng chỉ đứng sau Biển Hồ – được ví như trái tim của hai vùng châu thổ Tonle Sap và ĐBSCL.

_ Dự án các cống đập chặn mặn: [Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn], ngăn chặn dòng chảy tự nhiên biến những con sông lành mạnh thành ao hồ tù đọng, xoá đi một nền văn hoá nước lợ / brackish water và gây rối loạn dây chuyền trên toàn nhịp đập / Mekong Pulse của hệ sinh thái ĐBSCL.

_ Dự án 14 nhà máy nhiệt điện than: [Bộ Công Thương], biến ĐBSCL là bãi tiếp nhận các nhà máy nhiệt điện chạy than phế thải từ Trung Quốc với hậu quả tàn phá môi trường đất đai, nguồn nước và không khí, với sức khoẻ của người dân không hề được quan tâm tới nếu không muốn nói là bị hy sinh.

_ Dự án Nhà Máy Giấy Lee & Man: [Bộ Tài Nguyên & Môi Trường] gây ô nhiễm nghiêm trọng vì nguồn nước thải với đủ loại hoá chất cực độc nhưng vẫn được Bộ Tài Nguyên & Môi Trường cấp phép cho xả thải ra sông Hậu đang giết chết dòng sông, rồi còn phải kể tới bụi khói độc hại, mùi hôi thối, tiếng ồn từ nhà máy ngày đêm bào mòn sức khoẻ của người dân.

_ Dự án Kênh Quan Chánh Bố: [Bộ Giao thông & Vận tải], với tốn kém hàng nhiều ngàn tỷ đồng chỉ để cho mấy tàu trọng tải lớn từ biển đi vào sông Hậu để tới giang cảng Cần Thơ gây bao khốn khổ cho người dân khi mà giá trị kinh tế của dự án kênh Quan Chánh Bố, cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời và vẫn đang gây rất nhiều tranh cãi gay gắt. 

Một danh sách chưa đầy đủ, trong thực tế còn nhiều dự án cấp địa phương đã được triển khai nhưng thiếu những nghiên cứu cơ sở và không có đánh giá tác hại môi trường từ các chuyên gia độc lập.

Cũng GS Nguyễn Văn Tuấn, nhận định: “[…] còn quá sớm để quy những công trạng – nếu có – cho giới khoa học nhà nước. Tôi quan sát ở miền quê tôi thì thấy sự thật là những thành tựu về tăng năng suất trồng trọt và lúa là do người nông dân xoay xở. Nông dân tự thử nghiệm cho đến khi đạt được kết quả tốt (kiểu trial-and-error). Họ có thể không biết những nguyên tắc thí nghiệm hay ngẫu nhiên hoá, họ có thể không rành tính toán như các kỹ sư & tiến sĩ, nhưng qua trial-and-error, họ có thể lai giống và tạo giống mới, chế tạo máy gặt lúa, máy cấy lúa, máy hút lục bình, v.v... Giới khoa học chẳng giúp gì cho họ trong các sáng kiến đó. Người nông dân thiếu chữ để nói đó là công trạng của họ, và thay vào đó có những người mang mác ‘tiến sĩ’ giành công trạng cho mình. Ai cũng biết tác nhân làm nghèo làm khổ nông dân miền Tây là cái tập đoàn lương thực có tổng hành dinh nằm ngoài … Hà Nội.” 

Ở Việt Nam, người ta có câu khuyên các nhà quản lý và khoa học quốc doanh: đừng làm gì hết, ngồi yên đó để dân nuôi, vì họ làm là hư hỏng. 

Theo KS Phạm Phan Long, Việt Ecology Foundation, thì vấn nạn lớn trên toàn đồng bằng hiện nay là ô nhiễm nguồn nước chính vì các công trình thủy lợi hoạch định phi lý đã gây ra. Ô nhiễm phải được xem là vấn nạn lớn mà mọi công trình phải bảo đảm không cho xảy ra. Công trình Cái Lớn Cái Bé đã đẩy ĐBSCL lao sâu hơn vào ao tù thảm trạng ô nhiễm không khác những công trình “thuỷ hại” trước đây nhưng với một quy mô lớn hơn.

LỘ TRÌNH MỚI 2021-2030: QUY HOẠCH TÍCH HỢP

Quyết định số 1163 / QĐ-TTg ngày 31/7/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Nhiệm vụ lập quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050.

ThS Nguyễn Hữu Thiện, sinh ra (1968) và lớn lên ở một làng quê nông thôn sâu thuộc Hậu Giang, tốt nghiệp ngành thuỷ nông ĐH Cần Thơ, từ 1990 ở tuổi 22 đã là nhân viên đầu tiên của khu bảo tồn sếu đầu đỏ Tam Nông. Thông qua Hội Sếu Quốc tế (ICF / International Crane Foundation), năm 1992 ông giành được học bổng 4 năm của McArthur Foundation và tốt nghiệp MS về sinh học bảo tồn và phát triển bền vững tại ĐH Wisconsin-Madison, Hoa Kỳ năm 1996. Trở về Việt Nam, ông giảng dạy ngành sinh thái tại ĐH Cần Thơ trong 2 năm, sau đó đi làm việc cho các tổ chức quốc tế như Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN / International Union for Conservation of Nature), Quỹ Quốc tế về động vật hoang dã (WWF / World Wildlife Fund), Chương trình Đa dạng Sinh học Đất Ngập nước Mekong (MWBP /Mekong Wetlands Biodiversity Programme). Từ 2010, ông trở thành chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái ĐBSCL. Trong hơn 30 năm, Nguyễn Hữu Thiện đã cùng với các chuyên gia tâm huyết khác liên tục tham gia những công trình nghiên cứu sông Mekong và ĐBSCL.

Ông là người ủng hộ nhiệt thành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17 tháng 11 năm 2017 về phát triển ĐBSCL theo nguyên tắc “thuận thiên”, để phát triển bền vững và duy trì gía trị văn hoá sông nước của vùng ĐBSCL.

Từ 2018 đến 2022, ông làm chuyên gia cho Bộ Kế hoạch & Đầu tư, [với Bộ trưởng là Nguyễn Chí Dũng nhiệm kỳ từ 2016 tới nay], để hỗ trợ tư vấn quốc tế soạn thảo bản Quy hoạch Tích hợp ĐBSCL giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050. Bản quy hoạch này đã được Thủ tướng phê duyệt tháng 2/2022 và công bố tại Cần Thơ, và cũng là nội dung NQ13/TW của Bộ Chính Trị.

ThS Nguyễn Hữu Thiện cho rằng Quy hoạch Tích hợp lần này là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có được một bản quy hoạch tích hợp đa ngành cấp vùng, nhờ có Luật quy hoạch 2017. Trên lý thuyết nó cho phép đối xử với đồng bằng như là một cơ thể sống, thay vì cách quy hoạch đơn ngành, manh mún trước đây. Dù chưa thể gọi là hoàn hảo, nhưng nó cho thấy sự thay đổi lớn trong cách suy nghĩ ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững theo hướng thích ứng thay vì chống lại vắt kiệt thiên nhiên. Nó tạo ra một tiền lệ rất tốt cho những quy hoạch về sau. [hết trích dẫn]

MÔI SINH VÀ DÂN CHỦ

Đồng Bằng Sông Cửu Long bấy lâu phải hứng chịu rất nhiều tổn thương do nhiều nguyên nhân: mất dòng chảy sinh thái vì chuỗi đập thuỷ điện thượng nguồn, những kế hoạch phát triển không bền vững nếu không muốn nói là tự huỷ ngay tại ĐBSCL của Việt Nam, và cả do biến đổi khí hậu.

Rừng vàng biển bạc đất phì nhiêu, câu văn trong Quốc văn Giáo khoa đã sống trong tâm khảm tuổi trẻ Việt Nam qua nhiều thế hệ, thì nay trong thực tế sự không còn nữa, và cũng đừng tiếp tục gieo vào đầu óc trẻ thơ câu châm ngôn lỗi thời nếu không muốn nói là lừa dối ấy.

Kể từ sau 1975, đất nước “gọi là” thống nhất cũng là khởi đầu cho những khu rừng nguyên sinh bị tàn phá, đất đai (nhà máy bauxite), sông ngòi (nhà máy giấy sông Hậu), cả vùng duyên hải (nhà máy thép Formosa) cho thuê, khiến hệ sinh thái của cả nước bị suy thoái, đất bị sa mạc hoá, sông ngòi và biển bị nhiễm độc mất nguồn thuỷ sản, thiếu nước uống và cả cho tiện dụng gia cư.

Tài nguyên của đất nước đã bị đem bán rẻ, vì cái lợi trước mắt mà không tính tới cái giá môi sinh mà xã hội phải trả và người dân chỉ là thứ gia công, lắp ráp và làm thuê và cả nguồn nhân lực bị tận cùng khai thác tới cạn kiệt.

Nhân danh “cải tạo”, nhà nước Cộng sản Việt Nam đã và đang chọn các bước đi liều lĩnh trên những tảng băng mỏng – walks on thin ice, với tiêu chuẩn nước đôi – double standards, chạy theo lợi nhuận với các phe nhóm lợi ích rất mạnh người dân thì hoàn toàn không có quyền cất tiếng nói — họ là nạn nhân và là đầy tớ ngay trên mảnh đất của chính tổ tiên mình.

Với tầm nhìn của thiên niên kỷ, để phục hồi và duy trì một hệ sinh thái phong phú của hành tinh này, cũng là bảo vệ các nền văn minh rất đa dạng và lâu đời của con sông Mekong, thì không có mối lợi lộc ngắn hạn nào có thể vội vàng đem ra đánh đổi.

Từ năm 2000, người viết cũng đã đưa ra nhận định: “Và hiển nhiên không có giải pháp đơn lẻ cho vấn đề môi sinh mà phải là bước chuyển hóa cơ bản và đồng bộ của các hệ thống xã hội từ “Toàn Trị” tiến lên “Dân Chủ”. Có dân chủ là có cơ hội mở mang dân trí và chính cư dân sống hai bên bờ sông Mekong sẽ có ý thức và tiếng nói bảo vệ dòng sông như là mạch sống của chính họ.

rồi ra người dân sẽ có cơ hội đồng đều, có quyền được uống một ngụm nước sạch, được hít thở một bầu không khí trong lành và có tự do, những điều cơ bản đó chính là “nhân quyền” chỉ có thểđược trong một đất nước dân chủ.” Môi Sinh và Dân Chủ sẽ mãi mãi là một “Bộ Đôi Không Thể Tách Rời / Inseparable Duo.” Đây là một trận địa đấu tranh cam go mất còn, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác, giữa bộ đôi: “dân chủ và môi sinh” và phía kia là bộ đôi nguy hiểm / dangerous duo: “độc tài và tham nhũng.”

CHỮ TÂM VÀ TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ

Với cụm từ “trách nhiệm chính trị”, có thể nói đây là nét văn hoá mới 2023 trong lịch sử 93 năm của Đảng CSVN, qua việc từ chức của nhân vật số 2 là Chủ tịch nước ông Nguyễn Xuân Phúc.

Chỉ với hai vụ tham nhũng: bộ xét nghiệm Việt Á và tiếp theo là các chuyến bay giải cứu, người dân hiểu rõ rằng: thực chất đây chỉ là phần nổi rất nhỏ của một tảng băng chìm / tip of the iceberg. Vì còn phải kể bao nhiêu vụ tham ô tầy đình khác bị ém nhẹm trong suốt 48 năm qua thì sao?

Gần đây, qua live stream người dân Việt Nam mới được biết ông TBT Nguyễn Phú Trọng rất quan tâm về văn hoá, mê Ức Trai Thi Tập của Nguyễn Trãi và thuộc tác phẩm Kiều của thi hào Nguyễn Du. Một lần trước Quốc Hội, trong sự khiêm cung ông Trọng đã lẩy hai câu Kiều để nói về thân phận mỏng manh và tài năng hữu hạn của mình: Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, khuôn xanh biết có vuông tròn hay không. Rồi mới đây, trong một hoàn cảnh khác, cũng chính ông TBT, lẩy thêm hai câu Kiều khác: Có tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần. Và cảm động hơn nữa, khi lần đầu tiên một người Cộng Sản thuần thành như ông TBT đã hai lần nhắc tới chữ “tâm” trong truyện Kiều: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài… Cũng mấy câu thơ ấy của Tố Như, nhưng nếu thay một chữ “tài” bằng chữ “quyền” thì sẽ rất trọn nghĩa.

Ông TBT Nguyễn Phú Trọng sinh năm 1944, đã qua cái tuổi xưa nay là hiếm. Và cũng khởi đi từ “chữ tâm của Nguyễn Du” mà ông TBT nhắc đến, như từ một mẫu số chung về văn hoá, “người dân” có đôi điều muốn được trao đổi với ông:

_ Trên phạm vi ĐBSCL, với bao nhiêu những sai sót trong suốt 48 năm qua với các “công trình cải tạo trọng điểm”, mà cho tới nay không một ai nhận trách nhiệm, đề nghị với ông TBT cho lập ngay một “Toán Đặc Nhiệm – Task Force” gồm những nhà khoa học và chuyên gia môi trường độc lập, xét duyệt lại toàn bộ các công trình cải tạo đã được các bộ, các cơ quan thực hiện trong ngót nửa thế kỷ qua, với cả đánh giá những thành quả nếu có [?] để vinh danh và với một chuỗi những sai sót thì trách nhiệm về ai? Có những bài học nào được rút ra từ những bước sai sót vô cùng đắt giá ấy?

Mới đây với kết quả từ một công trình nghiên cứu của một công ty Hà Lan, một “Quy Hoạch Tích Hợp” đã hình thành cho giai đoạn 2021- 2030 với tầm nhìn tới 2050 đã được đưa vào Nghị Quyết 13-NQ/TW của Bộ Chính Trị mà ông TBT đã đọc trước Quốc hội ngày 22/04/2022, mở ra một “lộ trình / roadmap” cho tương lai phát triển ĐBSCL.

Từ “Khả năng tới hiện thực”, lộ trình ấy là một chặng đường dài. Sự thành công cần tới hai yếu tố: (1) Một cải thiện về thể chế, (2) Một nguồn nhân lực có trình độ. Nếu không, thì cho dù một “quy hoạch tích hợp” có hay tới đâu thì rồi ra cũng chỉ là những khẩu hiệu.

_ Trên quy mô của cả nước, cũng với chữ “tâm” của thi hào Nguyễn Du, có bao giờ ông TBT nghĩ rằng đã quá đủ với 93 năm lịch sử ĐCSVN và với 48 năm Đảng CSVN độc quyền sở hữu cai trị đất nước này, với một đội ngũ đảng viên rất nhiều quyền nhưng lại thiếu chữ tâm, thì “trách nhiệm chính trị” hay đúng hơn “trách nhiệm lịch sử” của ông TBT Nguyễn Phú Trọng bây giờ là rất lớn – và không phải là quá sớm để ông TBT và Bộ Chính Trị có đủ can đảm để khơi mào một “cuộc cách mạng xanh – green revolution” không đổ máu, với từng bước thực hiện tiến trình dân chủ hoá đất nước, từ hạ tầng cơ sở lên tới trung ương, để từng bước trả lại cho người dân quyền làm chủ đất nước – như bước chuyển tiếp tất yếu của lịch sử, và trên dòng luân lưu của lịch sử như một “dòng chảy sinh thái” không hề có “đập chắn.”

NGÔ THẾ VINH

California, Tết Quý Mão 22/01/2023

Tham khảo:

1/ The Nature Conservancy. Environmental Flows Concepts.

About Environmental Flow. https://www.alberta.ca/about-environmental-flows.aspx

2/ Đánh giá Các Hệ thống Ngăn Mặn Vùng Ven Biên Châu Thổ Cửu Long & Dự án Thuỷ Lợi Sông Cái Lớn – Cái Bé Nhóm nghiên cứu: Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Thiện, Dương Văn Ni, Nguyễn Hồng Tín, Đặng Kiều Nhân. (Bản thảo ngày 06/9/2018)

3/ Nói không với dự án Cái Lớn – Cái Bé. Đi tìm các giải pháp phi công trình cho ĐBSCL. Ngô Thế Vinh. Viet Ecology Foundation 03.10.2018

4/ Quy hoạch vùng ĐBSCL, Thời kỳ 2021-2030, Tầm nhìn đến năm 2050. Báo cáo Quy hoạch. Quyển 1-2, 631 trang. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tháng 12/2021

5/ Vũ khí giải cứu sông Mekong Chất xám và tiếng nói. Lê Quỳnh phỏng vấn Bs Ngô Thế Vinh. Báo Người Đô Thị, Saigon 25/04/2016

6/ Thư gửi 92 Đại Biểu Quốc Hội 13 tỉnh Miền Tây. Thuỷ điện Luang Prabang thêm một thảm học môi sinh cho ĐBSCL và Lưu Vực. Ngô Thế Vinh. VEF, Jan 14, 2020.

Tác giả năm 2002 bên chân con đập Mạn Loan, là đập thuỷ điện dòng chính đầu tiên trên sông Lancang-Mekong, Vân Nam TQ.

BS Ngô Thế Vinhtốt nghiệp YKSG, chủ bút báo SV Tình thương, y sĩ Liên đoàn 81 Biệt Cách , BS thường trú các bệnh viện đại học New York, BS điều trị và giảng huấn tại một bệnh viện Nam California. Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng là một dữ kiện tiểu thuyết liên quan tới môi sinh và phát triển lưu vực sông Mekong và ĐBSCL. Nối tiếp ký sự Mekong Dòng sông Nghẽn Mạch, với bản Anh ngữ đã thu hút sự quan tâm của giới khoa học, và các nhà hoạt động môi trường thế giới. Gần 30 năm tâm huyết với các vấn đề Sông Mekong và ĐBSCL, BS Ngô Thế Vinh không chỉ là một nhà văn, ông còn là một nhà hoạt động môi trường bền bỉ. Ông đã có những chuyến đi dọc dòng Mekong dài 4.800km, từ thượng nguồn đổ xuống Biển Đông. Bài viết đề cập tới các vấn đề nóng bỏng hiện nay trên dòng Mekong và ĐBSCL.

Lại những chuyện đặc khu

Văn Biển

17-6-2018

Thư ngỏ gửi Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân

Mượn tuổi tác xin được gọi Chủ tịch Quốc hội Việt Nam là Thím Ngân cho thân mật. Tác giả bức thư ngỏ này còn mấy tháng nữa là bước vào tuổi 90.

Ảnh chụp 64 trang viết tay “Đơn kêu oan và tố cáo” của Vũ “nhôm” và 30 trang đánh máy, gửi lãnh đạo Đảng và Nhà nước

Sông Hàn

18-5-2021

Thể theo lời yêu cầu của một số thân hữu, chúng tôi xin được phổ biến toàn bộ ảnh chụp 64 trang viết tay “Đơn kêu oan và tố cáo” và 30 trang đánh máy của Vũ “nhôm”, gửi lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Tài liệu này bổ sung cho bài viết của chúng tôi trên Tiếng Dân: Vũ “nhôm” và thế lực bảo kê đang chơi canh bạc cuối cùng? Các trang mạng đăng lại xin ghi rõ nguồn.

“Ông nay mặt thớt quyền dao lộng hành” (Kỳ 1)

Dương Tự Lập

25-11-2023

Phạm Hương là người em gái thân mà tôi làm bạn đã trên bốn mươi năm. Hương mê văn học và mê thơ, hay trao đổi chính kiến với tôi về mọi sự kiện, đặc biệt trong văn học. Hương có cô bạn gái rất thân là Song Tú, vợ nhà thơ Thái Bá Tân.

Chiến tranh Việt – Trung ngày 17-2-1979 và quan hệ ngày nay

Nguyễn Tuấn Khoa

17-2-2023

Nhân 44 năm ngày chiến tranh Việt-Trung năm 1979, tôi đọc lại hai quyển sách bên dưới, tóm tắt những sự kiện quan trọng để có thêm thông tin mà chúng ta không có được từ sách báo trong nước, về một cuộc chiến mà cho đến nay số liệu vẫn còn mù mờ:

Sân golf Phan Thiết – Phụ lục

Phan Bình Minh

28-5-2020

Tiếp theo bài 1bài 2bài 3bài 4bài 5bài 6bài cuối

Tập hợp từ nhiều nguồn thông tin, chúng tôi lập niên giám xẻ thịt dự án Sân golf Phan Thiết để bạn đọc dễ kiểm tra. Đồng thời công bố nguyên văn 2 đơn của ông Đinh Trung để các bạn tham khảo.

Tôi muốn tiết lộ “vài bí mật”

Nguyễn Đình Cống

13-9-2023

Gần đây, tác giả Từ Thức viết bài “Những nhân chứng sống sót của một thời thảm khốc”, đăng trên Tiếng Dân và Boxit, giới thiệu hai cuốn truyện của Phan Thúy Hà kể về những thảm khốc xảy ra trong thời cải cách ruộng đất (CCRĐ): Cuốn Gia Đình và cuốn Đoạn đời niên thiếu. Truyện ghi lại những lời do nhân chứng còn sống kể theo trí nhớ, trong đó viết về những tàn ác, dã man đối với những nạn nhân của CCRĐ. 

Trần Huỳnh Duy Thức được nới lỏng các điều kiện trong giam giữ

Phan Nguyên

26-10-2017

Song song với việc đàn áp khốc liệt trong nước, nhà cầm quyền CSVN âm thầm tạm thời nới lỏng các điều kiện giam giữ với một số các tù nhân lương tâm có tên tuổi. Cả hai mặt hành động nói trên cũng đều nhằm cho việc phục vụ hội nghị APEC tại Đà Nẵng được suôn sẻ như ý lãnh đạo CSVN muốn.

Việc bắt bớ và khủng bố hàng loạt, nhằm tạo một không gian khiếp sợ và không thể phản ứng trong tháng 11/2017. Đồng thời nhiều tù nhân lương tâm cũng được giảm nhẹ việc sách nhiễu và ngăn cấm trong tù, nhằm không có sự tố cáo nào trong cùng thời gian, cũng như để đối phó, nếu có bất kỳ một đại diện ngoại giao quốc tế đến Việt Nam rồi đột nhiên ngỏ ý muốn đi thăm các tù nhân được dư luận nhắc đến.

Dự án khu đô thị mới Thủ Thiêm, quận 2, TPHCM

Dân oan Thủ Thiêm

1-11-2017

Dân oan Thủ Thiêm khiếu kiện.

Tại sao Thanh tra Chính phủ đã Kết luận và Tòa án nhân dân các cấp đã phán: Dự án khu đô thị mới Thủ Thiêm (DAKĐTMTT):

Không có Quyết định thu hồi đất

Không có Phương án bồi thường

Thoát khỏi địa ngục (Phần 2)

The Times

Tác giả: Damian Whitworth

Trần Quốc Việt dịch

27-6-2021

Tiếp theo phần 1

Tháng 11/2017, chị bị trùm bao lên đầu rồi đưa đến trại và được bảo rằng, chị phải dạy tiếng Trung cho những người tù ở trại. Hợp đồng làm việc của chị ghi rằng vi phạm luật lệ sẽ bị phạt tử hình. Chị cũng bị cấm nói chuyện với những tù nhân, và cấm cười, cấm khóc hay trả lời các câu hỏi nếu không được cho phép.

Từ nhóm lợi ích du lịch

“Người dân không có quyền con người, không có quyền công dân. Đất nước không còn sức mạnh vô tận của dân và xã hội không còn sức đề kháng. Đất nước chìm trong bạo lực và tội ác. Tội ác tàn phá thiên nhiên gấm vóc của dải đất Việt Nam không phải chỉ diễn ra ở Sơn Trà mà đang ào ạt diễn ra trên khắp đất nước thương yêu của chúng ta”.

Phạm Đình Trọng

9-6-2017

Một góc Sơn Trà tan hoang vì thi công hàng chục móng biệt thự trái phép. Ảnh: VNN

Con người có nhu cầu khám phá và soi mình vào cái đẹp. Cái đẹp ở những kì quan. Kì quan của thiên nhiên và kì quan do con người sáng tạo ra. Cái đẹp ở những nền văn hóa của loài người và những nét văn hóa của cuộc sống. Vì vậy con người đã rời bỏ nếp sống yên ổn, đầy đủ, nề nếp và cũng nhàm chán hàng ngày, khoác ba lô lên đường đến những miền đất lạ. Những chuyến đi đó được gọi là du lịch.

Làm du lịch là đáp ứng nhu cầu được khám phá, được soi mình vào cái đẹp của khách du lịch. Khám phá sự phong phú, đa dạng, độc đáo của thiên nhiên, khám phá tài năng sáng tạo của con người ở những miền đất lạ và khám phá bản sắc văn hóa của những cộng đồng dân cư sống trên những miền đất lạ đó.

Ukraine – Châu chấu đá xe (Phần 1)

Dũng Vũ, lược thuật

12-11-2022

Ngày 24-2-2022, quân đội Nga xâm lược Ukraine. Toàn thế giới bất ngờ nhìn thấy đất nước Ukraine tan hoang. Nạn nhân chính là thường dân. Khắp nơi, quân Nga đã bắn phá, thả bom bừa bãi vào nhà dân, bệnh viện, trường học, vườn trẻ. Đường sá, cầu cống, điện nước cũng bị tàn phá. Phụ nữ bị lính Nga hãm hiếp, thường dân bị sát hại nằm la liệt trên đường phố hay bị vùi lấp tạm bợ dưới những mồ chôn tập thể. Hàng triệu người Ukraine phải chạy lánh nạn khắp Âu châu.

Vì lẽ gì Việt Nam ta không bị Hán Hoá?

Hồ Bạch Thảo

8-10-2017

Lãnh thổ Trung Quốc thời xa xưa chỉ bằng mấy tỉnh hiện nay, nhưng nhờ sức bành trướng không ngừng lan ra bốn phía, nên to lớn như hiện nay. Trước thời Tần, biên giới Trung Quốc tại phía nam chỉ đến sông Dương Tử và một phần đất tại các tỉnh Giang Tây, Hồ Nam, Giang Tô. Qua các thời Tần, Hán, không ngừng xâm lăng; chiếm trọn vùng đất phương nam, chiếm cả Việt Nam. Trải qua một ngàn năm đô hộ, Việt Nam dành lại nền độc lập, trong khi các vùng đất khác biến thành quận huyện của Trung Quốc. Kể từ đó Việt Nam đời nối đời chống Trung Quốc xâm lăng, lại tiếp tục mang gươm đi mở nước nên lãnh thổ tăng gấp đôi. Với địa lý liền núi, liền sông, lại sẵn đường để Trung Quốc xâm nhập thuỷ bộ; hãy tìm hiểu xem vì lẽ gì nước ta không bị Hán hoá.

Hỏi đáp xung quanh cuộc chiến tranh Nga – Ukraine (Phần 1)

Đào Tiến Thi

8-5-2022

Ảnh: Bản đồ Nga xâm lược Ukraina những giờ đầu tiên của ngày 24/2/2022, ngày đầu tiên Nga tấn công Ukraine. Nguồn: Sky News

Xung quanh cuộc chiến tranh Nga – Ukraine tôi thấy có quá nhiều ý kiến lầm lạc của người Việt Nam. Ngoại trừ số cố tình xuyên tạc, bóp méo vì động cơ nào đó, thì có một số khác, quả thực, thiếu hụt kiến thức nền lẫn những thông tin cần thiết. Vì vậy, chúng tôi muốn giúp độc giả nói chung, biết thêm sự thật, qua hình thức một số câu hỏi và trả lời.

Ai, nhóm lợi ích nào đã biến dự án Khu Đô Thị Mới Thủ Thiêm thành “Phân lô bán nền”?

Dân oan Thủ Thiêm

7-11-2017

Tất Thành Cang phát biểu. Ảnh: DOTT

Sáng ngày 27/6, BQL Đầu tư xây dựng KĐT mới Thủ Thiêm và Cty CP Đầu tư hạ tầng kỹ thuật TPHCM (HTKT) đã tổ chức lễ khởi công dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư phía Bắc và hoàn thiện đường trục Bắc – Nam trong KĐT mới Thủ Thiêm theo hình thức hợp đồng BT.

Trong buổi tiếp xúc với cử tri quận 2 của ĐBQH, Ngày 08/01/2008 sau khi nghe cử tri phản ành về tính bất hợp lý và bất hợp pháp của KĐTMTT, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết là Đại biểu Quốc hội đã nhận xét: Khu đô thị mới Thủ Thiêm thật kinh hòang và đáng xấu hổ. Sau đó ông đã trang trọng lập lại nhiều lần: Sẽ kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ lập đoàn thanh tra tổng hợp, đủ mạnh để thanh tra tòan bộ KĐT mới Thủ Thiêm và quận 2, và được nhân dân đồng tình, thể hiện qua những tràng pháo tay nồng nhiệt, liên tục …

Nghiệp đoàn Độc lập Việt Nam ra đời

1-7-2020

Kính thưa quý vị,

Trong thời đại toàn cầu hoá, việc hội nhập vào nền kinh tế chung của thế giới đòi hỏi các quốc gia phải mở rộng thị trường và liên kết với các quốc gia phát triển khác. Trong chiều hướng đó, cho tới nay, Việt Nam đã ký 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) trong đó, đặc biệt có 2 FTA thế hệ mới:

Chuyện ông Nguyễn Phú Trọng “chết đi sống lại”

Mai Hoa Kiếm

15-1-2024

Đầu tuần này, cái tên Nguyễn Phú Trọng được gọi nhiều nhất trên truyền thông và báo chí của đảng. Trong lúc báo chí quốc doanh hát “đồng ca” khi ông Nguyễn Phú Trọng tái xuất hiện, các hồng vệ binh, dư luận viên hả hê, reo hò, công kích mạng xã hội và các trang  “lề trái” đã… việt vị, thì  giới quan sát chính trường đang hướng tới vấn đề khác.