Cái bóng của thần chết

S. Alexievich

Nguồn ảnh: Traveltoroad.com

Bà cần biết những dữ kiện chi tiết về khoảng thời gian đó? Hay bà chỉ muốn nghe câu chuyện của riêng tôi? Chẳng hạn như, trước đó tôi không phải là một nhiếp ảnh gia, thế mà lúc ấy tôi đã cầm lấy máy hình và chụp, chỉ đơn giản vì tôi mang theo bên mình một cái máy chụp hình. Giờ thì chụp hình đã trở thành nghề nghiệp của tôi. Dù rất muốn, tôi vẫn không thể nào rũ bỏ được cái cảm giác mới mẻ từ lúc ấy nó đã bám vào tôi. Bà có hiểu được không? {Trong lúc vừa nói chuyện, anh ta vừa trải những tấm hình ra trên bàn, trên ghế, trên bệ cửa sổ: hình những bông Hướng Dương khổng lồ to cỡ tay lái xe hơi; hình một tổ chim sẻ trong ngôi làng vắng hoe không còn một bóng người; hình một nghĩa trang lẻ loi phía bên ngoài treo tấm bảng có hàng chữ: “Độ nhiễm xạ rất cao. Không được vào.”; hình một chiếc xe đẩy của em bé đậu trên sân cỏ căn nhà bỏ hoang, các cửa sổ được che đậy kín mít, và trong chiếc xe đẩy có một con quạ ở tư thế như thể nó đang canh chừng cái tổ của mình; hình một khung cảnh cổ điển của những con chim sếu đậu trên một cánh đồng trơ trọi.}.

Người ta hỏi tôi: “Sao anh không chụp ảnh màu? ảnh màu ấy mà!”. Nhưng Chernobyl, nghĩa đen của nó là một sự cố ảm đạm, đen tối. Chẳng có màu sắc gì ở đó cả. Còn câu chuyện của tôi? đơn giản nó chính là những chú thích cho mấy tấm hình này {ngón tay chỉ vào những tấm hình}. Thôi được rồi. Tôi sẽ cố để kể thành lời câu chuyện của tôi, dù thực sự nó nằm ngay ở trong những bức hình này. {Lại dùng ngón tay chỉ vào những bức hình}.

Lúc ấy tôi đang làm ở trong một xí nghiệp, và cũng đang sửa soạn hoàn tất lớp học hàm thụ về lịch sử ở một trường đại học. Ở xí nghiệp, tôi là thợ hàn bậc hai. Họ cho lệnh gom chúng tôi lại thành một tổ và khẩn cấp đưa chúng tôi đi như thể đưa người ra mặt trận.

“Đưa chúng tôi đi đâu đây?”

“Nơi người ta bảo các anh phải đến.”

“Chúng tôi sẽ phải làm gì?”

“Các anh làm điều người ta bảo phải làm.”

“Nhưng chúng tôi là những người thợ xây dựng.”

“Thì các anh cũng sẽ làm công việc xây dựng.”.

Chúng tôi xây những công trình dùng để yểm trợ: Khu giặt dũ, nhà kho, lều ngủ. Tôi được giao nhiệm vụ rỡ những bao xi măng. Đó là loại xi măng gì, xuất xứ từ đâu, chúng tôi không ai thắc mắc. Người ta chở đến thì chúng tôi rỡ xuống. Cứ thế, cả ngày chúng tôi xúc xi măng. Đến cuối ngày, xi măng bám vào áo quần, vào trang thiết bị bảo hộ, vào đầu tóc chân tay thành một lớp bọc màu xám kín đến độ chỉ còn nhìn thấy hàm răng trắng nhỡn của mỗi người. Xong một ngày, chúng tôi cởi ra, rũ sạch lớp xi măng để hôm sau lại khoác lên người.

Chúng tôi được tham dự những buổi thảo luận chính trị – ở đó, người ta bảo chúng tôi là những anh hùng, đang hoàn thành nhiệm vụ cho đất nước như những người lính ngoài mặt trận. Toàn là những thuật ngữ quân sự. Bec là gì? Curie là gì? Milliroentgen là gì? Chúng tôi hỏi viên chỉ huy. Ông ta không có câu trả lời, bảo ở học viện quân sự người ta không dậy chúng tôi những thứ đó. Milli, Micro, chỉ toàn là thứ ký tự của người Tàu đối với viên chỉ huy của chúng tôi. “Các anh biết những điều đó để làm gì? Cứ làm theo lệnh. Ở đây các anh là chiến sĩ.”. Phải rồi, chiến sĩ – chứ không phải tội phạm.

Một ủy ban ghé thăm. Họ bảo: “Thế này nhé! mọi thứ ở đây đều ổn cả. Độ phóng xạ trong môi trường ở mức an toàn. Nhưng mà cách đây 4 ki lô mét tình hình rất tồi tệ. Đã có lệnh di tản dân chúng ra khỏi nơi đó. Nhưng ở đây mọi thứ đều ổn cả.”. Đi theo với ủy ban có  một chuyên viên đo độ nhiễm xạ. Ông ta mở nút vận hành trên cái hộp đeo trên lưng, rồi với tay huơ một cái ống dài ngang qua những chiếc ủng chúng tôi đang mặc. Thốt nhiên ông ta nhẩy nhổm qua một bên – đó là thứ phản ứng tự nhiên mà  ông ta không thể tự mình kềm chế được.

Nhưng đây mới là phần thú vị trong câu chuyện dành cho bà, một nhà văn. Theo bà thì chúng tôi sẽ nhớ việc xẩy ra như vậy trong thời gian bao lâu? Nhiều lắm là trong vài ngày chứ gì! Người Nga thường thì không chỉ suy nghĩ cho riêng mình, cho cuộc sống của riêng mình, hãy đồng ý như thế đã. Không chỉ những chính trị gia của chúng ta không có khả năng nhìn thấy giá trị của những cá nhân riêng lẻ, mà chính chúng ta cũng không có khả năng đó. Bà hiểu ý tôi muốn nói gì không? Chúng ta không được giáo dục để có khả năng đó. Mà là ngược lại. Tất nhiên là ở trong Khu Cấm mọi người đều uống rượu. Uống rất nhiều. Đêm xuống là không còn ai tỉnh táo nữa. Sau một hai ly đầu, người ta nhớ vợ, nhớ con, hoặc kể lể về công ăn việc làm. Hoặc nguyền rủa các ông sếp của họ. Nhưng đến khi đã cạn một hai chai Vodka, thì điều duy nhất nói đến trong các câu chuyện là số phận của đất nước và cấu trúc của vũ trụ. Gorbachev và Ligachev, Stalin. Liệu chúng ta có trở thành được một đế quốc vĩ đại? Liệu chúng ta có đánh bại được người Mỹ? Thời điểm ấy là năm 1986 – máy bay của ai tốt hơn, tàu vũ trụ của ai đáng tin cậy hơn?  Ừ thì nhà máy hạt nhân Chernobyl phát nổ, nhưng chúng ta đã đưa được người vào không gian đầu tiên! Bà hiểu chưa nào? Cứ thế chúng tôi uống rượu, bàn tán cho đến khi khản cả cổ, cho đến khi trời sáng. Vấn đề là chúng tôi không có máy đo độ nhiễm xạ, mà người ta cũng không cung cấp cho chúng tôi một vài loại bột đặc biệt nào đó để phòng khi? Rằng chúng tôi không có máy giặt để giặt dũ những thứ quần áo bảo hộ mỗi ngày một lần thay vì một tháng hai lần? Chuyện đó để sau sẽ nói. Hoặc chờ đến giữa câu chuyện đã, bà nhé! Khỉ thật! chúng tôi được nuôi dưỡng như thế mà!

Rượu Vodka ở đó quý hơn cả vàng. Không dễ gì tìm mua được. Mọi thứ ở trong các ngôi làng chung quanh chúng tôi đều say xỉn cả: rượu Vodka, ánh trăng, kem bôi da, dầu sơn móng tay, bình phun. Hãy cứ hình dung lũ chúng tôi, với cái chai 3 lít đựng ánh trăng, hay một chai nước hoa hiệu Shipr, thế là đủ để chúng tôi say sưa với những câu chuyện không bao giờ dứt. Trong chúng tôi có cả các thầy giáo, các kỹ sư này nọ. Chưa kể còn có các đơn vị tình nguyện quốc tế: Nga, Belarus, Kazakhs, Ukraina v..v.. Chúng tôi có các buổi tranh luận triết học – với đề tài tại sao chúng ta lại biến thành tù nhân của chủ nghĩa Duy Vật, và điều ấy giới hạn chúng ta với tư cách một vật thể của thế giới này, nhưng Chernobyl vẫn là cánh cổng mở ra cho chúng ta bước vào vô tận. Tôi còn nhớ những buổi thảo luận về số phận của văn hóa Nga, về sức hút của nó với những bi kịch. Bà không thể hiểu được bất cứ điều gì nếu không có cái bóng của tử thần soi rọi. Và chỉ trên nền tảng của văn hóa Nga bà mới có thể bắt đầu hiểu được ý nghĩa của các thảm họa. Chỉ có văn hóa Nga mới được chuẩn bị cho bi kịch. Chúng ta đã từng sợ nào là bom hạt nhân, mây hình nấm, thế rồi sự việc lại xoay sang một tình huống như thế này.Chúng ta biết rằng một căn nhà có thể bị cháy thiêu chỉ bởi một que diêm, một cầu chì điện hỏng hóc, nhưng sự kiện Chernobyl chẳng hề giống như những gì chúng ta đã từng tưởng tượng. Chúng ta đã nghe những lời đồn đại cho rằng ngọn lửa cháy ở Chernobyl không phải là lửa của trần thế, thậm chí nó không phải là lửa, nó là sấm sét, là ánh sáng chói lọi. Nó không có màu xanh, nhưng lại giống như bầu trời. Cũng chẳng có khói phát ra từ ngọn lửa. Các nhà khoa học của chúng ta trước đây là thượng đế, nhưng nay họ đã là những thiên thần gẫy cánh, thậm chí là ma quỷ đáng nguyền rủa. Họ đã giấu diếm những bí mật của thiên nhiên, và bây giờ họ vẫn chưa chịu từ bỏ. Tôi là một người Nga, gốc gác ở Bryanschin. Tôi biết một ông già, lúc nào cũng ngồi bó gối trong căn nhà bị nghiêng và nó có thể sập đổ bất cứ lúc nào. Vậy mà ông ta không lúc nào ngừng nói về số phận của thế giới. Ở đâu cũng có những triết gia kiểu nhà thông thái Aristotle như vậy. Ngay cả ở một nhóm nhỏ công nhân xí nghiệp. Ngay cả ở một quầy bia uống đứng. Trong khi đó chúng ta đang ngồi ngay dưới một lò phản ứng hạt nhân. Bà thử tưởng tượng xem chúng ta thừa mứa triết lý tới cỡ nào.

Các phái đoàn báo chí đến gặp chúng tôi, săn tin chụp hình. Họ dàn dựng nên những cảnh như thế này: họ để một cây đàn vĩ cầm trên cửa sổ một căn nhà bỏ hoang, rồi chụp hình. Họ đặt tên cho bức hình là “Bản hợp tấu Chernobyl”. Lẽ ra họ không cần phải bịa đặt ra những thứ đó làm gì. Họ chỉ cần biết và nhớ những hình ảnh có thật: một quả địa cầu bị xe máy kéo cán bẹp dúm ngay giữa sân trường; quần áo phơi trên ban công vẫn còn ở đó cả năm trời và giờ thì đã ngả màu đen; những nghĩa trang quân đội bị bỏ hoang, cỏ ở đó mọc cao hơn cả bức tượng người lính và bên cạnh, tượng cây súng có một tổ chim nằm chênh vênh. Cửa một căn nhà đã bị kéo sập, bên trong đồ đạc mất hết, chỉ còn lại tấm màn cửa và những bức hình gia đình. Người ta đã lìa bỏ căn nhà, nhưng hồn người vẫn còn ở lại qua những khung hình trên bệ cửa.

Không có việc gì là không quan trọng, không có cái gì là quá nhỏ. Tôi muốn được ghi nhớ hết thẩy mọi điều một cách chính xác ở cả những chi tiết nhỏ nhất: khoảng thời gian nào trong ngày tôi đã chứng kiến việc ấy, bầu trời lúc ấy có màu gì, cảm tưởng của tôi lúc ấy ra sao. Loài người đã từ bỏ nơi này mãi mãi rồi. Và chúng ta là những người đầu tiên trải nghiệm cái khái niệm “mãi mãi”. Bà không thể bỏ qua bất cứ một chi tiết nhỏ nhặt nào. Khuôn mặt của hai nông dân già nua – trông họ giống như hai bức tượng. Họ là những người ít hiểu biết nhất về những gì đang xẩy ra. Họ chẳng bao giờ ra khỏi vườn nhà họ, mảnh đất họ sở hữu. Họ có mặt trên cõi đời này, biết yêu đương, biết đem bát cơm về cho gia đình bằng chính mồ hôi của mình, và cứ thế tiếp tục cuộc sống họ đang sống. Rồi chờ đợi sự ra đời của lũ cháu chắt. Đến khi hoàn tất xong cuộc sống trần gian, họ rời khỏi mảnh đất quen thuộc chỉ để hoà làm một với đất, trở thành đất. Một cái lều của người nông dân Belarus. Với chúng ta, những cư dân thành thị, nhà là một cái máy để chúng ta sống trong đó. Với người nông dân, nhà là toàn thể thế giới, là toàn thể vũ trụ. Khi bà lái xe đi ngang qua những ngôi làng bỏ hoang, bà muốn được nhìn thấy bóng người. Những ngôi nhà thờ đã bị cướp bóc sạch trơn – dù vậy, khi bước chân vào, ngửi thấy mùi nến – bà lại muốn được quỳ xuống cầu nguyện.

Tôi muốn ghi nhớ hết thảy mọi chuyện đã xẩy ra, vì thế, tôi dùng máy hình ghi lại hết. Đó là câu chuyện của tôi. Cách đây không lâu, chúng tôi đã chôn cất một trong số những người bạn của chúng tôi đã từng ở Chernobyl. Anh ta chết vì bị ung thư máu. Chúng tôi tổ chức một buổi canh thức, và theo truyền thống Slavic, chúng tôi uống rượu. Chúng tôi trò chuyện với nhau mãi đến nửa đêm. Ban đầu, chúng tôi nói về người chết. Còn sau đó? Lại một lần nữa về số phận của đất nước và về cấu trúc của vũ trụ. Liệu quân đội của Nga sẽ rời khỏi Chechnya hay không? Liệu sẽ có  một cuộc chiến tranh khu vực lần thứ hai bùng nổ hay thực ra nó đã xẩy ra rồi? Liệu Zhirinovsky sẽ trở thành tổng thống? Liệu Yeltsin được tái đắc cử? Cả câu chuyện về hoàng gia nước Anh với công nương Diana, về nền quân chủ nước Nga. Cả về Chernobyl với những giả thuyết khác nhau. Có người cho rằng những sinh vật ngoài hành tinh biết trước về thảm họa và đã trợ giúp chúng ta; người khác thì lại bảo đó chỉ là một thử nghiệm, chẳng bao lâu nữa những đứa trẻ với tài năng đặc biệt hơn người sẽ được sinh ra. Hoặc cũng có thể nước Belarus sẽ biến mất, như những người Schythians. Chúng ta là những nhà siêu hình học.

Chúng ta không sống trên quả đất này, mà là sống trong những giấc mơ, trong những cuộc trò chuyện đầy tính triết lý. Bởi vì chúng ta cần phải  thêm một chút gì đó vào cuộc sống tẻ nhạt hàng ngày mới có thể hiểu được nó. Kể cả khi chúng ta sắp sửa đối diện với cái chết.

 Viktor Latun, Nhiếp Ảnh Gia

 

*“Tiếng Vọng từ Chernobyl” của Svetlana Alexievich. Bản Việt ngữ do T.Vấn & Bạn Hữu thực hiện, dựa trên bản Anh ngữ của Keith Gessen, Nhà Xuất Bản Dalkey Archive Press –Normal – London 2005.

Về lại MỤC LỤC

Bình Luận từ Facebook