Nguyễn Đình Cống
22-7-2023
Tiếp theo phần 1
Mục 13: Mối quan hệ kinh tế khăng khít giữa Việt Nam và Nhật Bản
Tác giả cho rằng: “Mối quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Việt Nam ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu”. Ông kể ra chi tiết 6 việc đã rất thành công. Ông cảm thấy rất may mắn khi có thể kết thúc nhiệm kỳ làm việc mà không có sự hối tiếc nào. Xin chúc mừng ông.
Về cán bộ cấp cao của Việt Nam, ông tỏ ý kính phục Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khi viết: “Thủ tướng Phúc luôn lắng nghe chăm chú, không có một chút khó chịu nào đối với các đề nghị của tôi”. Lời nhận xét này là chân thành, nhưng hơi vội.
Khi thấy ai lắng nghe chăm chú thì có thể xảy ra một trong hai trường hợp. Một là họ chỉ vì lịch sự mà không hiểu gì cả, hai là họ chăm chú nghe vì thu nhận được những ý quan trọng, thấm thía. Để biết trường hợp nào thì phải có khả năng quan sát nét mặt người nghe và phán đoán. Theo dõi ông Phúc trong nhiều năm tôi cho rằng ông Phúc thuộc trường hợp thứ nhất. Thế cũng là tốt, đáng khen chứ chưa đáng khâm phục.
Mục 16: Bản sắc riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam
TG viết: “Đảng Cộng sản của hai nước (VN và TQ) nhìn qua thì giống nhau về công cụ nhưng bản chất lại có sự khác nhau rất lớn. VN không phải là quốc gia “cường quyền” giống như Trung quốc. Tôi không nghĩ rằng VN muốn trở thành một đất nước giám sát, đàn áp người dân của mình bằng cường quyền. Mặc dù đi theo thể chế một chính đảng duy nhất, nhưng VN luôn cố gắng nắm bắt kịp thời những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân …”
Đoạn vừa trích chứng tỏ TG không nằm trong chăn để biết chăn nhiều rận. Bản chất của CSVN và CSTQ có chỗ khác nhau do ảnh hưởng của truyền thống dân tộc nhưng sự khác nhau không lớn. Những việc CSTQ làm hôm trước thì hôm sau đem dạy cho CSVN, đặc biệt là những thủ đoạn của công an, những điều hành trong quân đội, những biện pháp theo dõi và khống chế nhân dân.
Điểm khác nhau cơ bản có lẽ là trong cách đối xử với trí thức tinh hoa. CSTQ rất coi trọng việc sử dụng trí thức tinh hoa của họ, nhưng lại bày mưu thâm độc cho CSVN trừ khử tinh hoa của Việt Nam bằng cách vu cáo là phần tử thù địch, chống đối.
TG viết “không nghĩ rằng VN muốn trở thành một đất nước giám sát, đàn áp người dân của mình bằng cường quyền”. Ý ấy là tốt, nhưng thực tế không phải như vậy. Cộng sản ở đâu cũng dùng cường quyền đàn áp, thủ tiêu những người dân có ý kiến, có tư tưởng khác với họ.
Về nguyện vọng của nhân dân, cần xem đó là nhân dân nào. Thực tế nhân dân có nhiều tầng lớp với các nguyện vọng khác nhau. A- Tầng lớp gắn chặt với Đảng (còn đảng còn mình), B- Tầng lớp công nông và những người lao động bình thường, C- Tầng lớp trung lưu, lao động trí óc.
Tầng lớp B là rộng lớn, là khối công nông liên minh, nguyện vọng của họ chủ yếu là được yên ổn để làm ăn, con cái được học hành. Họ không có nhiều nguyện vọng về tự do dân chủ, họ sẵn sàng làm theo yêu cầu của chính quyền và chịu đựng những bất công vừa phải do cán bộ nhà nước gây ra. CS làm cách mạng dựa vào khối liên minh này.
Tầng lớp C là một trong ba lực lượng chủ chốt phát triển xã hội. Họ có nguyện vọng cao về đời sống tinh thần, về tự do tư tưởng, tự do ngôn luận. CSVN nắm bắt nguyện vọng của nhân dân, nếu có chuyện đó, thì chủ yếu là đối với tầng lớp A và B mà tìm cách hạn chế đối với tầng lớp C.
Nhìn bên ngoài thì thấy CSVN quan tâm đến phát triển kinh tế. Việc đó có tác dụng nâng cao đời sống của nhân dân, nhưng chính là để đảng thu được nhiều lợi hơn, vì tài chính của đảng chủ yếu lấy từ ngân sách nhà nước, nghĩa là từ tiền thuế của dân.
TG viết: “VN hiện đang thực hiện tinh gọn bộ máy ở cấp xã, huyện… nhất thể hóa chức danh bí thư cấp ủy đồng thời cũng là chủ tịch ủy ban nhân dân…”. Ở trang 185, 186 (mở đầu chương 6) viết, “quyết định xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị hoạt dộng hiệu lực, hiệu quả…, xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch , vững mạnh…”.
Viết cho vui thế thôi chứ không thể nào làm được. Chỉ có những người u mê, ngu tín, ngu trung mới tin vào những điều đó. Lập ra bộ máy nhà nước ba tầng chồng chéo nhau, rồi bịa ra lý luận Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ thông qua Mặt trận Tổ quốc. Ba tầng dẫm đạp nhau, tạo ra nhiều lãng phí. Nhất thể hóa được một người thì làm xoay chuyển được gì.
Đảng CSVN đã từng là một đảng làm cách mạng, nay chuyển thành một đảng cầm quyền. Phải thay đổi từ chính cương, điều lệ, tổ chức, triết lý chứ không phải cho rằng chống được tham nhũng thì sẽ xây dựng được đảng trong sạch, vững mạnh.
Mục 18: Thực trạng của những cải cách đã bắt đầu
“Cải cách” là do TG gọi còn lãnh đạo Việt Nam chỉ thích dùng từ “đổi mới”, họ rất dè dặt khi nói đến cải cách. TG viết: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và ban lãnh đạo ĐCSVN đều nhận thức rõ ràng về nguy cơ trong tương lai của ĐCS. Ban lánh đạo đảng đang tích cức đấu tranh phòng chống tham nhũng…”. Tưởng như thế là đúng, là hay, nhưng chưa phải.
Ông Trọng làm trưởng ban phòng chống tham nhũng nhưng ban đó chẳng phòng, cũng chẳng chống để tham nhũng không thể xảy ra, mà chỉ điều tra, xét xử một số vụ (gọi là “đốt lò”). Nhiều người có hiểu biết ở Việt Nam cho rằng dưới sự lãnh đạo của ĐCS không thể nào phòng chống được tham nhũng. Lãnh đạo quan tâm đến cải cách nền “hành dân là chính” bằng biện pháp tinh giản bộ máy, nhưng tinh được chỗ này lại phình ra chỗ khác.
Tất cả đang vướng vào mớ bùng nhùng, càng quẫy đạp càng bị vướng nhiều chỗ. Vì sao vậy? Vì rằng tham nhũng và tệ nạn hành chính đều là bệnh do u xơ trong gan ruột của Đảng, cần giải phẫu để cắt bỏ nhưng vì bản chất cộng sản mà không dám, chỉ tìm thuốc xoa ngoài da. Vậy chưa thể nói cải cách đã bắt đầu mà đó mới chỉ là người ta tưởng là thế.
Mục 19: Hỗ trợ của Nhật Bản đối với đào tạo nhân lực và cải cách của Việt Nam
Sự hỗ trợ của Nhật Bản đối với đào tạo nhân lực của Việt Nam xét về phương diện kỹ thuật là rất có hiệu quả, nhưng trong tổng thể còn thiếu một thứ quan trọng. TG viết: “Kế hoạch cải cách hệ thống chính trị mà VN đang tích cực triển khai là một thử nghiệm mang tính lịch sử nhằm thay đổi nhận thức của người dân và thay đổi mạnh mẽ cách thức tổ chức của bộ máy quản lý…., cải cách này đóng vai trò vô cùng quan trjng không chỉ với tương lai của VN ma còn đối với sự ổn định và thịnh vượng của khu vưc”. Thứ quan trọng tôi muốn nói tới liên quan đến “cải cách hệ thống chính trị” mà TG viết là “đang tích cực triển khai”.
TG còn viết: “Tôi hy vọng rằng, VN sẽ trở thành một xã hội mà ở đó nhân tài ưu tú, có ý chí mạnh mẽ được thỏa sức thể hiện năng lực của mình”. Xã hội mà TG hy vọng đó chỉ có thể có được dưới thể chế chính trị đã loại bỏ được độc tài của thế lực kém trí tuệ.
Cải cách hệ thống chính trị như viết ở trên là mong ước thiết tha của nhiều người dân và cũng trùng với mong đợi của TG, nhưng đó chưa phải là ý chí của lãnh đạo Việt Nam. Cải cách hệ thống chính trị phải theo hướng từ bỏ chủ nghĩa Mác Lênin, từ bỏ ảo tưởng xây dựng chế độ XHCN, thoát khỏi sự khống chế của Trung Cộng, xây dựng nhà nước dân chủ với tam quyền phân lập, từ bỏ chế độ đảng trị, xóa bỏ hình thức “đảng cử dân bầu”, kết bạn thân thiết với các nước dân chủ.
Trước đây Nhật Bản và Việt Nam xem Mỹ là kẻ thù. Quân Mỹ đến đóng trên đất Nhật năm 1945 trong sự thù hận của dân Nhật. Nhưng rồi người Nhật đã từ bỏ được chế độ quân phiệt, đã được người Mỹ hỗ trợ xây dựng đất nước, đó là những bài mà Việt Nam phải tìm để học từ người Nhật.
TG nêu ra khá nhiều bài ‘chia sẻ kinh nghiệm” của các chuyên gia Nhật, không trình bày nội dung cụ thể, không biết trong các kinh nghiệm đó có ai mạnh dạn giới thiệu những bài học về quan hệ với người Mỹ và thể chế chính trị ở Nhật hay không.
Mục 20: Cảm tình với Nhật Bản của Việt Nam
“Trong mắt người VN, người Nhật Bản luôn gắn liền với hình ảnh chăm chỉ, chân thành, khiêm tôn, không bao giờ nói dối”. Đó là câu ở đầu mục 20. TG viết tiếp, “Bên cạnh đó, nhiều cá nhân, tổ chức của Nhật bản đã nỗ lực, bền bỉ trong suốt nhiều năm vì phúc lợi và sức khỏe của người VN. Cống hiến không mệt mỏi đó của họ đã đem lại cái nhìn đầy tích cực…”.
Điều trên là hoàn toàn đúng. Riêng tôi và tôi nghĩ rằng có nhiều người Việt cũng như tôi còn cảm phục người Nhật ở hai điểm sau:
Một là, trước năm 1945 họ đã chọn sai đường, sau năm 1945 đã kiên quyết cải cách, đã xây dựng một thể chế chính trị đảm bảo sự phát triển tự do của con người, họ đã nhanh chóng và khôn ngoan nhận ra bản chất tử tế của người Mỹ và chọn Mỹ làm đồng minh.
Hai là, người Nhật đã có một lòng tự tin lớn khi chơi thân và giúp đỡ Việt Nam, mà không sợ bị ảnh hưởng bởi phương châm “gần mực thì đen” khi chọn bạn mà chơi. Họ nổi tiếng không bao giờ nói dối, trong khi đó nói dối là một đặc tính của cộng sản và đã tiêm nhiễm ngày càng sâu rộng cho khá đông người Việt.
Lời cuối
Tác giả Umeda Kunio cho rằng, trong sách có lẽ cũng có những câu chuyện không hề dễ nghe đối với người Việt Nam, nhưng ông đã viết ra với lòng trung thực và mong ước tốt lành. Nhà Xuất bản cũng không chia sẻ hoàn toàn các quan điểm của tác giả, nhưng đã in sách với lòng kính trọng dành cho ông.
Cũng với tinh thần như vậy, tôi viết ra vài nhận xét mong được trao đổi với bạn đọc và với cả tác giả, để hoàn thiện nhận thức. Khi đọc bài này, nểu tác giả hoặc độc giả nào phát hiện điều tôi hiểu sai thì xin được chỉ giáo (xin gửi vào ndcong37@gmail.com). Tôi sẽ vô cùng biết ơn.