Khi đảng viên được “cơ cấu” vào giáo hội

FB Phạm Lê Vương Các

17-3-2018

Đại lão Hòa Thượng Thích Thanh Sam, Phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, là người giữ vị trí thứ 2 hoặc thứ 3 trong cơ quan lãnh đạo và giám sát tối cao về Đạo pháp và Giới luật của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Một nhà sư nắm giữ vị trí trọng yếu như vậy chắc hẳn phải là một Cao tăng, phải là người uyên bác, thông tuệ về Phật pháp, cũng như có một trình độ và khả năng vượt trội trong việc thuyết pháp và nghiên cứu phật học.

Tuy nhiên, đối với hòa thượng Thích Thanh Sam, công chúng chỉ biết tới ông không phải vì những khả năng vượt trội của một chân tu mà vì ông là một đảng viên đảng Cộng sản được trao danh hiệu “50 năm tuổi Đảng”.

Thật vậy, ông không để lại cho Phât giáo Việt Nam một công trình nghiên cứu Phật học nào, tác phẩm biên khảo, dịch thuật kinh sách Phật giáo cũng không. Khả năng thuyết pháp của ông cũng không được ai nhắc đến.

Tôi cố gắng tìm kiếm một bài thuyết pháp của ông để giới thiệu đến với công chúng để nhiều người hiểu hơn về ông, nhưng bất thành. Tôi chỉ tìm được một bài phát biểu hiếm hoi dài 7 phút của ông cách đây 9 năm về trước, nhân dịp ông tham dự Lễ khởi công xây dựng chùa Cương Xá-do thầy Thích Thanh Cường (biệt danh sư thầy “Thích Iphone”) làm trụ trì.

Nghe qua bài phát biểu của Hòa thượng Thích Thanh Sam, tôi không hiểu nổi với cách thể hiện như vậy mà ông lại được tấn phong lên bậc Cao tăng, suy cử nắm giữ vị trí trọng yếu trong Giáo hội?

Không có lời giải thích nào thỏa đáng hơn ngoài việc ông được Đảng của mình “cơ cấu” vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Về lý thuyết, nghe qua có vẻ tréo ngoe khi Đảng có chủ thuyết vô thần lại cho phép Đảng viên của mình trở thành một chức sắc lãnh đạo tôn giáo. Nhưng về thực tế, sẽ không khó hiểu khi tiếp cận với nguyên tắc “Đảng lãnh đạo toàn diện”. Tức là Đảng muốn lãnh đạo một tổ chức tôn giáo, Đảng sẽ cho phép một số ít đảng viên trở thành chức sắc tôn giáo hoặc chức sắc tôn giáo được gia nhập Đảng. Các chức sắc-đảng viên như vậy sẽ được “cơ cấu” lên những vị trí cấp cao trong Giáo hội tôn giáo đó, qua đó nhanh chóng giúp Đảng có thể lãnh đạo được tôn giáo đó.

Bạn đánh giá như thế nào về hiện tượng này, qua trường hợp của Hòa thượng Thích Thanh Sam?

KHI ĐẢNG VIÊN ĐƯỢC "CƠ CẤU" VÀO GIÁO HỘI Đại lão Hòa Thượng Thích Thanh Sam, Phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, là người giữ vị trí thứ 2 hoặc thứ 3 trong cơ quan lãnh đạo và giám sát tối cao về Đạo pháp và Giới luật của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.Một nhà sư nắm giữ vị trí trọng yếu như vậy chắc hẳn phải là một Cao tăng, phải là người yên bác, thông tuệ về Phật pháp, cũng như có một trình độ và khả năng vượt trội trong việc thuyết pháp và nghiên cứu phật học.Tuy nhiên, đối với hòa thượng Thích Thanh Sam, công chúng chỉ biết tới ông không phải vì những khả năng vượt trội của một chân tu mà vì ông là một đảng viên đảng Cộng sản được trao danh hiệu "50 năm tuổi Đảng".Thật vậy, ông không để lại cho Phât giáo Việt Nam một công trình nghiên cứu Phật học nào, tác phẩm biên khảo, dịch thuật kinh sách Phật giáo cũng không. Khả năng thuyết pháp của ông cũng không được ai nhắc đến.Tôi cố gắng tìm kiếm một bài thuyết pháp của ông để giới thiệu đến với công chúng để nhiều người hiểu hơn về ông, nhưng bất thành. Tôi chỉ tìm được một bài phát biểu hiếm hoi dài 7 phút của ông cách đây 9 năm về trước, nhân dịp ông tham dự Lễ khởi công xây dựng chùa Cương Xá-do thầy Thích Thanh Cường (biệt danh sư thầy "Thích Iphone") làm trụ trì.Nghe qua bài phát biểu của Hòa thượng Thích Thanh Sam, tôi không hiểu nổi với cách thể hiện như vậy mà ông lại được tấn phong lên bậc Cao tăng, suy cử nắm giữ vị trí trọng yếu trong Giáo hội?Không có lời giải thích nào thỏa đáng hơn ngoài việc ông được Đảng của mình "cơ cấu" vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam.Về lý thuyết, nghe qua có vẻ tréo ngoe khi Đảng có chủ thuyết vô thần lại cho phép Đảng viên của mình trở thành một chức sắc lãnh đạo tôn giáo. Nhưng về thực tế, sẽ không khó hiểu khi tiếp cận với nguyên tắc "Đảng lãnh đạo toàn diện". Tức là Đảng muốn lãnh đạo một tổ chức tôn giáo, Đảng sẽ cho phép một số ít đảng viên trở thành chức sắc tôn giáo hoặc chức sắc tôn giáo được gia nhập Đảng. Các chức sắc-đảng viên như vậy sẽ được "cơ cấu" lên những vị trí cấp cao trong Giáo hội tôn giáo đó, qua đó nhanh chóng giúp Đảng có thể lãnh đạo được tôn giáo đó.Bạn đánh giá như thế nào về hiện tượng này, qua trường hợp của Hòa thượng Thích Thanh Sam?

Publié par Phạm Lê Vương Các sur vendredi 16 mars 2018

Thủ tướng Phan Văn Khải

FB Vũ Thành Tự Anh

17-3-2018

Cố TT Phan Văn Khải. Ảnh: Báo DV

Thủ tướng Phan Văn Khải là một người bình dị, thậm chí bình dân. Tuy bề ngoài không tỏ ra sắc sảo, phong thái không có vẻ hào hoa như các vị Thủ tướng trước và sau mình, nhưng ông thực sự là một Thủ tướng “kỹ trị” nhất, bền bỉ nhất trong nỗ lực xây dựng nền kinh tế thị trường, phát triển khu vực kinh tế tư nhân và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Tướng công an trong đường dây ‘đánh bạc’ triệu đô cúng tiến chuông chùa

Người Việt

16-3-2018

Chuông do Thiếu Tướng Nguyễn Thanh Hóa cúng dường. (Hình: Facebook Trương Duy Nhất)

BÌNH ĐỊNH, Việt Nam (NV) – Ngày 15 Tháng Ba, Facebooker Trương Duy Nhất cho hay, tại chùa Thiên Hưng ở thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, đang có một quả chuông đồng “khủng” do Thiếu Tướng Nguyễn Thanh Hóa, cựu cục trưởng Cục Cảnh Sát Phòng Chống Tội Phạm Công Nghệ Cao (C50) – Bộ Công An, cúng tiến, như một cách “chăm lo công đức.”

Trên chuông này có dòng chữ màu đỏ khắc ghi: “Chuông đúc tại Ý Yên, tỉnh Nam Định vào ngày rằm Tháng Tám năm Ất Mùi (2015). Thiếu Tướng Nguyễn Thanh Hóa và gia đình phụng cúng.”

“Thiên Hưng là một ngôi chùa mới xây dựng, nhưng ‘nổi tiếng’ và được dư luận, dân tình biết đến nhiều, sau chuyến viếng thăm trong hành trình tập làm ‘người tử tế’ của cựu Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng hai năm trước. Một ngôi chùa được biết là có nhiều gắn bó, tình thân khá đặc biệt với hai nhân vật đặc biệt: Nguyễn Tấn Dũng, Trần Bắc Hà,” Facebooker này viết.

Dù CSVN chủ trương “vô thần” nhưng việc các tướng công an đúc chuông đồng cúng tiến, cúng dường, trồng “cây công đức” cho nhà chùa tại các địa phương, tổ chức dâng sao giải hạn không còn xa lạ.

Có lẽ người đi đầu trong “phong trào” này là Đại Tướng Công An, Chủ Tịch Trần Đại Quang. Hồi Tháng Chín, 2017, mạng xã hội rộ tin tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Sài Gòn có trưng bày một cặp đèn trị giá 19 tỷ đồng (hơn $835,205) do “gia đình Đại Tướng Trần Đại Quang cúng tiến.”

Chuông do Thiếu Tướng Nguyễn Thanh Hóa cúng dường. (Hình: Facebook Trương Duy Nhất)

Bình luận về vụ Tướng Nguyễn Thanh Hóa bảo kê đường dây đánh bạc triệu đô, nhà báo Hoàng Hải Vân, cựu tổng thư ký tòa soạn báo Thanh Niên, viết trên trang Facebook cá nhân: “Đánh bạc công nghệ cao mà được các quan chức công an cao cấp phòng chống tội phạm công nghệ cao cỡ như thế này bảo kê thì còn gì là quốc gia dân tộc? Nhưng bắt được là dấu hiệu tốt rồi. Còn vụ Vũ ‘Nhôm’ nữa. Một loạt cán bộ cao cấp bảo kê cho đường dây này lũng đoạn đến cả cơ quan đảng và chính quyền thành phố Đà Nẵng (và có thể còn cao hơn) vẫn chưa thấy bắt. Nếu không bắt thì cũng còn gì là quốc gia dân tộc! Có lẽ đang bắt lần lượt. Cứ tạm tin vậy đi!”

Vụ án đường dây “đánh bạc” triệu đô đang được Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra-Công An tỉnh Phú Thọ mở rộng điều tra, thì mới đây báo Tiền Phong tiết lộ, Thiếu Tướng Nguyễn Thanh Hóa đã nhận hơn 17 tỷ đồng (hơn $747,289) từ ông Nguyễn Văn Dương, con rể ông Phạm Quang Nghị, cựu bí thư Thành Ủy Hà Nội.

Theo báo Tiền Phong, “khoản tiền này đang được làm rõ mục đích, để từ đó cơ quan tố tụng xem xét khởi tố bổ sung tội danh,” và “tiền được chuyển khoản qua nhiều tài khoản lòng vòng dưới dạng hợp đồng kinh tế và cuối cùng được rút ra bằng tiền mặt.”

Ông Hóa hiện đã bị khởi tố, bắt tạm giam bốn tháng để điều tra tội “Tổ chức đánh bạc.”

Ông Dương được cơ quan điều tra xác định là một trong hai người “cầm đầu” đường dây đánh bạc ngàn tỷ xuyên quốc gia, cùng với ông Phan Sào Nam, cựu chủ tịch Hội Đồng Quản Trị, giám đốc Công Ty Cổ Phần VTC Truyền Thông Trực Tuyến – VTC Online.

Trùng khớp với những tin lan truyền trên mạng xã hội trước khi vụ này vỡ lở, báo Tiền Phong viết: “Sự việc ông Hóa vào nằm Viện 198 Bộ Công An tại Hà Nội sau khi bị đình chỉ công tác, được cho là cái cớ thể hiện sức khỏe kém, còn thực tế ông không bệnh tật gì. Cơ quan điều tra đã có những căn cứ xác định tình trạng sức khỏe của ông Hóa mà chưa cần thực hiện giám định y khoa để phục vụ quá trình điều tra. Ngay sau khi bị bắt tại Viện 198, ông Hóa được di lý về Trại Tạm Giam Công An tỉnh Phú Thọ, nhốt tại khu vực biệt giam. Tình trạng sức khỏe và tinh thần của ông Hóa được đánh giá là phù hợp để cơ quan điều tra tiếp tục lấy lời khai.” (T.K.)

Vụ đánh bạc do tướng công an bảo kê: Dùng 4 xe chở vàng, tiền tang vật

Người Việt

16-3-2017

Ông Phan Sào Nam và ông Nguyễn Thanh Hóa bị bắt do cầm đầu đường dây đánh bạc xuyên quốc gia. Ảnh: VNExpress

PHÚ THỌ, Việt Nam (NV) – Không chỉ dùng đến bốn xe chở vàng, tiền tang vật, công an còn mất gần một ngày làm việc để đếm tiền khi khám xét một địa điểm chứa tiền.

Theo báo Tiền Phong, liên quan đến đường dây đánh bạc triệu đô xuyên quốc gia do tướng công an Nguyễn Thanh Hóa, cục trưởng Cục Cảnh Sát Phòng Chống Tội Phạm Công Nghệ Cao (C50), bảo kê bị công an Phú Thọ triệt phá, đến nay, Cơ Quan An Ninh Điều Tra đã khởi tố 83 bị can, tạm giam 38 người.

‘Kịch bản’ thương vụ MobiFone mua AVG

LTS: Bài viết sau đây của báo Thanh Niên viết về phi vụ Mobifone mua AVG, có thể thấy ông Trương Minh Tuấn, Nguyễn Bắc Son và những người có liên quan, đang ở sát bên cái lò đang hừng hực cháy của ông Tổng Trọng. Cái dại của ông Trương Minh Tuấn là, mặc dù đứng đầu Bộ Truyền thông – Thông tin, là Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy viên BCH Trung ương, bao nhiêu năm trong hàng ngũ của đảng, nhưng ông không hiểu gì về đảng CSVN.

Sai lầm chết người của ông Tuấn là ông tưởng mình nắm Bộ Truyền thông – Thông tin, là ông có quyền ăn, quyền nói, nên ông chọn đường gỡ tội cho mình bằng cách dùng truyền thông để cãi tay đôi với Thanh tra Chính phủ, là cơ quan được Ban Bí thư chỉ định thanh tra phi vụ mua bán mà ông có liên quan. Nếu khôn hơn, có lẽ ông đã làm như Trịnh Xuân Thanh, “xin lỗi bác Trọng“, dù bị đốt, nhưng biết đâu chỉ bị cháy áo quần, thay vì sắp bị cháy trụi.

_____

Thanh Niên

Thái Sơn – Anh Vũ

17-3-2018

Với những diễn biến từ kết luận của Thanh tra Chính phủ có thể thấy, thương vụ MobiFone mua 95% cổ phần AVG thực chất là một màn kịch thổi vống giá trị thực của doanh nghiệp nhằm lấy tiền nhà nước.

Âm binh đang điều hành quốc gia

Blog VOA

Trân Văn

16-3-2018

Liệu có quá đáng không khi nhận định, không phải Đảng, cũng chẳng phải Quốc hội, Nhà nước, chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang điều hành quốc gia mà chính là âm binh? Ảnh: VIR

Cách nay hai năm, câu chuyện Mobifone (doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Thông tin – Truyền thông) mua 95% cổ phần của AVG (An Viên Group – tập đoàn tư nhân hoạt động trong lĩnh vực viễn thông, truyền thông) từng bị mổ xẻ qua hàng loạt bài viết được đăng trên nhiều trang web, diễn đàn điện tử vẫn được hệ thống công quyền Việt Nam xếp vào loại “thù địch, phản động”.

Quan trường hung hiểm

Blog VOA

Trân Văn

16-3-2018

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 73. Ảnh: TTXVN

“Giang hồ hung hiểm” là thành ngữ phổ biến trong giới du đãng vốn “vô pháp, vô thiên”, thường xuyên gạt bỏ cả trật tự lẫn đạo lý theo lẽ thường, tôn sùng – thực thi triết lý “mạnh được, yếu thua” và “thắng làm vua, thua làm giặc”.

Nhóm tham nhũng với quỷ kế đút lót muộn màng

Blog VOA

Bùi Tín

16-3-2018

Ngay hôm 14/3 Thanh tra chính phủ yêu cầu công an mở ngay cuộc điều tra và truy tố những bị can trong vụ đại án MobiFone – AVG để có thể sớm đưa ra tòa xét xử, coi chiêu kế hủy bỏ hợp đồng muộn màng là vô giá trị. Ảnh: Báo SGGP

Vụ án Mobifone-AVG được coi là một đại án cần nhanh chóng xét xử công khai, khẩn trương và triệt để, sau khi Ban Bí thư nhận định đây là một vụ án lớn, nghiêm trọng, nhạy cảm cần tập trung giải quyết đúng luật, thúc đẩy cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng mạnh mẻ tới phía trước, không có vùng nào là vùng cấm.

Thương vụ AVG và lý luận của Bộ 4T

FB Nguyễn Tuấn Anh

16-3-2018

Thương vụ Mobifone – AVG bắt đầu có sức hấp dẫn bởi sự giằng co quan điểm của bộ TT&TT và Thanh tra CP.

Bộ TT&TT cho rằng Thanh tra CP đã kết luận không đúng bản chất của vụ việc. Qua văn bản phản biện, bộ TT&TT đã bác bỏ gần hết các kết luận của Thanh tra CP.

Thuận Phong – Ai bảo kê cho ung nhọt tồn tại?

FB Nguyễn Tuấn Anh

16-3-2018

Đánh quỵ 60 triệu nông dân toàn quốc bằng phân bón giả một cách không thương tiếc, vậy mà không hiểu vì sao, Thuận Phong vẫn có thể nhơn nhơn ngoài vòng pháp luật cho mãi tới giờ này. 

Putin, Superman

FB Từ Thức

16-3-2018

Chủ Nhật này, dân Nga sẽ bầu Poutine (Putin) thêm 6 năm nữa. Sau 18 năm cầm vận mệnh nước Nga, nếu tính cả 4 năm làm Thủ tướng để lươn lẹo với Hiến pháp.

Chuyện ông cựu công an KGB đắc cử kể như chắc chắn, người ta chỉ chờ coi số tỷ lệ người đi bầu. Bẩy ứng cử viên khác chỉ đóng trang trí.

Bộ Ngoại giao Mỹ vinh danh Đỗ Thị Minh Hạnh là ‘anh thư nhân quyền’

VOA

16-3-2018

Trang Twitter của Phòng Dân chủ, Nhân quyền, và Lao động của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (Twitter US DOS DRL). Ảnh: internet

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hôm 14/3 xướng danh nhà tranh đấu Đỗ Thị Minh Hạnh là “anh hùng nhân quyền” nhân tháng 3 là tháng tôn vinh phụ nữ các nước.

Trang thông tin của Phòng đặc trách Dân chủ, Nhân quyền và Lao động của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ viết: “Đỗ Thị Minh Hạnh là người đồng sáng lập Phong trào Lao động Việt nhằm ủng hộ các công đoàn độc lập tại Việt Nam.”

Vụ Mobifone mua AVG: Đơn xin xem xét khẩn thiết của ông Lê Nam Trà (phần 1)

Dân Luận

Tác giả gửi tới Dân Luận

16-3-2018

Dân Luận xin đăng tải đơn xin xem xét này để độc giả khắp nơi cùng tham khảo:

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
-o0o-

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 3 năm 2018

ĐƠN XIN XEM XÉT KHẨN THIẾT

Kính gửi:

Về việc xin xem lại một số đánh giá trong dự thảo Kết luận của Thanh tra Chính phủ về Dự án đầu tư dịch vụ truyền hình mua 95% cổ phần của Công ty AVG và xin được đánh giá giới hạn phạm vi trách nhiệm cá nhân của tôi là Lê Nam Trà- nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng Công ty Viễn thông MobiFone.

Tôi là Lê Nam Trà, sinh năm 1961, vào Đảng ngày 18/7/1983, nguyên là Bí thư Đảng ủy Tổng Công ty Viễn thông MobiFone, Chủ tịch Hội đồng thành viên (HĐTV) Tổng Công ty Viễn thông MobiFone, xin gửi đến quý Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng có thẩm quyền lời chào kính trọng.

Từ hơn nửa năm nay, bản thân tôi chấp hành nghiêm túc quyết định của Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông (TTTT) điều chuyển tôi từ vị trí Chủ tịch Hội đồng Thành viên MobiFone về công tác tại Văn phòng Bộ TTTT, trong thời gian chờ đợi kết luận của Đoàn Thanh tra Chính phủ. Sau khi được tham dự các cuộc họp, tham khảo Dự thảo Kết luận Thanh tra, tôi xin được trình bày một số nội dung mấu chốt liên quan quá trình chỉ đạo, phê duyệt chủ trương và triển khai thực hiện Dự án đầu tư dịch vụ truyền hình nhận chuyển nhượng 95% cổ phần của Công ty AVG (gọi tắt Dự án), giới hạn phạm vi trách nhiệm của tôi và nêu nguyện vọng như sau:

1. Chủ trương đầu tư dịch vụ truyền hình và thẩm quyền phê duyệt, triển khai thực hiện Dự án:

Vào năm 2013 (dưới thời ông Lê Ngọc Minh làm Chủ tịch và ông Mai Văn Bình làm Tổng giám đốc) đã xây dựng Đề án tổ chức lại Công ty Thông tin di động, trong đó mục tiêu chiến lược là chuyển đổi từ nhà khai thác viễn thông thành nhà cung cấp dịch vụ viễn thông – CNTT, tham gia vào thị trường mới là truyền hình.

Liên quan đến chủ trương AVG bán cổ phần cho đối tác trong nước có từ cuối năm 2014, trước thời điểm thành lập Tổng công ty Viễn thông MobiFone và trước khi tôi (Lê Nam Trà) nhận trách nhiệm Tổng Giám đốc, sau là Chủ tịch Hội đồng thành viên (HĐTV) MobiFone. Trên cơ sở AVG có văn bản báo cáo và đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông (Bộ TTTT) hướng dẫn AVG chào bán cổ phần cho đối tác nước ngoài, Bộ TTTT đã xin ý kiến Bộ Công an và thống nhất không được phép chuyển nhượng cổ phần cho nước ngoài, mà chỉ nên bán cổ phần cho đối tác trong nước, doanh nghiệp nhà nước là tốt nhất (thể hiện thông qua các văn bản nội bộ của Bộ TTTT và văn bản gửi Bộ Công an số 200/BTTTT-VP ngày 26/11/2014; Công văn số 4352/BCA-A81 ngày 8/12/2014 của Bộ Công an…).

Ngày 01/12/2014, Bộ TTTT ra Quyết định 1798/QĐ-BTTTT về việc thành lập Tổng công ty Viễn thông MobiFone trên cơ sở tổ chức lại Công ty TNHH MTV Thông tin di động, trong đó bổ sung thêm truyền hình là ngành nghề kinh doanh chính. Như vậy, ý tưởng chào bán cổ phần của AVG và chủ trương không bán cổ phần AVG cho cổ đông AVG mà chỉ bán cho đối tác trong nước là do Bộ TTTT quyết định sau khi đã thống nhất với Bộ Công an.

Điều tôi xin được trình bày rõ thêm là, thực hiện đề án tái cơ cấu và triển khai ngành nghề kinh doanh chính là truyền hình, MobiFone đã có Công văn số 337/MOBIFONE-ĐHKT ngày 27/01/2015 đề nghị Bộ TTTT xem xét và phê duyệt chủ trương nghiên cứu đầu tư dịch vụ truyền hình, đầu tư mua lại một nhà cung cấp dịch vụ truyền hình kỹ thuật số. Ngày 06/02/2015, tại Văn bản số 408/BTTTT-QLDN, Bộ TTTT “thống nhất về chủ trương đầu tư dịch vụ truyền hình của MobiFone tại công văn nêu trên. Đề nghị MobiFone thực hiện và hoàn thiện các thủ tục mua lại doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình theo đúng quy định hiện hành, trình Bộ TTTT xem xét phê duyệt”. Sau khoảng thời gian này, Bộ TTTT đã giới thiệu cho MobiFone mua cổ phần mà các cổ đông AVG đang chào bán.

Không những thế, Bộ TTTT quyết định đưa giao dịch mua cổ phần AVG vào danh mục bí mật Nhà nước và chỉ đạo MobiFone thực hiện, thể hiện qua Công văn số 44 ngày 05/03/2015 của Bộ TTTT gửi Bộ Công an. Ngày 09/03/2015, Bộ Công an có Công văn số 418/BCA-TCAN thống nhất đưa tài liệu giao dịch này trong danh mục tài liệu bí mật của Bộ TTTT, nhấn mạnh việc chuyển nhượng cổ phần giữa AVG và MobiFone là giao dịch kinh tế giữa hai doanh nghiệp, có sự định hướng của Nhà nước. Ngày 12/03/2015, Bộ TTTT (Vụ trưởng Vụ QLDN Phạm Đình Trọng ký thừa lệnh Bộ trưởng) có Công văn số 59/BTTT-QLDN chỉ đạo MobiFone “giao dịch này thuộc danh mục bí mật nhà nước, yêu cầu MobiFone thực hiện theo đúng quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước, không phổ biến, tuyên truyền.”

Như vậy, kể từ thời điểm này, mọi hoạt động, thông tin và tài liệu liên quan đến giao dịch trao đổi với cổ đông AVG đều phải thực hiện theo chế độ MẬT. MobiFone đã tuân thủ chỉ đạo của Bộ TTTT, toàn bộ quá trình sau này từ thuê tư vấn (thực hiện chỉ định thầu) và quá trình đàm phán, lập dự án, ký kết trao đổi thông tin đều phải bảo mật thông tin.

(còn tiếp)

Thảm sát Mỹ Lai, 50 năm nhìn lại

Luật Khoa

Café Luật Khoa

16-3-2018

Vụ thảm sát Mỹ Lai do đại đội Charlie thuộc Tiểu đoàn số 1, Trung đoàn bộ binh số 20, Lữ đoàn bộ binh số 11, Sư đoàn bộ binh số 23, Lục quân Hoa Kỳ gây ra cách đây 50 năm đã để lại vô số những chấn thương tâm lý không thể xóa nhòa, và những bài học lịch sử không được phép quên.

Cuốn sách “Mỹ Lai: Việt Nam, 1968, và cuộc chìm sâu vào bóng tối” vừa được xuất bản năm ngoái có lẽ là một trong những tác phẩm đầy đủ, đa diện, và có cập nhật nhất hiện nay về thảm kịch này.

Giáo sư Howard Jones – Ảnh: history.ua.edu

Tác giả cuốn sách, Howard Jones, là giáo sư sử học thuộc trường Đại học Alabama (Mỹ). Ông có 39 năm kinh nghiệm dạy và nghiên cứu sử học, đồng thời từng làm cố vấn chuyên môn cho một số đạo diễn điện ảnh nổi tiếng như Steven Spielberg.

Có lẽ nhờ có kinh nghiệm với Hollywood như thế nên trong cuốn sách viết về Mỹ Lai, giáo sư Jones có thể dẫn dắt câu chuyện bằng một cấu trúc kịch tính và cách hành văn khá cuốn hút, như thể đã sẵn sàng để được chuyển thể thành kịch bản cho một bộ phim tranh giải Oscar trong tương lai gần.

Song Jones không hy sinh quá nhiều tính chuẩn mực và khắt khe học thuật để làm nên tính hấp dẫn cho cuốn sách. Vừa tổng hợp từ các tài liệu, nghiên cứu sẵn có về thảm kịch Mỹ Lai, giáo sư Jones vừa có các nghiên cứu điền dã của chính mình: ông phỏng vấn cả những người cựu binh Mỹ, lẫn những nạn nhân người Việt may mắn sống sót qua thảm họa.

Sự đa dạng góc nhìn đó vừa góp phần làm cuốn sách thêm lôi cuốn, vừa giúp người đọc phần nào bớt cái cảm giác lo lắng mông lung rằng có khi thông qua cuốn sách này họ đang vô tình nhìn vào lịch sử chỉ bằng lăng kính của những người Mỹ đầy dằn vặt và ưu tư về những thương đau quá khứ.

Tuy có vẻ không quá thể hiện sự đồng cảm một cách rõ rệt và sâu sắc với nỗi đau xót tột cùng của những nạn nhân Mỹ Lai, tác giả cuốn sách đã cho thấy một sự thẳng thắn đáng ngưỡng mộ khi dám nhìn vào những góc khuất của vụ việc. Ông cũng bình thản chỉ ra nhiều khía cạnh cho thấy hệ thống luật pháp và chính trị Mỹ đã bị người Mỹ níu kéo, thao túng đến mức nào để có thể góp phần đưa ra những phán quyết thiên vị cho binh lính Mỹ ra sao.

Chính sự thẳng thắn đấy sẽ giúp người đọc nhìn ra những bài học lịch sử giá trị cho tương lai.

Trích đoạn “Mỹ Lai: Việt Nam, 1968, và cuộc chìm sâu vào bóng tối” (My Lai: Vietnam, 1968, and the Descent into Darkness) – Nhà xuất bản Đại học Oxford 2017 – Tác giả: Howard Jones

Luật Khoa trích đoạn và dịch từ bản tiếng Anh (đầu đề nhỏ và cách dòng do người trích, hình minh họa không thuộc nội dung trong sách).

Trước giờ thảm sát

[…] Các chỉ thị mơ hồ của [Đại úy, chỉ huy Đại đội Charlie – ND] Medina liên quan đến những dân cư sống ở thôn Mỹ Lai số 4 khiến người ta có thể diễn giải chúng theo nhiều cách khác nhau.

Ông ta thú nhận rằng đã bảo lính của mình đốt cháy ngôi làng sau khi lục soát, nhưng ông ta phủ nhận việc ra lệnh cho họ giết người dân.

Trong một lời khai sau này, Medina nhấn mạnh rằng ông ta biết rõ quy trình tác chiến chuẩn mực là kêu bất kỳ người dân nào có mặt lúc đó tìm đường lên trụ sở chính quyền tỉnh, với chỉ dẫn rằng họ phải vào đó khai báo với vị cố vấn khu vực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Nếu thật là thế, thì theo nhiều người khác, ông ta đã không làm rõ điều này tại buổi họp phân công nhiệm vụ.

“Tôi không bao giờ có ý nghĩ là sẽ có dân thường ở đó,” Medina sau này nhấn mạnh.

Một người lính đòi xác minh. “Nếu chúng tôi thấy một người đàn bà hay cái gì giống thế thì sao? Chúng tôi có bắn không?” “Không,” Medina sau này khai rằng ông ta đã trả lời như thế. “Chỉ bắn khi họ tấn công các anh hay khi họ có vũ khí. Các anh phải cực kỳ cẩn thận và dùng lương thức (common sense); nếu họ đe dọa các anh hay họ có vũ khí hay là đang lẩn trốn, thì các anh có thể bắn họ.”

Medina sau này nói với báo giới rằng ông ta không đưa ra chỉ thị nào liên quan đến phụ nữ và trẻ con, bởi vì quân đội Mỹ đã không hề cho rằng sẽ có phụ nữ và trẻ con tại đó.

[Thiếu úy, chỉ huy Trung đội 1] Calley và những người khác có mặt tại đó đều có các cách hiểu khác nhau về hồi đáp của Medina.

“Công việc của chúng tôi,” Calley nhớ lại lời mình đã nói khi đó, “là vào đó thật nhanh và vô hiệu hóa mọi thứ. Giết mọi thứ.”

Khi được hỏi rằng mọi thứ này có bao gồm “cả phụ nữ và trẻ con” không, Medina đã trả lời rằng – theo Calley và khoảng 20 sỹ quan binh lính khác – “Ý tôi nói tất cả mọi thứ.”

Các binh sỹ có các hồi ức khác nhau về mệnh lệnh từ Medina, nhưng nhiều người trong số họ sau này, trong nhiều lời khai, đã liên tục đề cập đến một mệnh lệnh hay một lời nói ẩn ý khá rõ rằng họ phải giết tất cả những gì chuyển động.

[…]

Mọi người đều hiểu rằng họ đang tham gia một chiến dịch tìm và diệt. Như thế có nghĩa là, theo trung sỹ Earl Rushim, bất kỳ ai cũng sẽ là kẻ thù. Hạ sĩ nghiệp vụ bậc 4 Lawrence Congleton sau này kể rằng khi rời buổi họp phân công nhiệm vụ, những người lính đều cảm thấy chắc rằng họ sẽ đến đó để hủy diệt ngôi làng.

Hai người khác từ Trung đội 1 tin rằng họ sẽ phải bắn vào tất cả. Một người lính nhớ lại rằng hoặc là viên sỹ quan Michles hoặc là vị trung đội trưởng của người đó đã tuyên bố rằng, “Đây chính là thứ các cậu chờ đợi – ‘tìm và diệt’”.

Đối với những người lính trẻ thiếu kinh nghiệm nhưng đầy sợ hãi và hận thù đó, tìm và diệt có nghĩa là tìm, và diệt

Lính và trực thăng Mỹ tại Mỹ Lai ngày 16/03/1968 – Ảnh: Ronald S. Haeberle/The LIFE Images/Getty Images

[…]

Trong lời cung khai với CID (Phòng điều tra hình sự Quân đội Mỹ) hơn hai năm sau đó, Medina vô ý thú nhận rằng ông ta có biết đến khả năng sẽ có người không tham chiến (non-combatant) tại địa điểm, trong lúc ông ta đang giải thích về việc tại sao không đưa ra chỉ thị liên quan đến người bị tạm giữ và thường dân. Medina cho là bởi vì binh lính trong đại đội đã được huấn luyện trước đó, và trong các tài liệu họp hành cũng đã cung cấp các quy trình rõ ràng rồi.

Trên thực tế, ý Medina là một sỹ quan có thể ngầm cho rằng binh lính dưới quyền đã đủ quen thuộc với các khía cạnh quan trọng trong tác chiến, tới mức họ không cần phải được nhắc lại lần nữa.

Nhưng nếu thật vậy thì đây là một giả định đầy rủi ro. Medina thừa biết rằng ông ta đang chỉ huy một đám thanh niên chủ yếu là người ít kinh nghiệm chưa hề tham chiến bao giờ và thật sự lúc đó còn chưa nhận ra mặt quân thù trông thế nào.

Medina đã tiến hành công việc dựa vào tin tức tình báo từ [đại úy, trưởng bộ phận tình báo] Kotouc, vốn khẳng định rằng một tiểu đoàn Việt Cộng có khoảng hai trăm người sẽ có mặt tại Pinkville [biệt danh khu vực Mỹ Lai – ND] và rằng phụ nữ trẻ em tại thôn Mỹ Lai 4 khi ấy đều đã đi ra chợ từ lúc bảy giờ sáng. Medina không hề nghĩ sẽ có việc phải sơ tán ai trong nhiệm vụ này – và theo đó không đưa ra chỉ thị xử lý thích hợp nào – và ông ta cảm thấy không cần cảnh báo binh lính mình rằng họ không được làm hại thường dân bởi vì sẽ không có thường dân nào có mặt ở đó.

[…]

Phần lớn các nỗi lo sợ của các binh lính đều đã chỉ là tưởng tượng. Họ đã không hề biết rằng Việt Cộng quyết định không đặt mìn và bẫy tại thôn Mỹ Lai 4 bởi vì họ không muốn làm hại chính người dân của mình.

Trong phần lớn các trường hợp, mìn và bẫy ngụy trang được đặt ở bìa ngoài ngôi làng. Thế nên khi họ đã vào trong làng, những người lính Mỹ xông vào đến nơi đều đã an toàn.

Vấn đề tất nhiên là gần bốn trăm người dân trong làng lúc đó đều chưa hề đi ra chợ, hay tuân theo lời loa cảnh báo mà rời làng – vốn được cho là một phần của kế hoạch chiến dịch. Phần lớn bọn họ đang ngồi ăn sáng và không hề mong đợi sẽ có lộn xộn gì, ngay cả với đạn pháo và trực thăng trước đó. Một trong những bí ẩn của vụ việc này chính là vì sao họ đã không rời đi mà ở lại làng.

[…]

Nhưng dấu hiệu rõ ràng nhất cho thấy mọi thứ đang diễn biến cực kỳ tệ hại là khi trung đội của Calley phải dừng hành quân, họ bị vướng vào một đoàn người dân trong làng đông hơn mong đợi rất nhiều – gần 40 người đàn ông, phụ nữ và trẻ con được binh lính của Calley gom lại, cùng với một số người dân khác do Trung đội 2 dẫn vào từ đường đi ra Quốc lộ 521.

Đại úy Ernest Medina (phải), người chỉ huy đại đội lính Mỹ đi vào làng Sơn Mỹ ngày 16/03/1968 – Ảnh: flickr.com/photos/97930879@N02/

Từ trạm chỉ huy bên ngoài làng của mình, Medina kể lại rằng ông ta đã thấy bực dọc rõ ràng với tiến độ chậm chạp của nhiệm vụ. Kịch bản xấu nhất là một cuộc tấn công của Việt Cộng từ phía sau lực lượng quân Mỹ đang tiến sâu vào làng.

Vài phút sau lúc tám giờ, Medina gọi bộ đàm cho Calley, hỏi tại sao trung đội của viên sỹ quan này lại tốn quá nhiều thời gian đi qua ngôi làng để sắp xếp đội hình chờ lúc chạm trán với lực lượng Việt Cộng theo đúng kế hoạch. Cuộc trao đổi này được tường thuật lại trong cuốn sách của [nhà báo] Sack.

“Anh đang ở đâu?”

“Tôi đang ở rìa phía Tây ngôi làng, tôi đang cho người khám mấy cái hầm.”

“Chết tiệt! Tôi không bảo anh khám mấy cái hầm. Đưa người của anh vào vị trí đi.”

“Tôi có rất nhiều người Việt Nam ở đây.”

“Giải quyết bọn họ đi (get rid of ‘em). Đưa người của anh vào vị trí ngay.”

“Rõ.” Calley trả lời.

Calley hiểu tại sao chỉ huy của mình đang giận dữ. Tốc độ là một yếu tố quan trọng của một trận càn, và khâu dọn dẹp của Trung đội 3 sẽ bắt đầu trong nửa tiếng nữa. Họ là các tiểu đội Zippo – gọi vậy vì họ dùng bật lửa Zippo để đốt nhà – vốn sẽ bắt đầu đốt ngôi làng, theo đúng kế hoạch của Trung tá Barker nhằm hủy diệt hang ổ Việt Cộng này, và lúc đó tất cả mọi người phải rời ngôi làng.

Trong buổi phỏng vấn với phóng viên Mike Wallace của chương trình truyền hình 60 Phút, Binh nhất Meadlo kể lại rằng Calley lúc đó bèn tiến lại gần Meadlo khi anh ta đang đứng gần canh chừng đám người đàn ông, phụ nữ, trẻ em Việt Nam – kể cả trẻ sơ sinh – đang run rẩy vì sợ hãi.

“Anh biết phải làm gì với chúng chứ hả?”

“Dạ vâng,” Meadlo trả lời, đinh ninh rằng Calley đang nói đến việc canh chừng đám người.

[…]

Sự phân biệt chủng tộc là thứ làm nền tảng cho cái nhìn của Calley và Medina về người Việt Nam. Nhân tính không phải là một thứ được họ lưu tâm.

Bây giờ dưới áp lực từ Medina, người đang thét chửi rằng Calley đang đe dọa thành công của chiến dịch, Calley đưa ra quyết định mang tính lịch sử nhất trong cuộc đời y.

Mọi thứ y đã được huấn luyện đều ủng hộ cho quyết định đó. Các thượng cấp tại trại tập huấn và khóa huấn luyện sỹ quan lục quân đều đã phi nhân hóa (dehumanized) và ác quỷ hóa (demonized) kẻ thù.

Họ đã dạy cho y việc giết chóc và mong đợi y sẽ áp dụng nó trong tác chiến.

Calley tin rằng y có thể lấy lòng Medina và theo đó là cả đại đội bằng cách giết được nhiều kẻ thù nhất. Và chắc chắn rằng không có gì sai trái về pháp lý hay đạo đức khi tiến hành bất cứ việc gì giúp chiến thắng cuộc chiến này.

Calley đã diễn giải các chỉ thị từ buổi họp với Medina là họ sẽ giết tất cả mọi người dân trong làng để trả thù cho những binh sỹ Mỹ đã hy sinh, giành được một chiến thắng ấn tượng, và sống sót để chiến đấu tiếp – để cuối cùng sẽ được về nhà.

Bởi vì không thể phân biệt được bạn với thù, kết luận duy nhất là cho rằng mọi người Việt Nam là Việt Cộng và ra tay giết chúng.

Nếu lúc đó Calley cần thêm động lực cho quyết định của y, thì động lực đó đến từ cuộc điện đài thứ hai từ Medina, không lâu sau cuộc gọi thứ nhất, và lần này cũng theo lời Calley kể lại với [nhà báo] Sack:

“Anh đang làm gì đó?” Medina hỏi Calley.

“Tôi sẵn sàng để đi đây.”

“Ngay bây giờ, đồ chết tiệt! Tôi bảo anh: Kêu lính anh vào vị trí ngay! Sao anh bất tuân cái mệnh lệnh chó chết của tôi hả?”

“Tôi có mấy cái hầm ở đây.”

“Mặc cha mấy cái hầm!”

“Và mấy người này, họ không di chuyển nhanh lẹ gì cả.”

“Tôi không muốn nghe cái thứ chết bầm đó. Ngay bây giờ, chết tiệt thật, xử đám người chết dẫm ấy đi (waste all those goddamn people)! Và vào vị trí ngay!”

“Rõ.”

Trung úy William Calley, người ra lệnh nổ súng thảm sát tại Mỹ Lai – Ảnh: thesunchronicle.com

Calley chưa bao giờ nghĩ đến việc chất vấn mệnh lệnh, đặc biệt khi tác chiến.

Sau này y nhớ lại, rằng y căm ghét việc bị Medina quở mắng qua tần sóng radio, nhiều người khác nghe được như thế không chỉ một mà đến hai lần.

“Tôi ngán việc nghe chửi lắm rồi. Medina ở ngay sau lưng tôi giật dây. Và ông đại tá thì chắc ngay sau lưng hắn?”

Số lượng quá đông dân làng làm cho việc di chuyển họ ra khỏi làng không thể nhanh gọn đến mức làm hài lòng Medina. Calley không thể dắt họ theo và cũng không thể để họ lại.

“Chúng ta không được để ai đi ra phía sau lưng mình,” Medina đã cung khai rằng ông ta đã liên tục dặn người của mình như thế. “Công việc là xông vào nhanh và vô hiệu hóa mọi thứ. Giết chết mọi thứ.”

Khi Calley quay lại đường làng vào khoảng 15 phút sau đó, y thấy [Binh nhì] Conti đứng cạnh Meadlo, người vẫn đứng nguyên chỗ cũ khi nãy, và đám dân làng thì đang ngồi dưới đất.

Meadlo kể lại rằng Calley quắc mắt nhìn anh ta. “Sao anh chưa giết chúng đi?”

“Tôi không nghĩ rằng sếp muốn giết chúng, tôi tưởng sếp chỉ kêu tôi canh chúng thôi mà.”

“Không,” Calley gằn giọng. “Tôi muốn chúng chết.”

Meadlo và Conti liếc mắt nhìn nhau và đứng tránh ra gần đó với hai hay ba người lính khác.

“Quay lại đây,” Calley ra lệnh, bấy giờ đã giận điên lên vì hai thuộc cấp từ chối thi hành mệnh lệnh.

“Tới đây, đẩy chúng vào hàng, chúng ta sẽ giết chúng.”

[…]

Phanh phui vụ việc khi bị giới lãnh đạo sư đoàn tại Việt Nam che đậy

[…] Những gì xảy ra tại Mỹ Lai 4 và Mỹ Khê 4 có thể đã mãi là bí mật nhà nước nếu như người lính xạ thủ trực thăng Ronald Ridenhour thuộc Lữ đoàn bộ binh số 11 không tình cờ gặp một người quen từ thời huấn luyện ở Hawaii – Binh nhất Charles “Butch” Gruver của Đại đội Charlie.

Vào khoảng gần cuối tháng 04 [năm 1968], Ridenhour và Gruver cùng vừa uống bia vừa nói chuyện cập nhật tình hình với nhau tại sân bay Chu Lai.

[Ridenhour nghe chuyện thảm sát Mỹ Lai một cách không đầy đủ từ Gruver, sau đó Ridenhour điều tra thêm từ một số thành viên khác của Đại đội Charlie]

[…]

Ngày 29 tháng 03 năm 1969, hơn một năm sau vụ Mỹ Lai, Ridenhour gửi bưu điện dạng bảo đảm một lá thư năm trang cho ba mươi lãnh đạo quân đội, hành chính, và Quốc hội. Trong thư đó, Ridenhour vạch trần những gì anh cho là đã diễn ra tại Pinkville, như đã được Gruver và bốn người tham gia thảm sát khác kể lại.

Hình ảnh thảm khốc tại Mỹ Lai – Ảnh: democracynow.org

Trong lá thư của mình, Ridenhour kêu gọi Quốc hội tiến hành một cuộc điều tra “sâu rộng và công khai” các cáo buộc trong thư, và tiến hành “các hoạt động mang tính xây dựng”.

Anh đánh động vào tinh thần ái quốc của những người nhận thư bằng cách trích dẫn một lời nói của vị Thủ tướng Anh Winston Churchill: “Một đất nước không có lương tâm là một đất nước không có tâm hồn, và một đất nước không có tâm hồn không thể sống sót.”

Tổng thống Nixon – người đã lên thay Lyndon Johnson từ tháng 01/1969, cùng Ngoại trưởng William Rogers và Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân tướng Earl Wheeler đều nhận lá thư của Ridenhour. Các bản sao khác được gửi cho một số thành viên Quốc hội, bao gồm Thượng nghị sỹ Everett Dirksen của bang Illinois, J. William Fulbright của bang Arkansas, Edward Kennedy của bang Massachusetts, Eugene McCarthy của bang Minnesota, George McGovern của bang Nam Dakota, và Barry Goldwater từ bang nhà của Ridenhour bang Arizona, cùng với Morris Udall, Hạ nghị sỹ bang Arizona.

[…]

Thanh tra quân đội vào cuộc

[…] Đại tá William Wilson là một cựu sỹ quan Lực lượng đặc biệt, lúc đó vừa mới (theo một cách không vui vẻ lắm) được thuyên chuyển về văn phòng tổng Thanh tra quân đội đóng tại thủ đô Washington, không lâu trước khi lá thư của Ridenhour được gửi tới vào một buổi sáng cuối tháng 03/1969.

Đại tá Wilson đọc đi đọc lại lá thư bốn lần, ông hồi tưởng lại như thế trong một bản cung khai. Rằng ông đọc “với một sự ngỡ ngàng và kinh tởm.” Chi tiết đặc biệt đau xót là chi tiết một đứa bé bị giết.

Wilson là một cựu binh Thế chiến thứ Hai có nhiều thành tích. Ông từng tham gia cuộc đổ bộ trên bờ biển Normandy và đã từng chứng kiến hàng loạt người dân thường bị giết trong chiến trận. Tuy nhiên ông chưa bao giờ nghe đến những tội ác tày trời như đã diễn ra tại Pinkville theo lời cáo buộc. Ông nhớ lại rằng ông đã cố gắng tự thuyết phục bản thân mình rằng các cáo buộc đó vô căn cứ. Nhưng nếu xác minh được chứng cứ, ông tự bảo bản thân rằng sẽ lần cho ra xem những gì xảy ra ở Việt Nam có phải là “giết người máu lạnh” hay không.

[…]

Uẩn khúc pháp lý

[…] Trong cuộc điều tra của Wilson, quân đội đã xác định được người tên “Kalli” (mật danh thứ ba của Calley) bị cáo buộc giết người trong lá thư của Ridenhour chính là Trung úy William Calley. Calley bèn nhận được lệnh phải bay từ Việt Nam về Washington.

Y đến trình diện tại văn phòng Thanh tra quân đội và được Đại tá Norman Stanfield phỏng vấn vào ngày 09 tháng 06 năm 1969, chỉ ba tháng trước khi đến ngày chấm dứt kỳ hạn quân ngũ của y vào ngày 06 tháng 09 năm 1969.

Việc chọn thời điểm như thế rất quan trọng, bởi vì nếu quân đội Mỹ muốn kết tội giết người với Calley thì họ phải làm điều đó trước khi Calley giải ngũ, thể theo một phán quyết của Tối cao Pháp viện Mỹ.

Trong vụ Nhà nước Hoa Kỳ (liên quan đến Toth) kiện Quarles (1955), tòa án đã quyết định rằng quân đội không có quyền tài phán với những thường dân đã phạm tội hình sự trong thời gian tại ngũ.

Bị cáo trong vụ này, Robert Toth, bị tố cáo đã giết một người Hàn Quốc trong thời gian Toth còn tại ngũ trong lực lượng không quân Hoa Kỳ. Cho dù đã giải ngũ trong danh dự, Toth vẫn đã bị không quân Hoa Kỳ bắt giữ khoảng năm tháng sau đó tại nhà ông ta ở Pittsburgh. Toth bị áp giải về Hàn Quốc để tòa án binh tại đó xử lý.

Trong ý kiến phe đa số của Tối cao Pháp viện, thẩm phán Hugo Black chỉ ra rằng Bộ trưởng không quân Hoa Kỳ Donald Quarles đã có hành vi xâm phạm hiến pháp Mỹ khi áp dụng Điều 3(a) của Đạo luật về Bộ luật Công lý Quân sự Thống nhất (Uniform Code of Military Justice Act) năm 1950 nhằm đưa một cựu chiến binh ra tòa án quân sự vì một tội phạm diễn ra khi người đó còn tại ngũ.

Điều 3 Hiến pháp Mỹ ngăn chặn “sự xâm phạm khu vực tài phán của các tòa án liên bang” và đồng thời bảo đảm quyền được xử án bằng bồi thẩm đoàn của mọi công dân Mỹ.

Tuy nhiên, tòa án dân sự Hoa Kỳ không có thẩm quyền xử các tội phạm đã gây ra ở nước ngoài. Toth theo đó không thể được xử cho dù là tại tòa án binh hay tòa án dân sự.

Thẩm phán Black lúc đó kêu gọi Quốc hội Mỹ giải quyết khúc mắc này bằng cách xem xét kiến nghị của chỉ huy trưởng quân đoàn quân pháp (judge advocate general) về việc trao thẩm quyền cho các tòa án liên bang xử lý các kiểu tội phạm giống như trường hợp của Toth. Quân đoàn quân pháp không có động thái gì thêm.

Không có bằng chứng cho thấy William Calley nhận thức được về những tội ác của y hay những luận điểm pháp lý liên quan đến chúng. Nếu y giải ngũ thì y sẽ không bao giờ phải ra tòa cả.

[Văn phòng Thanh tra quân đội gấp rút điều tra và truy tố Calley ngay trước khi y hết hạn quân ngũ vào tháng 9/1969. Calley được xử bởi tòa án binh với một bồi thẩm đoàn sáu thành viên, bao gồm năm sỹ quan quân đội cấp cao.]

[…]

Calley bị tòa án binh kết án

Vào chiều muộn ngày 29 tháng 03 năm 1970, hơn bốn tháng sau phiên xử mở màn và 13 ngày sau khi nhận được các hướng dẫn từ thẩm phán, bồi thẩm đoàn đã thảo luận gần 80 tiếng đồng hồ và giờ sẵn sàng trình bày bản tuyên án trong vụ xử tội ác chiến tranh dài nhất trong lịch sử quân đội Hoa Kỳ.

Latimer [luật sư của Calley] hay phàn nàn trong lúc chờ đợi về khoản tiền ông ta bị mất vì không tham gia được một số vụ việc khác. “Cuối cùng cũng có tuyên án rồi”, Calley nói khi được gọi quay lại phòng xử án. Kennedy [thẩm phán tòa án binh] gọi Calley và các luật sư của y lên đứng gần chủ tịch bồi thẩm đoàn, Đại tá Ford.

Sau khi đứng nghiêm chào, Ford bắt đầu đọc quyết định bằng một giọng từ tốn. Bồi thẩm đoàn đã bỏ phiếu kín và hai phần ba số bồi thẩm viên đã bỏ phiếu buộc tội Calley.

Calley bị tuyên có tội sát hại có mưu tính ít nhất 22 người dân thường Việt Nam.

[Calley bị loại ngũ, lĩnh án chung thân. Y kháng án và được giảm xuống 20 năm tù. Tổng thống Nixon sau đó không ân xá hoàn toàn (pardon) mà dùng quyền khoan hồng (clemency) giảm án thêm cho Calley xuống còn 10 năm tù.

Nhiều sỹ quan cấp cao khác bao gồm Medina hoặc được xử trắng án, hoặc bên công tố không truy tố tiếp được, đều vì lý do không có đủ nhân chứng, bằng chứng. Nhiều nhân chứng là cựu binh sỹ từ chối hợp tác với bên công tố quân đội.

Án tù nhẹ cho Calley và việc truy tố thất bại các sỹ quan cao cấp khác có liên quan đến thảm sát Mỹ Lai chính là nguyên nhân khiến cho cách xử lý của chính quyền Mỹ trong vụ việc này bị phê phán là thể hiện họ cố ý giải oan xóa tội (whitewash) một vụ việc tày đình.]

[…]

Di sản 50 năm của thảm sát Mỹ Lai

[…] Tháng 06/2015, sau gần hai thập niên nghiên cứu, Bộ Quốc phòng Mỹ đã hoàn thành phiên bản cập nhật và mở rộng  Cẩm Nang Chiến Trường Quân Lực Hoa Kỳ số 27-10. Tài liệu này được xuất bản dưới tên Cẩm Nang Luật Chiến Tranh Bộ Quốc Phòng.

Dày hơn 1.200 trang, cuốn sách đề cập đến một loạt các vấn đề, bao gồm một số nỗ lực cải thiện các thiếu sót đã khiến dẫn đến những vụ việc ngày 16 tháng 03 năm 1968.

Âm vang từ vụ Mỹ Lai (và cả vụ Abu Ghraib) có thể dễ dàng nhận ra.

Tất cả các thành viên lực lượng vũ trang phải “từ chối tuân theo các mệnh lệnh rõ ràng là trái pháp luật (clearly illegal orders)” vi phạm luật chiến tranh – đặc biệt là những “mệnh lệnh giết người không thể tự vệ” vốn đang “được kiểm soát thể lý hiệu quả”.

Mệnh lệnh, chỉ thị, và diễn văn không bao giờ nên “được hiểu” là những sự cho phép ngấm ngầm việc vi phạm luật chiến tranh. Sỹ quan chỉ huy có trách nhiệm ngăn chặn thuộc cấp vi phạm luật chiến tranh.

Cẩm nang chiến trường mới này nhắc lại “những sai phạm nghiêm trọng” được liệt kê trong Công ước Geneva 1949, các tội ác chiến tranh theo định nghĩa của Quân lệnh MACV số 20-4, và các hình phạt được nêu trong Bộ luật Công lý Quân sự Thống nhất.

Cẩm nang này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc báo cáo “các vi phạm luật chiến tranh có thể có, bị nghi vấn, hay bị cáo buộc”, tiếp theo sau đó là việc điều tra cẩn thận. Tài liệu này cũng lập lại điểm chính trong Đạo luật Quyền lực chiến tranh (War Powers Act) năm 1996: tuyên bố các tội ác chiến tranh gây ra bên ngoài nước Mỹ có thể được xử án và tuyên phán bằng hệ thống luật pháp liên bang.

Sau vụ Abu Ghraib, quân đội Hoa Kỳ tiếp tục các nỗ lực khác nhằm bảo vệ người không tham chiến (non-combatants) trong thời chiến. Năm 2016, Quốc hội Mỹ ban hành Luật về Đụng Độ Vũ Trang (Law of Armed Conflict). Luật này giới hạn việc giao chiến tác chiến vào các mục tiêu quân sự.

Tuy nhiên việc có nhiều tội ác khủng khiếp diễn ra thời hậu Mỹ Lai đã tỏ rõ một điều rằng vấn đề chính trong công cuộc cải thiện cách quân đội đối xử với thường dân không nằm ở việc viết thêm luật hay quy định mới, mà nằm ở việc buộc các sỹ quan áp dụng những luật đang có.

[…

Tìm đọc thêm:

Bản chất vụ Mobifone mua Công ty Cổ phần Nghe nhìn Toàn Cầu (AVG)

FB Trần Quốc Quân

16-3-2018

Ảnh: FB Lê Nguyễn Hương Trà

Mấy ngày nay vụ Mobifone mua 95% cổ phần của AVG trị giá 8.900 tỷ đồng đang làm nóng dư luận cả nước. Xung quanh vấn đề này có rất nhiều luồng dư luận. Có ý kiến cho rằng, đây là thương vụ mua bán bình thường giữa hai doanh nghiệp. Có ý kiến cho rằng, AVG đã hoàn trả toàn bộ số tiền 8.900 tỷ cộng thêm tiền lãi 1.100 tỷ cho Mobifone thì hợp đồng mua bán giữa hai doanh nghiệp không còn hiệu lực nên không cấu thành tội trạng. Có ý kiến cho rằng, không nên hình sự hóa một quan hệ kinh tế. Có ý kiến cho rằng, dù hợp đồng mua bán đã hủy, hai bên đã khắc phục toàn bộ hậu quả, nhưng xét về khía cạnh pháp luật, thương vụ này có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cần phải khởi tố để định rõ tội trạng.

Có nên giữ bí mật nội dung làm việc với an ninh

Blog RFA

Nguyễn Tường Thụy

15-3-2018

Nếu tiết lộ thì không có lợi cho anh (chị)

Những người hoạt động xã hội dân sự (XHDS) rất lưu ý đến hành vi của mình sao cho luôn nằm trong phạm vi pháp luật cho phép. Tuy nhiên, không phạm luật là một chuyện, còn bị bắt là chuyện khác. Không phải cứ bị bắt là phạm tội. Cái chế độ này nó như thế.

Bộ TTTT: Thanh tra CP ‘sai kiến thức chuyên môn, áp đặt, suy diễn’

VOA

Khánh An

15-3-2018

Bộ Thông tin Truyền thông (TTTT) hôm 15/3 mạnh mẽ phản bác kết luận của Thanh tra Chính phủ về thương vụ Mobifone mua Công ty cổ phần nghe nhìn Toàn Cầu (AVG), nói rằng cơ quan này đã đưa ra các nhận định “không có căn cứ pháp lý”, “sai về chuyên môn”, “sai về thẩm quyền”, “suy diễn”, “có tính dẫn dắt để hiểu sai mục đích”.

Hàng loạt bài báo bị gỡ — Lỗi 404

FB Đào Tuấn

15-3-2018

Một kỷ lục vừa được thiết lập khi báo chí đồng loạt “ngỏm củ tỏi” sau chỉ “3 nốt nhạc”. Sau khi kết luận Thanh tra vụ AVG được bạch hóa, vừa xong, Bộ 4T cũng công khai ý kiến phản đối. Và ngay sau đó đã kịp thời tứ bất tử (404).

Phản đối những hành động bạo lực

FB Đoàn Bảo Châu

15-3-2018

Ông Trương Dũng bị an ninh đánh gãy răng hôm 14/3. Ảnh: FB Thảo Teresa

Tôi phản đối những hành động bạo lực, xâm hại thân thể công dân, chà đạp lên pháp luật của những người thuộc lực lượng an ninh khi họ bắt giữ và đánh đập anh Trương Dũng (Dũng Trương) ở chính cơ quan an ninh điều tra Bộ Công An số 3 Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội.

Hôm qua, sau khi tham dự lễ tưởng niệm các liệt sỹ hy sinh ở đảo Gạc Ma, chị Nguyễn Thúy Hạnh bị bắt, khi anh Trương Dũng đã đến chờ ngoài cổng ở số 3 Nguyễn Gia Thiều, anh đã bị những người mặc thường phục lôi vào đồn và bị đánh đến ngất xỉu. Sau đấy họ thuê taxi chở anh về đầu ngõ rồi vứt xuống. Đến 10 giờ đêm, một người hàng xóm nhận ra và đưa anh về nhà. Những người bạn biết tin đã đến đưa đi cấp cứu trong tình trạng răng cửa bị gẫy, nhiều vết thương trên mặt, và người.

Phản pháo kết luận thanh tra vụ AVG, lộ rõ sự non kém

FB Phạm Việt Thắng

15-3-2018

Sau một ngày Thanh tra Chính phủ công bố kết luận thương vụ AVG, Bộ TTTT có văn bản phản bác kết luận này. Theo đó, bộ cho rằng thanh tra đã có nhiều sai phạm như chưa xin ý kiến của UBTV Quốc hội để giải thích luật mà tự mình kết luận; đã có thương thảo huỷ bỏ hợp đồng mua bán AVG nhưng thanh tra không đưa vào kết luận…

Theo tôi, văn bản này, nói đúng hơn là cách thức tung văn bản này cho báo chí là thể hiện sự bấn loạn của người đứng đầu Bộ TTTT.

Phản bác kết luận thanh tra, có nghĩa là tự bảo vệ mình, là điều đáng làm, nên làm. Thanh tra cũng sai chứ, thanh tra cũng thiếu khách quan chứ. Phản bác kết luận thanh tra là một hình thức khiếu nại.

Khiếu nại là quyền, khiếu nại là không sai, nhưng quy định của Đảng có ghi phải gửi đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.

Ông Trương Minh Tuấn, bộ trưởng, là đảng viên thì phải tuân thủ quy định của Đảng.

Nhưng thay vì chỉ gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, UBKT và Thanh tra chính phủ, thì ông lại cho báo chí đăng tải. Báo chí không phải là cơ quan giải quyết khiếu nại. Ông Tuấn thua keo thứ nhất.

Trong văn bản nêu trên, Bộ TTTT, cho rằng đã thương thảo hủy bỏ hợp đồng nhưng thanh tra không đưa vào kết luận thanh tra.

Thứ nhất, cuộc thương thảo này mới dừng lại ở tầm hai doanh nghiệp, chưa có cấp có thẩm quyền cho phép, thì thử hỏi, ai dám chắc AVG lấy lại. Thứ nữa, do có vụ thương thảo huỷ bỏ hợp đồng, thì trong kết luận mới nói: NGUY CƠ thất thoát hơn 7000 tỷ đồng, còn không kết luận đã khẳng định là thất thoát, vì tiền ngân sách đã vào túi tư nhân gần hết.

Thứ hai, thương thảo sau chỉ đạo của Ban Bí thư: “Thu hồi tài sản nhà nước bị thất thoát”, chứng tỏ thương vụ này có thất thoát. Mà có thất thoát thì phải xử lí. Ông Tuấn thua keo thứ hai.

Tung văn bản phản phảo cho báo chí, ông Tuấn thể hiện sự quẫn bách trong ứng xử. Điều đó cho thấy ông này thiếu bản lĩnh. Kể cả việc vội vàng tung biên bản làm việc giữa chủ cũ AVG và Mobifone, cũng cho thấy người đứng đầu Bộ TTTT rất lo sợ trước dư luận.

Và, kết quả là các báo đã gỡ hết các thông tin phản bác mà Bộ TTTT tung ra. Ông Tuấn thua keo thứ ba!

Nếu khôn ngoan, ông Tuấn cứ giửi văn bản phản bác đến đúng địa chỉ, sau đó bằng cách nào đó mạng xã hội có được, thì sẽ ít nhiều có hiệu quả. Còn cách như mấy hôm nay thì quá non kém về mọi mặt.

Và, khi đã thua đến keo thứ ba rồi thì khó mà “gượng” được nữa, nhỉ.

Đức ‘điều tra tướng công an VN về vụ bắt cóc ở Berlin’

BBC

14-3-2018

Tòa Đại sứ Việt Nam ở Berlin được báo chí nước này chú ý đến sau vụ Trịnh Xuân Thanh. Ảnh: Carsten Koall

Truyền thông Đức, gồm cả đài phát thanh quốc tế Deutsche Welle, đưa tin cơ quan công tố liên bang Đức đang tiến hành điều tra một Phó Tổng cục trưởng An ninh, Bộ Công an Việt Nam, người bị cho là đóng vai trò trong vụ ‘bắt cóc ở Berlin’ hồi tháng Bảy năm ngoái.

Phía công tố Đức từ chối bình luận với báo chí.

Trong khi đó, bà Petra Isabel Schlagenhauf, luật sư của ông Trịnh Xuân Thanh tại Đức, nói với BBC rằng cuộc điều tra của cơ quan công tố Đức nhằm vào Trung tướng Đường Minh Hưng ‘và những người khác trong vụ bắt cóc thân chủ tôi’.

Theo luật Đức, giới chức sau khi ra cáo trạng sẽ phải chuyển tài liệu này tới cho người bị cáo buộc và luật sư bảo vệ của họ, bà luật sư Petra Schlagenhauf nói.

Bên bị cáo buộc sẽ có một thời gian để nêu quan điểm và cung cấp bằng chứng phản bác.

Sau đó, tòa sẽ tuyên bố mở phiên xét xử và định ngày để nghe lập luận của các bên, bà Schlagenhauf giải thích.

Khác với hai nhà ngoại giao Việt Nam đã bị phía Đức trục xuất trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, bà Schlagenhauf nói rằng về mặt lý thuyết, Đức có thể đòi dẫn độ ông Đường Minh Hưng, người đã rời Berlin về Việt Nam ngay sau vụ bắt cóc.

Luật sư của ông Trịnh Xuân Thanh tại Đức, bà Petra Isabel Schlagenhauf. Ảnh: BBC

Lý do, bà nói, là bởi cảnh sát Đức đã “có đủ bằng chứng cho thấy sự can dự của ông ta trong vụ bắt cóc”, và bởi “ông Hưng không được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao tại Đức như những người khác tuy cũng tham gia nhưng lại làm việc cho Tòa Đại sứ Việt Nam tại Berlin”.

Tuy nhiên, trên thực tế, bà nói bà không chắc cơ quan công tố Đức có cân nhắc tới khả năng đòi dẫn độ hay không, bởi “Việt Nam sẽ không bao giờ chấp nhận yêu cầu dẫn độ đối với ông Hưng”.

“Giữa Việt Nam và Đức chưa có hiệp định tương trợ tư pháp về dẫn độ, cũng chưa có thỏa thuận nào ở cấp thấp hơn về việc dẫn độ.”

“Hơn nữa, cũng nên lưu ý rằng mọi yêu cầu dẫn độ đều là quyết định chính trị,” bà Schlagenhauf nói và từ chối bình luận thêm về chủ đề này.

‘Trực tiếp chỉ huy vụ bắt cóc’

Ông Hưng được cho là đã có mặt ở Berlin một thời gian trong tháng Bảy.

Nay, cơ quan điều tra của Đức tin rằng ông Hưng đã trực tiếp chỉ huy vụ bắt cóc, theo báo chí Đức.

Truyền thông Đức, như các trang Süddeutsche Zeitung, và Zeit.de, trích dẫn nội dung cáo trạng đối với ông Nguyễn Hải Long, cho đến nay là người Việt duy nhất bị giới chức Đức truy tố liên quan tới vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh, theo đó nói ông Đoàn Minh Hưng tới Berlin vào thời điểm một tuần trước khi xảy ra vụ bắt cóc.

Ông Hưng đã ở tại khách sạn “Berlin, Berlin” và đã gặp gỡ với đầu mối của cơ quan tình báo tại Tòa Đại sứ Việt Nam.

Báo Tagesschau nói rằng trong tài liệu dày 90 trang của các nhà điều tra Đức, vai trò của ông Hưng và Tòa Đại sứ Việt Nam tại Berlin nay được thể hiện rõ ràng.

Ông Hưng đã gọi hơn 100 cuộc điện thoại di động và gửi các tin nhắn cho những đối tượng khác cùng tham gia vụ bắt cóc để điều phối hoạt động.

Tagesschau nói rằng trong một tài liệu dày 90 trang của các nhà điều tra Đức, vai trò của ông Hưng và Tòa Đại sứ Việt Nam tại Berlin nay đã được thể hiện rõ ràng. Ảnh: Getty Images

Chỉ hai ngày trước vụ bắt cóc hôm 23/7, ông Hưng đã chuyển chỗ ở, tới khách sạn “Sylter Hof”, và từ phòng khách sạn này ông đã “điều hành vụ bắt người”.

Ông Hưng “hầu như không rời khỏi phòng cho tới khi xảy ra vụ bắt cóc”.

Đối tượng bị bắt cóc đã “ngay lập tức được đưa tới Tòa Đại sứ Việt Nam tại Berlin-Treptow và từ đó được đưa về Việt Nam bằng một ngả nào đó không rõ,” Sueddeutsche Zeitung tường thuật.

Chính phủ Việt Nam chưa có phản ứng gì về những cáo buộc mới nhất trên truyền thông Đức.

Ảnh hưởng quan hệ song phương

Báo Sueddeutsche Zeitung bình luận rằng vụ điều tra mới nhất này cho thấy câu chuyện Trịnh Xuân Thanh đã được đẩy lên một tầm mức chính trị cao hơn.

Sau diễn biến mà phía Đức nói là ông Trịnh Xuân Thanh bị dùng vũ lực bắt đi tại một công viên ở trung tâm Berlin, chính quyền của bà Merkel lên án Việt Nam vi phạm luật quốc tế và chủ quyền của Đức.

Một nhân viên tình báo và một nhà ngoại giao làm việc tại Tòa Đại sứ Việt Nam ở Berlin sau đó đã bị trục xuất.

Đức cũng đòi Việt Nam phải xin lỗi, nhưng yêu cầu này không được Hà Nội đáp ứng.

Vụ việc khiến cho quan hệ song phương giữa hai nước ảnh hưởng nặng nề.

Hôm 22/9, Đức tuyên bố “tạm ngưng quan hệ đối tác chiến lược” với Việt Nam.

Trước đó, lễ kỷ niệm quốc khánh Việt Nam, được tổ chức hôm 31/8/2017 đã không có mặt bất kỳ vị khách Đức nào, trong khi sự kiện tương tự trước đó một năm từng đón tới 400 khách Đức và quốc tế.

Đức cũng đã tạm dừng chế độ cho phép quan chức cao cấp Việt Nam mang hộ chiếu ngoại giao nhập cảnh Đức không cần visa.

Tuy nhiên, cho đến nay, mới chỉ một người Việt bị tạm giam tại Đức liên quan tới vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh.

Ông Nguyễn Hải Long, đã sinh sống tại Cộng hòa Czech nhiều năm, được cho là đã lái chiếc xe trong vụ bắt cóc.

Trang Zeit.de của Đức có bài dài về vụ ‘bắt cóc’ ông Trịnh Xuân Thanh từ Berlin đem về Hà Nội. Ảnh: Zeit.de

Cơ quan công tố Đức hồi tuần trước buộc tội ông này làm gián điệp và tước đoạt quyền tự do của người khác.

Tuy nhiên, ông Long nói ông vô tội, trong lúc luật sư đại diện nói ông bị ‘thí chốt’.

Bà Petra Isabel Schlagenhauf cho BBC biết phiên tòa đối với ông Nguyễn Hải Long có thể sẽ bắt đầu vào cuối tháng Tư 2018 tại Berlin.

Bình luận về câu chuyện, một nhà báo tại Berlin cho BBC hay, “báo chí Đức đã đăng tin rộng rãi diễn biến này vốn đã và vẫn tiếp tục là đề tài gây khó khăn cho bang giao giữa hai nước Việt Nam và Đức hiện nay”.

“Lối thoát về mặt ngoại giao cho vụ việc dường như vẫn chưa thấy hé lộ.

Với việc hình thành bộ máy lãnh đạo chính phủ mới của Đức, câu hỏi về việc xử lý vụ Trịnh Xuân Thanh sẽ còn là một đề tài tiếp tục nóng.”

Cũng trong ngày 14/03, bà Angela Merkel đã tuyên thệ lên làm Thủ tướng Đức thêm một nhiệm kỳ để lãnh đạo chính phủ liên minh CDU-SPD.

Trường Sa 1988: không nổ súng trước nhưng phải nổ súng

FB Lê Mạnh Hà

14-3-2018

1. Quá trình đóng giữ của các bên tại Trường Sa

Đây là một quá trình dài, phức tạp, tôi chỉ nêu một số điểm chính. Hiện nay các bên đóng giữ 47 thực thể địa lý (gọi tắt là đảo). Không phải ngay từ đầu Việt Nam có 21 đảo (33 điểm đảo) như hiện nay. Trước 30/4/1975 và cho đến 1986 Việt Nam chỉ đóng giữ 7 đảo. Nhưng đến năm 1988 Việt Nam đóng quân trên 21 đảo, nhiều gấp 3 lần trước đó. 1971-1973 Philippines đóng giữ 5 đảo, đến nay họ giữ 10 đảo. Năm 1946, quân đội Trung Hoa dân quốc đóng giữ đảo Ba Bình. Năm 1956 quân đội Đài Loan tái chiếm đảo này.

Trần Quốc Quân: Cần trả lại sự thật lịch sử

LTS: Liên quan đến sự kiện Gạc Ma, bài viết của tác giả Trần Quốc Quân đưa ra quan điểm gây tranh cãi về những phát biểu của tướng Lê Mã Lương, tại Hội thảo Minh Triết Biển Đông ngày 14/6/2014. Tướng Lương nói:

“Bởi vì có một câu chuyện như thế này: Có đồng chí lãnh đạo cấp cao ra lệnh cho bộ đội ta không được nổ súng nếu như (Trung Quốc) đánh chiếm đảo Gạc Ma hay bất kỳ một đảo nào ở Trường Sa, không được nổ súng. Và sau này có một câu chuyện và tài liệu đã rõ rồi, cho nên trong một cuộc họp của Bộ Chính trị, đồng chí Nguyễn Cơ Thạch đã đập bàn và nói: Ai ra lệnh cho bộ đội không được nổ súng?

Hãy coi chừng

FB Nguyễn Anh Tuấn

14-3-2018

Tháng 5 năm ngoái mình có đặt nghi vấn Bộ trưởng Trương Minh Tuấn nói dối Quốc Hội về những gì ông ấy thực sự làm được trong việc hợp tác với Google và Facebook để kiểm soát nội dung trên mạng xã hội.

Ông Tuấn trong một thời gian dài cũng tỏ ra cứng rắn quá mức cần thiết với báo chí trong nước với hàng loạt án phạt đối với nhà báo, cá biệt còn có một số vụ ông đình bản cả tờ báo.

Hai năm qua từ sau Đại hội Đảng, ông Tuấn tự mô tả như một tướng tiên phong trên mặt trận tư tưởng, trong thì khua đao trấn áp báo chí, ngoài lại múa kiếm kiềm toả mạng xã hội. Thật khó tìm được gương mặt nào sáng giá hơn đi vào Bộ Chính trị với vị trí Trưởng Ban Tuyên giáo và rồi sau đó có thể là Tổng Bí thư.

Nhưng giờ hoá ra ông Tuấn lại dính líu tới vụ AVG – một sai phạm về tiền bạc.

Thật đúng như người ta nói, dưới chế độ độc đoán, những tay tỏ ra bảo thủ nhất chính là những kẻ cơ hội nhất.

Những người này, khi tự chọn cho mình quan điểm cứng rắn và bảo thủ, họ luôn ở thế phê phán bất kỳ ai trong nội bộ có dấu hiệu cải cách, trong khi họ hiếm khi bị tấn công vì sự bảo thủ, cứng rắn và giáo điều của họ. Họ luôn trong vùng an toàn.

Và hơn thế nữa, trong nhiều trường hợp, chẳng hạn như Bộ trưởng Tuấn ở đây, lựa chọn quan điểm bảo thủ đó còn giúp che mờ đi các sai phạm khác liên quan tới tiền bạc.

Vậy thì gợi ý ở đây là, nếu thấy lãnh đạo nào tỏ ra quá cứng rắn và bảo thủ, hãy coi chừng, rất có thể người đó đang cố tình đánh lạc hướng dư luận khỏi những sai phạm về tiền bạc của mình.

Thư ngỏ về vụ LS Phạm Công Út bị xóa tên khỏi đoàn luật sư

LS Đặng Đình Mạnh

14-3-2018

LS Phạm Công Út tại một phiên tòa. Ảnh: Facebook tác giả

Kính thưa Quý đồng nghiệp

Trong một hai ngày qua, chắc trong giới luật sư không khỏi ngỡ ngàng về quyết định kỷ luật của Đoàn LS TP.HCM đối với một đồng nghiệp khác của chúng ta là LS Phạm Công Út, người mà chúng ta ngưỡng mộ vì những cống hiến, dấn thân của anh trong nỗ lực giải oan các vụ án hình sự với tài năng thật sự xuất chúng. Sự tập hợp đông đảo các luật sư quanh LS Phạm Công Út để cùng đồng hành với các hoạt động của anh là sự khẳng định không thể chối cãi.

Thực trạng về công tác Tuyên huấn (công tác tuyên truyền hướng dẫn tâm lý xã hội) của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay

Viet-Studies

Phạm Hưng Quốc

14-3-2018

Qua bài báo nhan đề  “Dự báo tình hình chính trị Việt Nam trong thời gian tới – một sự suy diễn, xuyên tạc thiển cận” của bút danh Lê Thế Cương trong báo CAND số ra ngày 9 tháng 3 năm 2018, tôi thấy giật mình về tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của công tác tuyên huấn của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay.

Người ta có thể hình dung là sau khi đọc bài “Dự báo diễn biến tình hình chính trị của Việt Nam trong thời gian tới ” của bút danh Phạm Hưng Quốc trên blog của Trần Hữu Dũng, một vị lãnh đạo cao cấp trong ban tuyên huấn của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ thị cho báo CAND (người gác cửa của chế độ) phải có bài phản bác quyết liệt bài viết nêu trên của Phạm Hưng Quốc. Rồi sau đó ngài Tổng biên tập báo CAND đã giao trách nhiệm viết bài cho môt cây bút “sắc lẹm” của báo thực hiện.

Cây bút sắc lẹm đương nhiên để viết được bài phản bác thì phải đọc bài của Phạm Hưng Quốc. Nhưng anh ta đã đọc qua quýt, và khi còn chưa hiểu đầy đủ ý nghĩa “thâm độc” có tính chống phá “chế độ” của Phạm Hưng Quốc thì anh ta đã vội viết bài theo cách “ăn bánh trả tiền” tức là copy/paste những đoạn viết về chủ trương chống tham nhũng của Đảng cộng sản có trích dẫn hàng loạt các nghị quyết của Đảng cộng sản đã được đăng trên hàng nghìn bài báo “lề Đảng” hiện hành để làm đầy bài viết phản bác của mình.

Để làm tăng thêm khí phách của mình, anh ta lại bịa ra một số trích dẫn trong bài viết của Phạm Hưng Quốc mà trên thực tế không có. Kết quả là một bài báo phản bác của anh ta chỉ dành cho những người chưa đọc bài của Phạm Hưng Quốc và những người mắc căn bệnh “nghiện Đảng của nhưng năm 60, 70 của thế kỷ trước“ còn đang sống đến ngày nay mà chưa dứt cơn nghiện. Bài viết này của Lê Thế Cương là một sản phẩm của cách làm việc rất tắc trách, cẩu thả với chính chế độ, với sự sinh tồn của Đảng cộng sản Việt Nam.

Thưa các vị lãnh đạo Đảng. Nếu các vị vẫn tiếp tục duy trì một đội ngũ cán bộ tuyên huấn như thế này thì chính đây sẽ là đội ngũ đào huyệt chôn Đảng, chôn chế độ một cách nhanh nhất. Chính Đảng đang đào tạo, dạy dỗ và trả lương cho các lực lượng NỘI XÂM nguy hiểm này. Đảng mà để cho những kẻ xu thời, lười biếng, cẩu thả, gian dối mượn áo Đảng, sức mạnh trấn áp của Đảng …. để đe dọa dân, chụp mũ cho dân, cho những người còn lương tâm và tự trọng muốn đóng góp cho đất nước để bắt bớ trù dập, thì Đảng sẽ đi đến đâu? Chế độ sẽ tồn tại bao lâu nữa?

Nhìn lại công tác tuyên huấn của Đảng cộng sản kể từ ngày 2/9/1945 đến nay, trong chiến tranh, với mục tiêu “đánh đuổi đế quốc xâm lược, thống nhất đất nước”, công tác tuyên huấn của Đảng cộng sản Việt Nam đã khai thác triệt để lòng yêu nước, tự tôn dân tộc. Đưa ra mục tiêu xây dựng đất nước “độc lập, tự do, hạnh phúc”. Công tác tuyên huấn của Đảng mặc dù bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa Cộng sản ngoại lai nên đã mắc những sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất, chỉnh huấn chỉnh quân, Nhân văn Giai phẩm … nhưng vì biết bám sát vào mục tiêu “độc lập, tự do, hạnh phúc” nên đã huy động được lòng dân làm được những kỳ tích  trong cuộc chiến.

Phải thừa nhận là công tác tuyên huấn trong giai đoạn chiến tranh đã biết cách thúc đẩy lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của mọi người dân. Với sự khéo léo, khôn ngoan, công tác tuyên huấn đã khá thành công trong việc động viên toàn dân cùng làm tuyên huấn. Cụ thể là biết bao những bài hát, bài thơ, tác phẩm văn học của mọi tầng lớp nhân dân được sản sinh trong thời kỳ này đã làm cho cuộc chiến khốc liệt đầy chết chóc trở thành một cuộc chiến thần thánh có chứa đựng cả những yếu tố cao thượng và lãng mạn, nhân văn nhất định của nó.

Hàng triệu con người Việt Nam đã ngã xuống với tâm niệm cống hiến giọt máu của mình cho nền độc lập của tổ quốc. Trong số những người ngã xuống có rất nhiều đảng viên cộng sản kỳ cựu. Đối với họ Chủ nghĩa cộng sản là quyết tâm giành lại độc lập thống nhất tổ quốc và rồi sau đó TẤT YẾU SẼ XÂY DƯNG ĐƯỢC ĐẤT NƯỚC TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC. Hàng triệu con người đã nghĩ như vậy và tin như vậy. Ngay cả những lãnh tụ cộng sản cũng hoàn toàn nghĩ như vậy và tin như vậy.

Khi đất nước thoát khỏi chiến tranh, trong một thời gian dài các lãnh tụ cộng sản Việt Nam do nhiều lý do: kiến thức hạn hẹp, thiếu sự tiếp cận đầy đủ thông tin của một thế giới thường xuyên biến đổi, sự kiêu ngạo của kẻ chiến thắng, tư tưởng giáo điều, lệ thuộc vào cái hình bóng trừu tượng của Chủ nghĩa cộng sản do bên ngoài áp đặt … đã không thoát khỏi những ấu trĩ đến mức lạ lùng trong việc đưa ra các chính sách kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa và cuối cùng suýt đưa đất nước đến bờ sự đổ vỡ và phá sản.

Năm 1986 Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định “đổi mới” và “cởi trói”. Nhưng thế nào là đổi mới? Cởi trói cái gì? Ai trói? Vì sao lãnh đạo Đảng lại chịu bị trói? Bị trói vào lúc nào, bao lâu rồi ….? Không ai dám nghiêm túc nhìn thẳng, nói thật. Luôn tìm cách né tránh, lựa chiều, tùy nghi diễn đạt theo khả năng và cương vị của mình.

Từ ngày lên cầm quyền, Đảng cộng sản luôn khẳng định vai trò tiên phong, “THẮP ĐUỐC SOI ĐƯỜNG“ của mình đối với đất nước và dân tộc. Nhưng từ ngày chiến tranh kết thúc đến nay trên thực tế các đường lối chính sách của Đảng luôn chạy theo sự thúc bách của thực tiễn phát triển kinh tế xã hội, nhiều khi Đảng còn trở thành vật cản cho biết bao những đường lối chính sách tiến bộ. Biết bao con người đã phải trả giá rất đắt, xã hội, nền kinh tế bị tổn thất nặng nề thì Đảng mới chịu tuân theo quy luật của sự phát triển. Với thực trạng này thì công tác tuyên huấn của Đảng có thể nói là khâu kém nhất trong các khâu. Ngành tuyên huấn dần trở thành môt cái nôi chứa đựng những lớp người chuyên ăn theo nói leo, lựa theo ý của lãnh tụ. Ngoài viêc trông chờ vào ngân sách nhà nước thì cán bộ tuyên huấn luôn mang các tư tưởng Chủ nghĩa cộng sản mơ hồ ra dọa nạt, đe nẹt mọi người vừa để tỏ lòng kiên định, trung thành với chế độ vừa để kiếm ăn.

Có thể nói Việt Nam hiện nay vừa bị phá hoại bởi tệ tham nhũng về vật chất vừa bị tổn hại nghiêm trong bởi lớp người ăn không ngồi rồi gây ra biết bao nhũng nhiễu trên mọi mặt của đời sống người dân, cản trở những tiếng nói phản biện tâm huyết, trung thực. Tác giả bài viết này xin kể lại một câu chuyện lịch sử có thực 100% mà rất may những nhân chứng của câu chuyện tuy cao tuổi nhưng vẫn còn sống tại Hà Nội: Vào cuối những năm 60 của thế kỷ trước, Lê Duẩn nhân chuyến đi thăm và làm việc tại Trung Quốc đã được nghe một cán bộ cao cấp của mình đang làm việc thường trực tại Trung Quốc báo cáo là trong cách mạng văn hóa đã tạo ra những thảm cảnh đến cùng cực cho rất nhiều địa phương tại Trung Quốc. Người dân chết đói la liệt, cả nước thiếu ăn. Mao Trạch Đông đi kinh lý tình hình phát hiện thấy một số địa phương không xảy ra nạn đói, hỏi ra mới biết là tại các địa phương này các tổ chức Đảng cộng sản buông lơi việc lãnh đạo Đảng để cho dân tự xoay sở. Trước hiện tượng này Mao đã ra chỉ thị mật là nếu địa phương nào đói quá thì dừng sự can thiệp của các tổ chức Đảng cộng sản tại các địa phương đó. Nghe xong báo cáo mật này Lê Duẩn căn dặn cấp dưới của mình cần nhắc lại kinh nghiệm này cho ông ta khi ở Việt Nam gặp phải tình thế tương tự.

Qua câu chuyện này đã nói lên một thực tế là trong thực tế Chủ nghĩa cộng sản đã từ lâu bộc lộ tính chất “phản cách mạng” đối với chính quốc gia dân tộc mình. Để tiếp tục duy trì sự độc tài ích kỷ. Họ chỉ còn đựa vào một khái niệm đạo đức rất mơ hồ là “kiên trung với chủ nghĩa Mác Lê” làm cái cớ để nhằm che đậy cho sự yếu kém, suy thoái của mình. Chắc chắn rằng khi hỏi chủ nghĩa Mác Lê hiện nay đươc đổi mới thế nào? Các nguyên tắc cơ bản của nó còn giá trị hay không? Nếu không thì tại sao phải tiếp tục chạy theo nó? Nếu rời bỏ những nguyên tắc cơ bản của nó thì có được gọi là trung thành hay không? Các khái niệm về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lê được các hậu duệ trung thành vận dụng ra sao? ….

Ngay cả trên thực tế Đảng cộng sản Trung Quốc có thể được coi là trung thành với chủ nghĩa Mác Lê hay không? Chủ nghĩa quốc tế vô sản đâu rồi mà Đảng cộng sản Trung Quốc lại đem quân định đánh một nước cộng sản anh em với mình? Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc có phải là một khái niệm “bình cũ, rượu mới” hay không. Bài phát biểu của họ Tập trong Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc vừa qua có mấy lần nhắc tới Mác Lê, mấy lần nhắc tới Chủ nghĩa xã hội và bao nhiêu lần nói tới dân tộc Trung hoa? Đứng trên phương diện khoa học thì việc  thay đổi hay giữ nguyên một cái tên có thể thay đổi bản chất của sự việc được hay không?… Khoác cái áo thầy tu có thể trở thành thầy tu ngay hay không? Kính xin các nhà tuyên huấn trả lời các câu hỏi rất đơn giản này.

Thưa các vị lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, bài viết này của bút danh Phạm Hưng Quốc không hàm ý xóa bỏ hay phủ nhận vai trò của Đảng cộng sản đối với lịch sử cận đại của Việt Nam. Những gì mà Đảng cộng sản đã làm được cho đất nước, cho dân tộc lịch sử sẽ ghi nhận, nhưng như vậy không có nghĩa là không được nêu ra những nhức nhối mà Đảng cộng sản đã, đang tạo ra những tai ương cho đất nước trong quá khứ, hiện tại và có thể là tương lai. Chúng tôi xin phép được nghiêng mình kính cẩn trước anh linh của biết bao Người con Đất Việt đã hy sinh cho tự do, thống nhất đất nước và những Người con đã hy sinh để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và nền độ lập của đất nước không kể là Bắc hay Nam, trong đó có rất nhiều người đứng dưới lá cờ cộng sản. Cho dù họ có thể không hiểu hết bản chất của chủ thuyết Mác Lê Nin hoặc ý đồ của những nhà độc tài khoác áo cộng sản nhưng họ vẫn tin rằng họ đã cống hiến cả đời mình cho các giá trị cao cả của đất nước và con người Việt Nam. Họ đã ngã xuống và tin vào đức tin của mình cho tới hơi thở cuối cùng. Nếu các vị đặt lợi ích đất nước lên trên tất cả thì các vị cần phải dũng cảm, trung thực nhận ra những sai sót yếu kém của mình để rồi biết huy động sức mạnh của  toàn dân đoàn kết xây dựng đất nước. Tạo ra một không gian và điều kiện tốt nhất cho những con người có trách nhiệm, có lòng tự trọng và nghị lực, có trí thức đóng góp cho sự phát triển đất nước và loại trừ dần những môi trường cho những kẻ cơ hội, lười biếng vô trách nhiệm và giả dối đang ngăn cản, đục khoét và phá hoại đất nước. Lịch sử sẽ lên án những kẻ hèn nhát, hủ bại.

Thưa ông Nguyễn Phú Trọng, cuộc chiến chống tham nhũng là tất yếu không chỉ vì sự sống còn của chế độ mà còn vì sự tồn vong của đất nước và dân tộc. Việc ông và các đồng chí của ông đang làm là rất gian nan, khó khăn và phải đối diện với nhiều thách thức sống còn. Để cuộc chiến này đi đến thắng lợi thì một trong những yếu tố không thể thiếu là công tác tuyên huấn và truyền thông phải huy động được sức mạnh của toàn dân. Đây là chỗ dựa vĩnh cửu và toàn năng cho mọi cuộc chiến, dù để chống ngoại xâm hay nội xâm. Phạm Hưng Quốc chúng tôi thấy rằng ông và các đồng chí của ông không hiểu vô tình hay hữu ý, đang buông lơi công tác tuyên huấn và mặt trận truyền thông vô cùng quan trọng này thông qua việc vẫn dung dưỡng một đội ngũ quá đông đảo những kẻ ăn theo nói leo, lười biếng, cơ hội rẻ tiền. Công tác truyền thông cần phải thu hút được những con người có tâm, có tầm, có trí thức, sáng tạo, dũng cảm.

“Công an: tao không sợ — Con quan chức hả: tao không sợ!”

Vũ Hoàng Nguyên

14-3-2018

Đánh bạc online kinh khủng hơn ma tuý và coi thường pháp luật hơn bất cứ loại tội phạm nào: Nhờ ơn anh Hoá! 

Tin vui nhất vài ngày qua là bắt Hoá sau một thời gian “giả điên” trong bệnh viện. Hoá giả điên nhưng thời gian đó, những tay chân dưới sự bảo kê của Hoá vẫn tác oai tác quái. Không biết bao nhiêu sinh viên đã phải rời khỏi trường học, bao nhiêu bạn trẻ mới ra trường giã bỏ giấc mơ xây dựng cuộc đời; bao nhiêu người lành lặn trở thành tật nguyền; bao nhiêu công chức đang yên đang lành chợt thành trốn chui trốn nhủi, mất hết tiền đồ sự nghiệp, tan vỡ hạnh phúc…, chỉ vì một thứ ma tuý mới có tên: đánh bạc online.

Trường THPT Nhân Việt tưởng niệm sự kiện Gạc Ma

FB Nguyễn Trường Uy

14-3-2018

Học sinh trường THPT Nhân Việt tưởng niệm sự kiện Gạc Ma. Ảnh: FB của tác giả.

Sáng nay 14-3, học sinh trường THPT Nhân Việt (quận Tân Phú, TP.HCM) đã dành một phút mặc niệm tưởng nhớ 64 chiến sĩ hải quân hy sinh ở Gạc Ma 30 năm trước.

Vì sao nước Hàn phát triển?

FB Nguyễn Tiến Dũng

14-3-2018

Học sinh Hàn Quốc. Ảnh: internet

Những ngày qua tôi ở Hàn Quốc, do một trung tâm thuộc IBS (Viện nghiên cứu cơ bản Hàn Quốc) mời sang làm việc. Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một sờ, trăm sờ không bằng một ấy. Nên đây là dịp để tôi sống và làm việc cạnh người Hàn và tìm hiểu về xã hội của họ, để hiểu rõ hơn vì sao nước Hàn lại phát triển, và đâu là những mặt trái?

Biến dạng quyền lực

FB Nguyễn Tiến Tường

14-3-2018

Ông Nguyễn Việt Thành. Ảnh: Báo LĐ

Năm 1997, đại uý Vũ Xuân Trường thuộc tổng cục CSHS Bộ Công An bị tử hình vì cầm đầu đường dây buôn bán ma tuý lớn nhất nước. Đó là một sự kiện chấn động.

Cho đến bây giờ, việc lãnh đạo công an dính vào các đại án không còn hiếm nữa. Tại sao lại như vậy? Rất dễ giải thích là quyền lực biến dạng.

Trong một xã hội “công an trị”, công an quản lý tuyệt đối. Đôi khi cả một tấm giấy tuỳ thân rất hành chính, cũng do công an quản.