Đọc ‘Viên Sỏi Trắng’

Nguyễn Đức Thành

1-11-2023

Ảnh chụp bìa sách. Nguồn: Amazon

 

Hồi ký của Bà Ngô Đình Nhu (nhũ danh Trần Lệ Xuân)

Những nhân chứng sống sót của một thời thảm khốc (Kỳ 2)

Từ Thức

10-9-2023

Tiếp theo kỳ 1

CÁI S:

Cai trị bằng cái sợ là một chính sách, một lý thuyết chính trị của Lénine, được Staline, Mao, Pol Pot và những đệ tử Việt Nam trung thành áp dụng triệt để.

Sợ từ khi còn ngồi ghế nhà trường: “Lúc nào cũng mang ni s. S mà không biết s gì (GĐ. tr. 42).

Văn đ t, phi chn gia 3 đ, đ 2: Bình lun mt câu ca Trưng Chinh, đ 3: Phương pháp t ngưi ca Nguyn Du. C lp làm đ 3. Di chi làm đ kia, viết h hênh mt câu mt lp trưng là nguy (ĐĐNT. tr.21).

Cái sợ bám vào nạn nhân suốt đời, như một người cao tuổi, trong Gia Đình, tới nay vẫn không dám thắc mắc một chuyện gì:

Quá na đêm, dân quân không canh na, tôi vn s. Tôi đã tiu ra qun. Ni khiếp s năm mưi lăm tui. Nay tám mươi hai, tôi vn là mt ông già s hãi. Tôi không dám thc mc mt chuyn gì. Mun viết đôi điu cho con cháu biết v cha ông mình, cm bút lên tôi li run.

CÁI CHT:

Hậu quả của sự tàn bạo là cái chết. Chết vì bị treo cổ, treo đầu nón chân, bị đánh đập, tra tấn, vì đói, vì tự tử.

– “Ch ngi ta lưng vào gc cây di, di yếm tr xung, thng con như con nhái bén vn đang nhay vú m. Lúc đó ch đã chết ri mà tôi không biết” (ĐĐNT. tr. 41)

– “Bà ni chết vì rét hay vì đói. T hôm b trúng viên gch thng K, bà nm mt ch. Ba năm sau bc m bà, thy hai chiếc xương sưn b gy” (GĐ).

HUN LUYN CĂM THÙ:

Người ta tự hỏi: Tại sao những người nông dân, vốn hiền lành, đã trở thành ác quỷ?

Con người có thể trở thành thánh, hay thú vật, tuỳ môi trường sống, tuỳ giáo dục. Lịch sử đã chứng minh điều đó, với xã hội Đức dưới thời Hitler, Nga dưới Stalin, Tàu dưới Mao, Cao Miên dưới Pol Pot. Việt Nam không phải là một ngoại lệ, nếu điều đó có thể an ủi người Việt.

Tất cả trò đấu tố đều học của Tàu, cố vấn Tàu sang dạy cách xử án, quy định tỷ số địa chủ phải mang ra làm thịt.

Đó là một xã hội xây dựng trên sự căm thù, được dạy dỗ, tập luyện từ nhỏ, từ ghế nhà trường:

– “Thy giáo nói hôm nay ngh hc đ ti đi đu đa ch Xen vào nhng bui đi hc bình thưng là nhng bui ngh hc đ ti đi d đu t. Hc sinh đến trưng tp trung. Mi em mt bó đuc, va đi va hô. Tôi cũng hô to không thua gì các bn“ (ĐĐNT. tr.64).

Tm bin Đa ch dng trưc sân. Tôi ht đi thì hôm sau thng bn hc cùng trưng đến dng lên. Trưc đây nó cùng đi thiếu niên, tôi liên đi trưng, nó liên đi phó (ĐĐNT. tr. 49).

Được dạy dỗ như vậy, bọn trẻ thơ ngây trở thành ác quỷ. Có lẽ cái giết sự ngây thơ, trong trắng của tuổi thơ, nó còn ghê rợn hơn cả chuyện giết người.

B đui dy, thy giáo Banh nu nưc chè xanh đi bán các làng khác, khi v đến đu làng b nhóm tr con xúm vào đp v hết bát, ném xung sông, thy ngi khóc trên cu (ĐĐNT. tr.87).

Ê con đa ch, con đa ch. My đa lao vào tôi. Bn con gái không đánh đưc thì git tóc, gõ đu, cu véo. Tan hc là tôi chy. C đám rưt đui. Đui theo v đến nhà. Đánh chết thng con đa ch này (GĐ tr.41).

NHC M

Giết người chưa đủ, đánh tan nát gia đình nạn nhân chưa đủ, chia nhau từng cái chổi cùn chưa đủ, còn phải nhục mạ người sống, người chết: ‘’n ca bác đã là vưn ca nông dân. Không đưc chôn đa ch trong vưn nông dân (GĐ. tr.23).

Có lẽ cái nhục mạ nạn nhân, cái thú man rợ khi tước đoạt luôn nhân phẩm con người chỉ có dưới chế độ Cộng Sản, đặc biệt là Cộng Sản Tàu và đàn em.

Dưới những chế độ độc tài khác, thường chỉ có cái ác.

SA SAI

Năm 1957, Đảng nhận lỗi, sửa sai. Nhưng lỗi là lỗi của những phần tử quá khích. Đảng không thể có lỗi. Tại trường học, những ông hiệu trưởng, giáo viên trước đây được khen ngợi đã thành công trong việc giúp học sinh đấu tố nhau, bị kết tội do địch gài vào để phá hoại.

Nhà nước xin lỗi, thế là xong, yên chuyện, ai về nhà nấy, như không có chuyện gì xẩy ra. Như có người vô tình chạm vào tôi ngoài đường, xin lỗi. Dạ, không có chi.

Dù sao, chuyện Đảng công khai xin lỗi cũng cho phép gia đình nạn nhân được khóc công khai những người đã bỏ mạng. Và cho phép rất nhiều tác phẩm về cải cách ruộng đất ra đời mà tác giả không đi tù hay mất mạng.

Mặc dù vậy, cái sợ hình như vẫn đâu đó.

Đại tá nhà văn Phan Kế Toại, đề tựa cho cuốn Gia Đình, đề cao việc làm của tác giả, coi trọng việc đi tìm sự thực, không quên thòng một câu, cho chắc ăn: “Mi ngưi cn chung tay c gng trân trng s đi mi, gìn gi thành qu dân ch đ đt nưc không bao gi tr li thi k u trĩ như thế na.

Thành qu dân ch! Câu kết luận politically correct không khỏi khiến người đọc mỉm cười, khi nghĩ đến thực trạng Việt Nam ngày nay về nhân quyền, về tự do báo chí, tự do tín ngưỡng…

Trong cùng một bài tựa, ông Toại kể: “Trong gia đình tôi (…), nhiu ngưi đã b quy đa ch, phú nông hoc phn đng. Ngưi b tch thu tài sn, ngưi t vn, ngưi b bt giam, b cùm chân, ngưi b x t. Dùng chữ “ấu trĩ” cho một xã hội lở lói khủng khiếp như vậy, có lẽ hơi nhẹ.

Bao nhiêu người là nạn nhân của “cách mạng?” Theo BBC, nhà nghiên cứu Mông Cổ Balazs Szalontai khai thác các tài liệu Đông Âu và Liên Xô, đưa ra con số 7,7 triệu người dân và hàng trăm gia đình “buc phi tham gia và chu h luỵ” chỉ trong đợt giảm tô. Trong đợt chính thức Cải cách Ruông đất, 4 triệu người chu tác đng. Tác giả Hoàng Minh Chính đưa ra con số nửa triệu người (5% dân số miền Bắc) bị chính quyền VNDCCH giết.

Riêng Cải cách Ruộng đất, theo Bernard Fall, 50.000 người bị xử tử, ít nhất gấp đôi bị tù cải tạo (BBC 3/2/2022) (2).

Le Livre Noir du Communisme (S Đen ca Ch Nghĩa Cng Sn) do sử gia Stéphane Courtois chủ biên, cũng đưa ra con số 50.000 người bị xử tử, từ 50.000 tới 100.000 người bị đưa đi tù cải tạo (3).

Le Livre Noir là một cuốn sách dày 662 trang, do các sử gia, ký giả, giáo sư Pháp biên soạn, tố cáo những tội ác của Cộng Sản quốc tế, với 100 triệu nạn nhân đã bỏ mạng để xây dựng “XHCN”.

ALEXIEVITCH và NGÀY TÀN CA NGƯI Đ

Đọc Phan Thuý Hà, người ta nghĩ tới việc làm nhà văn Nga Svetlana Alexievich. Sinh năm 1948, cha người Biérusse, mẹ người Ukraine, Alexievich, trong gần 40 năm, với cây bút và máy ghi âm, đi gặp và ghi lại lời kể, tâm trạng của người Nga sau tại nạn Tchernobyl, sau ngày Nga – Xô Viết sụp đổ, trong cuộc tham chiến của Nga ở Afghanistan (1).

Trong Les Cercueils de zinc (Nhng chiếc quan tài bng km1990), bà ghi lại tâm trạng của những bà mẹ, bà vợ, có chồng con chết ở Afghanistan, để thoả mãn tham vọng của Putin. Những xác chết từ mặt trận được chở về trong những chiếc quan tài bằng kẽm (zinc).

Bà viết: “Cái can đm chiến đu ca ngưi Cng Sn ch là huyn thoi. Chng có anh hùng gì c, ch có nhng ngưi lính tr bng gt, đưa đi làm mi cho đi bác, b khng b, phi tiếp tc vì s”.

Cuốn sách nổi tiếng nhất của Alexievich, “La Fin de lhomme rouge. Le temps du désenchantement (Cái chết ca ngưi đ. Thi gian v mng), được nhiều nhà phê bình coi là cuốn sách hay nhất, quan trọng nhất trong năm 2013), vạch rõ thực chất của người Cộng Sản (người đỏ), cái ảo tưởng xây dựng xã hội đại đồng, sự thực chỉ là một cuộc lừa gạt đẫm máu để nắm quyền.

Sau khi Nga Xô Viết sụp đổ trong 3 ngày, như đã lên nắm chính quyền trong 3 ngày, để viết La fin de lhomme rouge, Svetlana Alexievich đi khắp nước Nga, nghe tâm sự của những người vỡ mộng về ảo tưởng thế giới đại đồng, lạc lõng trong một thế giới mới, xa lạ.

Bà nói, “có l cái thành công duy nht ca ngưi Cng Sn là đã hu hoi nhân tính, đ to nhng ngưi Nga mi, không còn nhân phm”.

Alexievich nói, trong một cuộc phỏng vấn, dụng ý của bà là qua những nhân chứng thực để tạo những tác phẩm văn chương.

Mc đích ca tôi không phi làm điên đu ngưi đc vi nhng chuyn kinh hoàng, nhưng rút ta ý nghĩa t nhng cái kinh hoàng đó. Và giúp con ngưi tiếp tc còn là con ngưi. Làm biến dng con ngưi, đó có l là cái duy nht đã thành công ( Nga Xô Viết). (Mon objectif nest pas dassommer (les lecteurs) par toutes les horreurs que j’écris, mais den extraire du sens. Et de permettre à lhumain de rester humain.Transformer lhomme. Cest peut être la seule chose qui ait marché).

Alexievich đoạt giải Nobel Văn chương năm 2015 cho toàn bộ tác phẩm của bà.

Phan Thuý Hà không có tham vọng đó. Bà chỉ ghi lại lời kể chuyện của những nạn nhân còn sống sót.

Tác giả “Đon Đi Niên Thiếu viết trong lời tựa: “Sáu năm qua, viết sách, tôi đưc gp [ngưi] nhiu tui quê Nghnh. Các ông bà đu tui trên tám mươi, chín mươi. Hcon ca nhng ngưi yêu nưc, tham gia cách mng, b Pháp bt tù đày vào năm 1930-31, ln lên trong nhng năm kháng chiến (…). Vi nhng gì h tri qua, nếu không ghi li thì tiếc quá”.

Gia Đình, Đon đi niên thiếu là những cuốn sách nên dịch ra ngoại ngữ, để những người ngoại quốc, hay thế hệ người Việt trẻ hiểu rõ thực trạng Việt Nam, hơn là những cuốn sách của những người chưa bao giờ đặt chân tới xứ này, hay chưa hề sống trong hoả ngục.

Cũng như những tác phẩm của Alexievich nên dịch ra tiếng Việt, để thức tỉnh những người, ở thế kỷ 21, vẫn còn là những ông già ngồi đan rổ, mơ nước Nga, như trong thơ Tố Hữu.

Cũng hy vọng sẽ có nhiều cuốn sách tương tự, ghi lại chuyện thực, của những người di cư 1954, những nạn nhân tết Mậu Thân, của boat people, hay những ngày miền Nam, trước và sau 1975.

CHUYN CN LÀM

Đã có rất nhiều sách, báo về những chuyện này, nhưng vẫn chưa đủ. Cần một tài liệu đồ sộ ghi lại các nhân chứng.

Tôi nghĩ tới chuyện này, cách đây mấy chục năm, khi viếng thăm một thư viện ở Do Thái, nơi tập trung hàng trăm ngàn sách, băng nhạc, ghi âm lời kể của những nạn nhân, hay gia đình nạn nhân Shoah còn sống sót.

Ngày nay, nhiều người Việt đã thành công ở hải ngoại, dư tài chánh, có dư khả năng làm việc đó, thay vì làm những chuyện tào lao. Thí dụ tài trợ cho những nhóm trẻ đi phỏng vấn, thu thập dữ kiện ở tất cả những nơi người Việt tỵ nạn cư trú.

Đó là chuyện khẩn cấp. Bởi vì nhiều nhân chứng cao niên đang lần lượt ra đi.

Việc làm của Phan Thu Hà, hay những việc làm tương tự, sẽ là những chất liệu quý cho những người sau này muốn viết văn, viết sử hay nghiên cứu về Việt Nam cận đại.

Nếu không, thế hệ sau này sẽ không biết gì về quá khứ. Nếu muốn tìm hiểu lịch sử đất nước chỉ có sách vở của những người muốn viết lại lịch sử, hay những người ngoại quốc, nói chuyện VN dưới lăng kính chính trị hay bác học, không có chất liệu sống.

Không ghi li thì tiếc quá.

_________

Chú thích:

(1) Tên ngưi, tên tác phm, đa danh trong bài này viết theo kiu Pháp.

(2) https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-59896978

(3) Le Livre Noir du Communisme. Ed Robert Laffont, Paris 1997

Những nhân chứng sống sót của một thời thảm khốc (Kỳ 1)

Từ Thức

10-9-2023

Vào năm gim tô, ông ni b bt giam. Ông b treo lên, đu dng xung đt. Sao li dng đu ông xung đt, sau này tôi hi m. M bo, đ cho ông có nut vàng vào trong bng thì nh ra. H dng đu ông như thế t sáng đến trưa, t trưa đến ti. Cho đến lúc không tra kho gì na thì tng vào tù.

Điểm sách: Nhật Bản và Việt Nam là đồng minh tự nhiên (Phần 2)

Nguyễn Đình Cống

22-7-2023

Tiếp theo phần 1

Mục 13: Mối quan hệ kinh tế khăng khít giữa Việt Nam và Nhật Bản

Tác giả cho rằng: “Mối quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Việt Nam ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu”. Ông kể ra chi tiết 6 việc đã rất thành công. Ông cảm thấy rất may mắn khi có thể kết thúc nhiệm kỳ làm việc mà không có sự hối tiếc nào. Xin chúc mừng ông.

Về cán bộ cấp cao của Việt Nam, ông tỏ ý kính phục Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khi viết: “Thủ tướng Phúc luôn lắng nghe chăm chú, không có một chút khó chịu nào đối với các đề nghị của tôi”. Lời nhận xét này là chân thành, nhưng hơi vội.

Khi thấy ai lắng nghe chăm chú thì có thể xảy ra một trong hai trường hợp. Một là họ chỉ vì lịch sự mà không hiểu gì cả, hai là họ chăm chú nghe vì thu nhận được những ý quan trọng, thấm thía. Để biết trường hợp nào thì phải có khả năng quan sát nét mặt người nghe và phán đoán. Theo dõi ông Phúc trong nhiều năm tôi cho rằng ông Phúc thuộc trường hợp thứ nhất. Thế cũng là tốt, đáng khen chứ chưa đáng khâm phục.

Mục 16: Bản sắc riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam

TG viết: “Đảng Cộng sản của hai nước (VN và TQ) nhìn qua thì giống nhau về công cụ nhưng bản chất lại có sự khác nhau rất lớn. VN không phải là quốc gia “cường quyền” giống như Trung quốc. Tôi không nghĩ rằng VN muốn trở thành một đất nước giám sát, đàn áp người dân của mình bằng cường quyền. Mặc dù đi theo thể chế một chính đảng duy nhất, nhưng VN luôn cố gắng nắm bắt kịp thời những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân …”

Đoạn vừa trích chứng tỏ TG không nằm trong chăn để biết chăn nhiều rận. Bản chất của CSVN và CSTQ có chỗ khác nhau do ảnh hưởng của truyền thống dân tộc nhưng sự khác nhau không lớn. Những việc CSTQ làm hôm trước thì hôm sau đem dạy cho CSVN, đặc biệt là những thủ đoạn của công an, những điều hành trong quân đội, những biện pháp theo dõi và khống chế nhân dân.

Điểm khác nhau cơ bản có lẽ là trong cách đối xử với trí thức tinh hoa. CSTQ rất coi trọng việc sử dụng trí thức tinh hoa của họ, nhưng lại bày mưu thâm độc cho CSVN trừ khử tinh hoa của Việt Nam bằng cách vu cáo là phần tử thù địch, chống đối.

TG viết “không nghĩ rằng VN muốn trở thành một đất nước giám sát, đàn áp người dân của mình bằng cường quyền”. Ý ấy là tốt, nhưng thực tế không phải như vậy. Cộng sản ở đâu cũng dùng cường quyền đàn áp, thủ tiêu những người dân có ý kiến, có tư tưởng khác với họ.

Về nguyện vọng của nhân dân, cần xem đó là nhân dân nào. Thực tế nhân dân có nhiều tầng lớp với các nguyện vọng khác nhau. A- Tầng lớp gắn chặt với Đảng (còn đảng còn mình), B- Tầng lớp công nông và những người lao động bình thường, C- Tầng lớp trung lưu, lao động trí óc.

Tầng lớp B là rộng lớn, là khối công nông liên minh, nguyện vọng của họ chủ yếu là được yên ổn để làm ăn, con cái được học hành. Họ không có nhiều nguyện vọng về tự do dân chủ, họ sẵn sàng làm theo yêu cầu của chính quyền và chịu đựng những bất công vừa phải do cán bộ nhà nước gây ra. CS làm cách mạng dựa vào khối liên minh này.

Tầng lớp C là một trong ba lực lượng chủ chốt phát triển xã hội. Họ có nguyện vọng cao về đời sống tinh thần, về tự do tư tưởng, tự do ngôn luận. CSVN nắm bắt nguyện vọng của nhân dân, nếu có chuyện đó, thì chủ yếu là đối với tầng lớp A và B mà tìm cách hạn chế đối với tầng lớp C.

Nhìn bên ngoài thì thấy CSVN quan tâm đến phát triển kinh tế. Việc đó có tác dụng nâng cao đời sống của nhân dân, nhưng chính là để đảng thu được nhiều lợi hơn, vì tài chính của đảng chủ yếu lấy từ ngân sách nhà nước, nghĩa là từ tiền thuế của dân.

TG viết: “VN hiện đang thực hiện tinh gọn bộ máy ở cấp xã, huyện… nhất thể hóa chức danh bí thư cấp ủy đồng thời cũng là chủ tịch ủy ban nhân dân…”. Ở trang 185, 186 (mở đầu chương 6) viết, “quyết định xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị hoạt dộng hiệu lực, hiệu quả…, xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch , vững mạnh…”.

Viết cho vui thế thôi chứ không thể nào làm được. Chỉ có những người u mê, ngu tín, ngu trung mới tin vào những điều đó. Lập ra bộ máy nhà nước ba tầng chồng chéo nhau, rồi bịa ra lý luận Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ thông qua Mặt trận Tổ quốc. Ba tầng dẫm đạp nhau, tạo ra nhiều lãng phí. Nhất thể hóa được một người thì làm xoay chuyển được gì.

Đảng CSVN đã từng là một đảng làm cách mạng, nay chuyển thành một đảng cầm quyền. Phải thay đổi từ chính cương, điều lệ, tổ chức, triết lý chứ không phải cho rằng chống được tham nhũng thì sẽ xây dựng được đảng trong sạch, vững mạnh.

Mục 18: Thực trạng của những cải cách đã bắt đầu

Cải cách” là do TG gọi còn lãnh đạo Việt Nam chỉ thích dùng từ “đổi mới”, họ rất dè dặt khi nói đến cải cách. TG viết: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và ban lãnh đạo ĐCSVN đều nhận thức rõ ràng về nguy cơ trong tương lai của ĐCS. Ban lánh đạo đảng đang tích cức đấu tranh phòng chống tham nhũng…”. Tưởng như thế là đúng, là hay, nhưng chưa phải.

Ông Trọng làm trưởng ban phòng chống tham nhũng nhưng ban đó chẳng phòng, cũng chẳng chống để tham nhũng không thể xảy ra, mà chỉ điều tra, xét xử một số vụ (gọi là “đốt lò”). Nhiều người có hiểu biết ở Việt Nam cho rằng dưới sự lãnh đạo của ĐCS không thể nào phòng chống được tham nhũng. Lãnh đạo quan tâm đến cải cách nền “hành dân là chính” bằng biện pháp tinh giản bộ máy, nhưng tinh được chỗ này lại phình ra chỗ khác.

Tất cả đang vướng vào mớ bùng nhùng, càng quẫy đạp càng bị vướng nhiều chỗ. Vì sao vậy? Vì rằng tham nhũng và tệ nạn hành chính đều là bệnh do u xơ trong gan ruột của Đảng, cần giải phẫu để cắt bỏ nhưng vì bản chất cộng sản mà không dám, chỉ tìm thuốc xoa ngoài da. Vậy chưa thể nói cải cách đã bắt đầu mà đó mới chỉ là người ta tưởng là thế.

Mục 19: Hỗ trợ của Nhật Bản đối với đào tạo nhân lực và cải cách của Việt Nam

Sự hỗ trợ của Nhật Bản đối với đào tạo nhân lực của Việt Nam xét về phương diện kỹ thuật là rất có hiệu quả, nhưng trong tổng thể còn thiếu một thứ quan trọng. TG viết: “Kế hoạch cải cách hệ thống chính trị mà VN đang tích cực triển khai là một thử nghiệm mang tính lịch sử nhằm thay đổi nhận thức của người dân và thay đổi mạnh mẽ cách thức tổ chức của bộ máy quản lý…., cải cách này đóng vai trò vô cùng quan trjng không chỉ với tương lai của VN ma còn đối với sự ổn định và thịnh vượng của khu vưc”. Thứ quan trọng tôi muốn nói tới liên quan đến “cải cách hệ thống chính trị” mà TG viết là “đang tích cực triển khai”.

TG còn viết: “Tôi hy vọng rằng, VN sẽ trở thành một xã hội mà ở đó nhân tài ưu tú, có ý chí mạnh mẽ được thỏa sức thể hiện năng lực của mình”. Xã hội mà TG hy vọng đó chỉ có thể có được dưới thể chế chính trị đã loại bỏ được độc tài của thế lực kém trí tuệ.

Cải cách hệ thống chính trị như viết ở trên là mong ước thiết tha của nhiều người dân và cũng trùng với mong đợi của TG, nhưng đó chưa phải là ý chí của lãnh đạo Việt Nam. Cải cách hệ thống chính trị phải theo hướng từ bỏ chủ nghĩa Mác Lênin, từ bỏ ảo tưởng xây dựng chế độ XHCN, thoát khỏi sự khống chế của Trung Cộng, xây dựng nhà nước dân chủ với tam quyền phân lập, từ bỏ chế độ đảng trị, xóa bỏ hình thức “đảng cử dân bầu”, kết bạn thân thiết với các nước dân chủ.

Trước đây Nhật Bản và Việt Nam xem Mỹ là kẻ thù. Quân Mỹ đến đóng trên đất Nhật năm 1945 trong sự thù hận của dân Nhật. Nhưng rồi người Nhật đã từ bỏ được chế độ quân phiệt, đã được người Mỹ hỗ trợ xây dựng đất nước, đó là những bài mà Việt Nam phải tìm để học từ người Nhật.

TG nêu ra khá nhiều bài ‘chia sẻ kinh nghiệm” của các chuyên gia Nhật, không trình bày nội dung cụ thể, không biết trong các kinh nghiệm đó có ai mạnh dạn giới thiệu những bài học về quan hệ với người Mỹ và thể chế chính trị ở Nhật hay không.

Mục 20: Cảm tình với Nhật Bản của Việt Nam

Trong mắt người VN, người Nhật Bản luôn gắn liền với hình ảnh chăm chỉ, chân thành, khiêm tôn, không bao giờ nói dối”. Đó là câu ở đầu mục 20. TG viết tiếp, “Bên cạnh đó, nhiều cá nhân, tổ chức của Nhật bản đã nỗ lực, bền bỉ trong suốt nhiều năm vì phúc lợi và sức khỏe của người VN. Cống hiến không mệt mỏi đó của họ đã đem lại cái nhìn đầy tích cực…”.

Điều trên là hoàn toàn đúng. Riêng tôi và tôi nghĩ rằng có nhiều người Việt cũng như tôi còn cảm phục người Nhật ở hai điểm sau:

Một là, trước năm 1945 họ đã chọn sai đường, sau năm 1945 đã kiên quyết cải cách, đã xây dựng một thể chế chính trị đảm bảo sự phát triển tự do của con người, họ đã nhanh chóng và khôn ngoan nhận ra bản chất tử tế của người Mỹ và chọn Mỹ làm đồng minh.

Hai là, người Nhật đã có một lòng tự tin lớn khi chơi thân và giúp đỡ Việt Nam, mà không sợ bị ảnh hưởng bởi phương châm “gần mực thì đen” khi chọn bạn mà chơi. Họ nổi tiếng không bao giờ nói dối, trong khi đó nói dối là một đặc tính của cộng sản và đã tiêm nhiễm ngày càng sâu rộng cho khá đông người Việt.

Lời cuối

Tác giả Umeda Kunio cho rằng, trong sách có lẽ cũng có những câu chuyện không hề dễ nghe đối với người Việt Nam, nhưng ông đã viết ra với lòng trung thực và mong ước tốt lành. Nhà Xuất bản cũng không chia sẻ hoàn toàn các quan điểm của tác giả, nhưng đã in sách với lòng kính trọng dành cho ông.

Cũng với tinh thần như vậy, tôi viết ra vài nhận xét mong được trao đổi với bạn đọc và với cả tác giả, để hoàn thiện nhận thức. Khi đọc bài này, nểu tác giả hoặc độc giả nào phát hiện điều tôi hiểu sai thì xin được chỉ giáo (xin gửi vào ndcong37@gmail.com). Tôi sẽ vô cùng biết ơn.

Điểm sách: Nhật Bản và Việt Nam là đồng minh tự nhiên (Phần 1)

Nguyễn Đình Cống

22-7-2023

Ảnh bìa sách.

Sách: “Nhật Bản và Việt Nam là đồng minh tự nhiên”, của tác giả Umeda Kunio, viết xong vào tháng 5 năm 2021, Nguyễn Thị Lan Hương dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Việt, do nhà xuất bản Thế giới ấn hành năm 2023.

Trái tim thác cuộn

Chu Mộng Long

15-3-2023

Ảnh bìa sách

(Đọc “Đá nổi xôn xao” của Hoài Tố Hạnh)

Benito Mussolini: Học thuyết của chủ nghĩa phát xít

Phan Phương Đạt

13-3-2023

Giới thiệu: Ngày nay đa số mọi người chỉ biết đến chủ nghĩa phát xít một cách mơ hồ, liên quan đến bóng ma của chế độ Hitler, của nước Đức thời đảng Quốc xã. Nhiều người cũng đánh đồng chủ nghĩa phát xít vốn xuất thân ở Ý với chủ nghĩa quốc xã (nazism) của Hitler, trong khi nazism thực chất là một hình thức của chủ nghĩa phát xít. Nhà văn Ý Umberto Eco có bài phân tích chi tiết về việc tại sao người ta lại hay dùng chữ phát xít để nói về tất cả các chế độ và tư tưởng liên quan, và chỉ ra 14 dấu hiệu của chủ nghĩa phát xít.

Về một cuốn sách lạ

Nguyễn Đình Cống

23-12-2022

Đó là cuốn “Chống Bầu Cử: Biện hộ cho dân chủ”, (Against Elections: The Case for Democracy) của David Van Reybrouck, do Liz Waters dịch sang tiếng Anh và Penguin Random House xuất bản trong năm 2016 từ nguyên bản “Tegen Verkiezingen được De Bezige Bij xuất bản năm 2013, TS Nguyễn Quang A dịch ra tiếng Việt năm 2022.

Điểm sách: Henry Kissinger – Tinh thần lãnh đạo – Sáu nghiên cứu trong chiến lược thế giới

Đỗ Kim Thêm

2-8-2022

Một người sống được gần một trăm tuổi, còn sinh lực dồi dào, đó là chuyện xưa nay hiếm. Hơn nữa, trong tác phẩm mới nhất: Tinh thần lãnh đạo, sáu nghiên cứu trong chiến lược thế giới (Leadership – Six Studies in World Strategy), cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger đã chứng minh ông còn đầy minh mẫn trong khả năng quan sát các vấn đề thời sự quốc tế với tinh thần cảnh giác cao độ, đó là một việc làm càng đáng ngạc nhiên hơn.

Đọc: “Tuyển Tập II, Chân Dung Văn học Nghệ thuật và Văn hóa” của Ngô Thế Vinh

Trần Thị Nguyệt Mai

17-3-2022

Ảnh chụp bìa sách

Ngô Thế Vinh là một tên tuổi không xa lạ trên văn đàn miền Nam từ những năm 1960. Khởi viết từ năm 22 tuổi với tiểu thuyết Mây Bão (Sông Mã, Saigon 1963) khi đang là sinh viên Y khoa Đại học đường Saigon. Rồi tiếp tục với những tiểu thuyết Bóng Đêm (Khai Trí, Saigon 1964) và Gió Mùa (Sông Mã, Saigon 1965) khi vẫn đang là sinh viên Y khoa.

Ông cũng là một thành viên trong Ban biên tập, nguyên Tổng thư ký rồi Chủ bút báo sinh viên Tình Thương của trường Y Sài Gòn từ số đầu tiên ra mắt vào tháng 1-1964 cho đến khi báo đình bản năm 1967. Tiểu thuyết Vòng Đai Xanh (Thái Ðộ, Saigon 1970) được ấp ủ từ những ngày làm báo Tình Thương và viết xong 1969, một năm sau khi tốt nghiệp trường Y (1968) và đang là Y sĩ trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, đã được trao giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc năm 1971 bộ môn Văn.

Sau biến cố tháng Tư Đen, như tất cả những sĩ quan quân đội và viên chức thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ông đã trải qua các trại cải tạo Suối Máu, Trảng Lớn, Phước Long, Bù Gia Mập… hơn ba năm trước khi định cư tại Hoa Kỳ (1983). Tại vùng đất mới, ông tiếp tục hoàn tất tập truyện ngắn Mặt Trận Ở Sài Gòn (Văn Nghệ, California 1996] “với khí thế hừng hực của ngòi bút, với chất lửa cháy bừng bừng trong mỗi câu văn, làm người đọc vừa say mê vừa choáng váng…” [1] như Lời Bạt mà họa sĩ / nhà văn / nhà thơ Tạ Tỵ đã nhận xét.

Sau tập truyện này, trong hơn hai mươi năm nay, ông hướng ngòi bút tới những vấn đề môi sinh, với hai tác phẩm quan trọng gây tiếng vang không ít, Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy SóngMekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, cộng thêm hàng chục tiểu luận biên khảo, nghiên cứu giá trị về những biến đổi nguy hại của hệ sinh thái sông Mekong” (sđd, tr. 12).

Gần đây nhất là tường trình về đại công trình Sông Cờ Đỏ của Trung Quốc, dài trên 6.180 km với kế hoạch hàng năm chuyển dòng lấy 60 tỉ mét khối nước ngay từ nguồn không cho xuống hạ lưu các sông Mekong, Salween và Brahmaputra, bất kể nguy hại đến nguồn sống của bao nhiêu triệu cư dân nơi đây. “Ông mặc nhiên được xem như một chuyên gia trong lĩnh vực này, một con chim “báo bão” về mối đe dọa thường xuyên và ghê rợn từ phương Bắc đối với sự sinh tồn của đất nước và dân tộc” (sđd, tr. 12) như nhà thơ / nhà văn Trịnh Y Thư đã ghi lại trong Thay Lời Tựa của tập sách này.

Bên cạnh đó, Ngô Thế Vinh cũng chọn thể hiện những chân dung Văn Học Nghệ Thuật và Văn Hóa như một sự “tình cờ” khởi đi từ bài viết ‘Nhớ về người bạn Tấm Cám Nghiêu Đề’, một cố tri từ tuổi rất thanh xuân. Ông đã nhận được rất nhiều khích lệ của bạn bè, đặc biệt là “họa sĩ Đinh Cường tỏ ra rất tâm đắc với bài viết và đã đưa ra nhận định: không thể viết về Nghiêu Đề hay hơn Ngô Thế Vinh nên có đề nghị sẽ đưa vào cuốn sách Đi Vào Cõi Tạo Hình II sắp xuất bản viết về những họa sĩ cùng thời từ 1957 đến 1966, năm thành lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam.” [2]

Tuyển tập I đã ra đời năm 2017 được độc giả tiếp đón nồng hậu với cả thảy 18 chân dung gồm 16 nhân vật thuộc Văn học Nghệ thuật (Mặc Đỗ, Như Phong, Võ Phiến, Linh Bảo, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Biên, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Nguyên Khai, Cao Xuân Huy, Phùng Nguyễn) và 2 chân dung Văn hóa (GS Phạm Biểu Tâm, GS Phạm Hoàng Hộ).

Tuyển tập II ra mắt vào tháng 2 năm nay, gồm chân dung của 15 văn nghệ sĩ và nhà văn hóa: Nguyễn Tường Bách và Hứa Bảo Liên, Hoàng Tiến Bảo, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn Trung, Dohamide, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư và Ngọc Yến, Phan Nhật Nam, John Steinbeck cộng thêm phần phụ lục Con đường sách Sài Gòn và Câu chuyện đốt sách.

Xin được điểm qua từng chân dung:

1 & 2. Bác sĩ Nguyễn Tường Bách và bà Hứa Bảo Liên.

Nguyễn Tường Bách là người em út trong gia đình Nguyễn Tường của phong trào Tự Lực Văn Đoàn. Tuy “tốt nghiệp y khoa, nhưng đã chọn bước sang con đường khác – cầm bút để chiến đấu! … là một trong số bác sĩ thế hệ tiên phong của thập niên 1940 đã đi vào lãnh vực báo chí và văn nghệ sớm như vậy” (sđd, tr. 34).

Ông từng làm giám đốc báo Ngày Nay bộ mới và hoạt động chính trị rất sớm (1939), tham gia đảng Đại Việt Dân Chính [về sau kết hợp với Việt Nam Quốc Dân Đảng rồi Đại Việt Quốc Dân Đảng để thành Quốc Dân Đảng]. Nguyên ủy viên trung ương Việt Nam Quốc Dân Đảng, phụ trách công tác tổ chức đảng và tuyên truyền. “Tháng 5/1946, tình hình biến chuyển bất lợi cho phe quốc gia, trước nguy cơ khủng bố của Việt Minh, Nguyễn Tường Bách cùng với các đồng chí … phải rút lên Việt Trì, rồi Yên Báy, Lào Cai. Cuối cùng, theo quyết định của Trung ương Đảng bộ VNQDĐ, Vũ Hồng Khanh ở lại Đệ Tam Khu, còn Nguyễn Tường Bách đi Côn Minh để cùng với Nguyễn Tường Tam phụ trách hải ngoại vận” (sđd tr. 35).

Không thể ngờ được đó là chuyến đi định mệnh để từ đó ông gặp lại và thành hôn với bà Hứa Bảo Liên, người bạn gái thân thiết trước đây khi còn ở Hà Nội, vào cuối năm 1946, mắc kẹt với “giấc đông miên” của một “Y sĩ đồng quê” sống trên đất Trung Quốc 42 năm. Rồi cũng do một ngẫu nhiên của lịch sử, từ làn sóng nạn kiều, Lý Trung Nhân (tốt nghiệp Bách Khoa Hà Nội) là con trai của Bác sĩ Lý Hồng Chương, một bạn đồng môn Y khoa Hà Nội, sang Trung Quốc và được gia đình ông cưu mang. Rồi Lý Trung Nhân trở thành rể của gia đình và sau đó được người mẹ sống ở Hoa Kỳ bảo lãnh. Nhân mang theo vợ Hứa Anh, để từ đó, đến năm 1988, ông bà Nguyễn Tường Bách được sang Mỹ định cư đoàn tụ với các con cũng như gặp lại các cháu thuộc dòng họ Nguyễn Tường. Nơi đây, “ở tuổi 72, như cá gặp nước, Nguyễn Tường Bách hăng say đi tiếp ngay một cuộc hành trình không ngưng nghỉ thêm hơn 20 năm nữa với bao nhiêu là dự án: Thành lập “Ủy Ban Điều Hợp Các Tổ Chức Tranh Đấu cho Việt Nam Tự Do”, rồi “Mặt Trận Dân Tộc Dân Chủ Việt Nam”, và bền bỉ nhất là “Hoạt Động Nhân Quyền và Dân Chủ cho Việt Nam” kết hợp với “Mạng Lưới Nhân Quyền”” (sđd, tr. 64).

Trong hồi ký “Nguyễn Tường Bách và tôi”, bà Hứa Bảo Liên cho hay, “Anh Bách thường nói, bác sĩ là chức nghiệp, cách mạng là sự nghiệp, nhưng văn nghệ mới là ước nguyện chính. Sau khi về hưu, còn ở Phật Sơn, anh cầm bút tranh thủ thời gian viết. Anh viết rất hăng say, chẳng khác gì khi còn trẻ…” (sđd, tr. 64).

  1. Giáo sư Hoàng Tiến Bảo là một nhân cách lớn. Nguyên Giáo sư Đại học Y Khoa Sài Gòn, Trưởng khu Chỉnh Trực bệnh viện Bình Dân, ông có công phát triển ngành học mới Bướu Xương / Bone Tumor và Phẫu thuật Cột sống / Spine Surgery tại Việt Nam, đã giúp nhiều bệnh nhân bị lao cột sống và chấn thương cột sống có khả năng trở lại sinh hoạt bình thường (sđd, tr. 76-77). “Thấy được sự cách biệt về trình độ và phẩm chất đào tạo giữa nhóm nội trú và một đa số ngoại trú hành lang / externes des couloirs, Thầy Bảo đã mạnh dạn chủ trương là phải mở rộng chương trình nội trú, gia tăng sĩ số sinh viên nội trú trúng tuyển để mọi sinh viên ưu tú có khả năng có cơ hội đồng đều để trở thành những bác sĩ giỏi. Một mô hình tiến rất gần tới chế độ nội trú – thường trú [Internship and Residency] của giáo dục Y khoa của Mỹ” (sđd, tr. 79).

Với lòng nhiệt thành và thân ái, Thầy Bảo “giảng dạy những điều rất thực tế để sinh viên có thể lãnh hội và áp dụng được ngay khi bước vào đời… Ông đã để lại những dấu ấn trong suốt học trình Y khoa trên đám môn sinh được học Thầy” (sđd, tr. 77-78).

Sau 1975, bị kẹt lại nơi quê nhà, Thầy Bảo “vẫn hàng ngày đứng mổ, tận tụy phục vụ người bệnh, giảng dạy học trò cho đến ngày về hưu, đi định cư ở Hoa Kỳ năm 1983” (sđd, tr. 82).

  1. Họa sĩ / Nhà văn / Nhà thơ Tạ Tỵ tốt nghiệp khoa Sơn Mài tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương năm 1943. Ông thành danh khá sớm, và đoạt được nhiều giải thưởng tranh. “Nhưng dấu ấn Hội họa của ông không phải là những tác phẩm Sơn Mài. Tạ Tỵ luôn luôn đi tìm cái mới, và được xem là người đi tiên phong vào lãnh vực Lập Thể / Cubisme và Trừu Tượng / Abstrait của hội họa Việt Nam” (sđd, tr. 106).

“Vào đầu thập niên 1960, Tạ Tỵ vẽ một loạt chân dung các văn nghệ sĩ Việt Nam với một phong cách rất độc đáo, anh nhạy bén bắt được cái thần ở từng khuôn mặt, và đây là một lãnh vực tài hoa khác của Tạ Tỵ mà chưa ai sánh được. Tác phẩm của Tạ Tỵ còn được trưng bày tại các bảo tàng viện nghệ thuật quốc tế ở Tokyo, San Francisco, New York và Paris” (sđd, tr. 110).

Về văn học, ông “đã cộng tác với các tạp chí văn học tại miền Bắc và miền Nam từ năm 1950 đến 30-4-1975: Thế Kỷ, Đời Mới, Nguồn Sống Mới, Sáng Tạo, Văn, Văn Học, Hiện Đại, Nghệ Thuật, Bách Khoa và Tin Văn, và sau 1975: Thế Kỷ 21 tại Hoa Kỳ” và đã có tổng cộng 14 tác phẩm đã xuất bản tại Việt Nam và Hoa Kỳ (sđd, tr. 114-115).

Sau tháng 4/1975, tuy là một Trung Tá Tổng Cục Chiến tranh Chính trị đã giải ngũ vào tháng 6/1974, nhưng họa sĩ Tạ Tỵ vẫn phải “trải qua 8 trại Tập Trung Cải Tạo từ Nam ra Bắc… đã sống và đã chứng kiến bao nhiêu trạng thái bi thương…” [3]. Ra tù vào đầu năm 1981 với tấm thân tàn ma dại, ông tìm đường vượt biên. Hồi ký Đáy Địa Ngục được viết và hoàn tất tại trại tỵ nạn Mã Lai năm 1982, tố cáo cùng toàn thế giới: “Người tù chính trị Việt Nam sau ngày 30-4-1975, quả thực, một vết nhơ trên ‘tấm thảm lương tri nhân loại’. Họ được đối xử như những con vật, đôi khi không bằng con vật. Họ luôn luôn sống trong lo âu, hồi hộp, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy đến với họ… Họ ‘ăn không đủ no, đói không đủ chết’… Nếu ai đã trải qua một lần trong bất cứ Trại Tập Trung Cải Tạo nào của Cộng sản Việt Nam, người đó có quyền coi thường mọi nhà tù trên Thế Giới.” [3]

Dù vậy, đến cuối đời Tạ Tỵ đã chọn lựa trở về sống tại quê hương dù không biết trước được những bất trắc gì sẽ xảy đến cho mình, với lòng tin tưởng “nước Việt Nam dù dưới chủ nghĩa nào cũng chỉ tạm thời, cái Vĩnh Viễn là mảnh đất do tất cả Dân Tộc dựng nên, cái đó mới tồn tại lâu dài, Vĩnh Viễn!” (sđd, tr. 136-137). Ngô Thế Vinh đã ví Tạ Tỵ như “con cá Hồi dũng mãnh sau những tháng năm vẫy vùng ngoài đại dương, đến cuối đời sức cùng lực kiệt, vẫn với một bộ nhớ không suy suyển, để từ biển rộng trở lại con sông dài, bất chấp những ghềnh thác, chỉ để được trở về nguồn – nơi mảnh đất có tên gọi rất thiêng liêng là Việt Nam” (sđd, tr. 138). Thật đẹp và chính xác.

  1. Giáo sư Trần Ngọc Ninh, tốt nghiệp Thạc Sĩ Y khoa Pháp (1961), nguyên Giáo sư và Trưởng khoa phẫu khoa chỉnh trực và phẫu nhi khoa tại Đại học Y khoa Sài Gòn, Tổng trưởng Văn hóa Xã hội đặc trách Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa, Giáo sư Văn minh Đại cương và Văn hóa Việt Nam tại Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn, Thành viên sáng lập Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á (SEAMEO), Hội viên Hội đồng Quốc Gia Giáo dục, Sài Gòn Việt Nam.

Ông đã xuất bản các tác phẩm về văn hóa, y học và tôn giáo. Bên cạnh đó, ông có hơn 200 bài khảo cứu chuyên khoa được in trong các Tạp chí Y khoa xuất bản tại Việt Nam, Pháp và Mỹ. Ngoài ra ông còn viết nhiều bài báo liên quan tới các đề tài văn hóa trên các tạp chí Tình Thương, Bách Khoa, Thế Kỷ 21 và Khởi Hành (sđd, tr. 146).

  1. Nhà báo Lê Ngộ Châu là linh hồn của tạp chí Bách Khoa – “Diễn đàn chung của tất cả những người tha thiết đến các vấn đề Chính trị, Kinh tế, Văn hóa, Xã hội” (sđd, tr. 178). Tác giả đã kể rõ ngọn nguồn của tạp chí Bách Khoa, những thay đổi về tên gọi, địa chỉ tòa soạn cũng như nhà in, những khó khăn mà Bách Khoa gặp phải trong suốt 18 năm hiện diện…

“Lê Ngộ Châu đã khéo léo dung hòa được mọi khuynh hướng chính trị, tôn giáo khác biệt để Bách Khoa càng ngày càng quy tụ được nhiều cây bút có uy tín thuộc cả ba miền Nam, Trung, Bắc, thuộc các thế hệ già trẻ tiếp nối… Đáng kể hơn nữa, Lê Ngộ Châu còn phát hiện thêm những cây viết trẻ và đa số đều thành danh những năm về sau này. Với các cây bút nam như Lê Tất Điều, Trần Hoài Thư, Hoàng Ngọc Tuấn, Thế Uyên, Nguyễn Mộng Giác… và các cây bút nữ như Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ…” (sđd, tr. 185).

Bên cạnh đó, tác giả cũng nhắc đến “Nhà báo tài năng Nguiễn Ngu Í, người đã bền bỉ đi suốt cuộc hành trình 18 năm của Tạp chí Bách Khoa… là người có công lao rất lớn tạo nên được một nhân dáng sinh động và phong phú của mục Sinh hoạt báo Bách Khoa” (sđd, tr. 199).

Đọc chương này, độc giả không khỏi nuối tiếc cho “thư viện phong phú của Bách Khoa một đời ông (Lê Ngộ Châu) dày công sưu tập cũng không giữ được và cuối cùng cũng phải nộp cho Hai Khuynh tức Nguyễn Huy Khánh, là một trong “ngũ hổ tướng” của Thành ủy Sài Gòn lúc bấy giờ… Sau này, cũng những cuốn sách có gốc gác từ thư viện Bách Khoa ấy, với cả thủ bút các tác giả ký tặng Lê Ngộ Châu, đã được thấy bày bán nơi mấy tiệm sách cũ, mà khách tìm mua có cả những học giả từ miền Bắc vào… Ai cũng hiểu rằng đó là niềm đau xót sâu thẳm của Lê Ngộ Châu mà không bao giờ anh nói ra (sđd, tr. 202).

  1. Giáo sư Nguyễn Văn Trung, một trí thức lận đận, người bị nhiều tai tiếng nhất từ khi còn trong nước cho đến khi ra hải ngoại vẫn chưa dứt. Nguyên Giáo sư Triết và Văn ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn và Đại học Huế. Tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ông là Trưởng ban Triết Tây phương, có thời gian được bầu làm Khoa trưởng Đại học Văn Khoa Sài Gòn (1969). Sau 1975, không được trở lại giảng dạy, ông chỉ có thể làm công việc nghiên cứu văn học và triết học tại Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp TP. HCM (sđd, tr. 216).

Nguyễn Văn Trung đã có công sáng lập và điều hành tạp chí Đại Học ở Huế, và sau này là các tạp chí Hành Trình, Đất Nước, Trình Bầy và cộng tác với nhiều tờ báo như Bách Khoa, Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn, Văn Học, Nghiên Cứu Văn Học, Thái Độ, Đối Diện, Tin Sáng, Sống Đạo, Dân Chủ Mới, Tân Văn… (sđd, tr. 221), cổ võ “một chủ nghĩa xã hội không cộng sản mang tính cách ảo tưởng về một con đường thứ ba… (sđd, tr. 227), thiên tả, phản chiến giữa giông bão của cuộc chiến tranh quốc cộng” (sđd, tr. 228).

Sau này, Nguyễn Văn Trung viết: “… Trong ý định nhìn lại những chặng đường đã đi qua, nghĩa là những gì tôi viết liên quan đến các giới Việt Nam, tôi không phiền trách tố cáo lại ai, để phân trần tự biện minh, mà chỉ cố gắng tìm hiểu phần trách nhiệm của tôi đã gây ra mọi sự do chính những lựa chọn căn bản có ý thức của tôi và nhất là do những lệch lạc hay thiếu sót đã không thực hiện đúng, đầy đủ của những lựa chọn đó…” (sđd, tr. 235).

Tác giả Ngô Thế Vinh cũng chia sẻ: “Nguyễn Văn Trung luôn luôn đã phải trả giá cho những điều anh phát biểu – giữa hỗn mang của thời cuộc, không có trắng và đen mà chỉ là trong một vùng xám giữa đúng và sai – nhưng có điều chắc chắn đó là tiếng nói lương tâm trong chọn lựa dấn thân của Nguyễn Văn Trung. Anh cất lên tiếng nói cho những điều mà lúc đó anh thực tâm tin tưởng, và anh đã phải chịu nhiều ngộ nhận và oan khiên đến cả vùi dập” (sđd, tr. 247).

Ở chương này có nhắc đến, “Tình hình miền Nam sau 1963, vô cùng rối ren với những vụ khủng bố, Việt Cộng thảm sát Bác sĩ Lê Minh Trí, Giáo sư Y khoa Trần Anh, Giáo sư Quốc Gia Hành Chánh Nguyễn Văn Bông, nhà báo Từ Chung và ám sát hụt nhà báo Chu Tử, sinh viên Bùi Hồng Sĩ…” (sđd, tr. 232). Trong thời kỳ nhiễu nhương đó, năm 1969, Gs Nguyễn Văn Trung đã can đảm nhận chức vụ Khoa trưởng Đại học Văn Khoa Sài Gòn và muốn tổ chức một ban ấn loát riêng của nhà trường để in bán cours cho sinh viên với một giá phải chăng (sđd, tr. 233). Cũng vì đó ông bị những sinh viên với nguồn lợi liên quan kéo thêm báo Con Ong bên ngoài hỗ trợ, dùng những từ ngữ xấu xa nhất để mạt sát, mạ lỵ ông. Có thể ví đó như một vết chàm nhỏ trên khuôn mặt đẹp của thời VNCH.

  1. Dohamide / Đỗ Hải Minh là một trí thức người Chăm, đã tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (1962), Cao học M.A. về Chánh trị học tại Đại học Kansas, Hoa Kỳ (1967), biết nói và viết nhiều thứ tiếng: Chàm, Việt, Pháp, Anh, Á Rập, Mã Lai, Cam Bốt. Ông cũng là tác giả của loạt bài chuyên khảo về lịch sử và văn minh Champa trên tạp chí Bách Khoa từ những năm 1960, và đồng tác giả với người em Dorohiêm của cuốn sách Dân tộc Chàm lược sử (1965). Sau cuộc đổi đời tháng 4/1975, “Dohamide lần lượt chuyển qua các trại lao động khổ sai ngoài miền Bắc ngót 10 năm (sđd, tr. 267). Chín năm sau khi ra tù, phải đến tháng 3/1993, qua bao nhiêu thủ tục giấy tờ phức tạp, qua chương trình H.O., Dohamide cùng gia đình được xuất cảnh sang Mỹ” (sđd, tr. 269).

Dohamide với suốt một đời đau đáu đi tìm về cội nguồn đã cùng người em Dorohiêm viết Bangsa Champa: tìm về một cội nguồn cách xa xuất bản tại California, Hoa Kỳ 2004. Ông “có cách nhìn ôn hòa, rộng mở và tin tưởng vào con đường văn hóa, mong mỏi hai tập sách Dân tộc Chàm Lược sửBangsa Champa được phổ biến rộng rãi trong các thế hệ thanh niên Chăm không chỉ ở hải ngoại mà cả ở trong nước, để họ không bị lôi cuốn vào phong trào “hận thù mất nước”, đang được nhóm đồng tộc Chăm cực đoan Champaka khích động theo chủ thuyết “dân tộc bản địa” – như một khuynh hướng phục quốc và ly khai… Họ phủ nhận hướng đi theo con đường hòa bình của Dohamide, và cho rằng Dohamide đã thỏa hiệp nếu không muốn nói là đầu hàng. Điều ấy khiến Dohamide vô cùng nặng lòng vào những năm cuối đời” (sđd, tr. 287).

  1. Giáo sư Lê Ngọc Huệ tốt nghiệp điêu khắc từ trường Mỹ thuật Montpellier (Pháp) mới từ Paris về đã cùng với mấy sinh viên khoa điêu khắc trường Mỹ Thuật Huế: Mai Chửng, Lê Tài Điển, Trần Văn Danh… chung sức thực hiện trong khoảng thời gian hơn hai năm từ 1961 tới 1963 thì gần như hoàn tất quần thể tượng mười lăm sự mầu nhiệm mân côi ở nhà thờ Đức Mẹ La Vang, Quảng Trị. Qua đó cho thấy “trong lãnh vực điêu khắc, Lê Ngọc Huệ là một tài năng lớn với thủ pháp tinh tế, đường nét tinh giản nhưng mạnh mẽ, đầy tính tượng trưng và sáng tạo… Ông đã để lại một công trình nghệ thuật tôn giáo quan trọng và lớn lao, ghi những dấu ấn sâu đậm trong ngành điêu khắc Việt Nam, tạo được sự kết hợp thăng hoa giữa nghệ thuật và tôn giáo” (sđd, tr. 319).
  2. Bác sĩ Nghiêm Sỹ Tuấn, nguyên thư ký báo Tình Thương của sinh viên Y khoa Saigon, tốt nghiệp Y khoa ở tuổi 28, gia nhập binh chủng Nhảy Dù và đã hy sinh trên chiến trường Khe Sanh tháng 4/1968 ở tuổi 31, người đã để lại dấu ấn đậm sâu trong lòng tất cả những ai có dịp tiếp xúc với anh. Phạm Liêu trong một bài viết trên tập san Mũ Đỏ, sau đó được đăng lại trên báo Tiền Phong số 38 (18/12/1968) đã ghi lại: “Những người bạn anh kể rằng anh tôn trọng kỷ luật đến độ làm cho những người khác khó chịu. Dưới một bề ngoài trầm lặng, tiềm tàng một nếp sống nội tâm cuồng nhiệt. Anh thật nhiều tham vọng. Anh muốn nhiệm vụ của một quân nhân Dù đi kèm một Y sĩ tiền tuyến của anh phải kiện toàn. Không bao giờ ta thán bất cứ một sự gì. Không bao giờ tìm tòi sơ hở của kẻ khác để chỉ trích, phê bình, chê bai. Người khác có cảm tưởng anh im lặng để hành động nhiều hơn, hữu hiệu hơn, thật đúng là một triết lý của hành động” (sđd, tr. 328). “Anh chấp nhận tất cả: Ngay những điều bất hạnh có thể xảy ra trong mai hậu khi anh dấn thân. Nhiều người cho những sự hy sinh của anh vô nghĩa, nếu không nói phi lý, anh hiền hòa đáp lại: “Làm gì có xương nào phơi vô nghĩa, càng vô nghĩa bao nhiêu càng ý nghĩa bấy nhiêu. Vả chăng xương nào thay được xương mình. Trái đậu thì hoa tàn. Hạt giống có chết cây mới nẩy mầm xanh, sao nói là vô nghĩa được.” Anh chấp nhận ngay cả sự chết một mai của mình nếu không nói những áng văn của anh như bản di chúc cuối cùng của một người sắp ra đi. Chấp nhận sự chết để tự dọn mình là một triết lý khổ hạnh, mà ít người bằng tuổi anh đã dám nhận làm chỉ nam cho đời mình” (sđd, tr. 329).
  3. Bác sĩ Đoàn Văn Bá, là người bạn đồng môn với Bác sĩ Nghiêm Sỹ Tuấn và cũng thuộc Quân y Nhảy Dù, “đã biểu lộ lòng can đảm phi thường, bất chấp nguy hiểm cho sinh mạng mình và chỉ quan tâm tới những người bệnh, với kết quả là ông đã cứu được nhiều mạng sống” (sđd, tr. 353) của lính Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ khi cộng quân tấn công vào thành phố Huế dịp Tết Mậu Thân 1968, nên được tưởng thưởng Huy chương Anh dũng Bội tinh với Ngôi Sao Đồng của Bộ Tư Lệnh Chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam vào tháng 5/1968. Ông là một mẫu người can đảm dám nói dám làm, không hãi sợ bất cứ một trở lực nào nên từng được bạn bè gọi là “Bá điên” hoặc “l‘homme des situations difficiles”. “Sau khi miền Nam Việt Nam bị rơi vào tay cộng sản Bắc Việt, Y sĩ Thiếu Tá Đoàn Văn Bá bị bắt vào các trại tù cộng sản cùng toàn thể sĩ quan và viên chức cao cấp của chính quyền miền Nam, bị đày ải qua các trại tù Hóc Môn, Suối Máu, Bù Gia Mập, Bù Đăng trong hoàn cảnh bị lao động cưỡng bức, thiếu ăn, và bệnh tật không thuốc men” (sđd, tr. 358). “Ra tù sau 4 năm, gia đình bị ly tán… Anh đã dẫn theo một đứa con gái vượt thoát ra khỏi nước như một “thuyền nhân” và sau đó được đi định cư tại Hoa Kỳ. Trên vùng đất mới Bá lại trải qua một thời gian phấn đấu khó khăn nữa. Là bác sĩ ngoại quốc ở tuổi đã cao, Bá vẫn say mê học tập và vượt qua được các kỳ thi… để trở thành một bác sĩ nội khoa và chuyên khoa về Thận (Internist / Nephrologist) ở tuổi đã 51 — Ngũ Thập Nhi Tri Thiên Mệnh” (sđd, tr. 358).
  4. Điêu khắc gia Mai Chửng, là một trong những học trò của Giáo sư Lê Ngọc Huệ đã góp phần thực hiện quần thể tượng mười lăm sự mầu nhiệm mân côi ở nhà thờ Đức Mẹ La Vang, Quảng Trị. Ông là tác giả của “Tượng đài Bông Lúa bằng đồng lá biểu tượng nền văn minh nông nghiệp dựng tại thị xã Long Xuyên (1970)” bị CS phá sập sau 1975 và “bức tượng Mầm (1973) cao 1,50m, làm bằng cả ngàn vỏ đạn súng trường được hàn lại, biểu tượng cho sự sống vẫn vươn lên giữa tàn phá của chiến tranh” cũng bị biến mất sau 1975 (sđd, tr. 378-379).

Mai Chửng tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Huế năm 1961, Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn năm 1963. Nguyên thành viên và Chủ tịch Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam (1966-1975). Từ 1968, dạy ở trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật và năm 1974 tại Đại học Kiến trúc Sài Gòn. Ông có thời gian nhập ngũ khóa Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, làm việc tại Tổng cục Chiến tranh Chính trị với cấp bậc cuối cùng là Đại úy. Sau đó được biệt phái về dạy Đại học Kiến trúc. Năm 1975 ông bị bắt học tập cải tạo gần 3 năm, được thả vào cuối năm 1978 (sđd, tr. 385). Là một điêu khắc gia rất tài năng, sau 1975, hai lần đoạt giải nhất mẫu Tượng Đài Chiến Thắng của Hội Mỹ Thuật Thành Phố Sài Gòn để dựng tại Công Trường Quốc Tế nhưng sau đó đã không được thực hiện “chỉ vì Mai Chửng là một người lính của chế độ cũ” (sđd, tr. 389). Tài năng không được sử dụng trong nước buộc Mai Chửng phải tìm đường vượt biên năm 1981. Sang Mỹ năm 41 tuổi bận rộn với sinh kế cùng gánh nặng gia đình, “đã qua nhiều nghề để kiếm sống, bằng xe fast food ở San Jose, rồi sau đó bằng nghề lái taxi trong nhiều năm ở Hawaii… Tới thời điểm vượt qua được nợ cơm áo, thì Mai Chửng không còn trẻ nữa và sức khỏe cũng đã suy yếu, giấc mộng lớn điêu khắc của Mai Chửng vẫn có đó nhưng khó thành” (sđd, tr. 391). Cuối đời dù “sức khỏe sút kém sau phẫu thuật cắt bướu ung thư bao tử, nhưng ông vẫn không ngừng làm việc và rất hào hứng hoàn tất một số tác phẩm để tham gia cuộc triển lãm lớn vào tháng 7 năm 2001 cùng với các họa sĩ, điêu khắc gia Việt Nam trong và ngoài nước, tổ chức tại Gallery Vĩnh Lợi Sài Gòn” (sđd, tr. 393).

  1. Vợ chồng Nhà văn Trần Hoài Thư – Nguyễn Ngọc Yến là những người tiên phong trong “nỗ lực phục hồi Di Sản Văn Học Miền Nam 1954-1975” (sđd, tr. 402). Trần Hoài Thư nguyên là giáo sư Toán đệ nhị cấp trường trung học Trần Cao Vân, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Tín, bị động viên năm 1967 nhập ngũ khóa 24 SQTB Thủ Đức. Phục vụ tại đại đội 405 Thám kích sư đoàn 22 Bộ binh, bị thương ba lần (sđd, tr. 402), rồi phóng viên chiến trường vùng IV. Đã cộng tác với các tạp chí Bách Khoa, Văn, Văn Học, Đời, Bộ Binh, Thời Tập, Vấn Đề, Khởi Hành, Ý Thức… Nhờ văn chương ông đã có một mối tình thật đẹp với cô gái Cần Thơ Nguyễn Ngọc Yến và hai người đã nên duyên chồng vợ năm 1971. Sau cuộc đổi đời tại miền Nam với hơn 4 năm tù khổ sai, “vượn người” [4] Trần Hoài Thư với tấm thân xác nặng chưa tới 35 ký lô trở thành người bán cà rem dạo ở Cần Thơ trong thời gian bị quản chế. Ngày “xả chế” (cuối năm 1979) cũng là ngày ông lên ghe vượt biển bắt đầu cuộc sống tỵ nạn xa quê hương. Ở lại cũng không yên thân, bà Nguyễn Ngọc Yến cũng ôm đứa con trai duy nhất vượt biển đoàn tụ cùng chồng sau đó. Hai vợ chồng đã cố gắng làm việc, học hành, tạo dựng một mái ấm gia đình. Trần Hoài Thư tốt nghiệp cử nhân điện toán với thứ hạng cao được nhận làm việc tại hãng AT &T, được hãng “trả tiền cho học thêm bán thời gian. Sau hai năm, đậu thêm văn bằng Cao học Toán Ứng dụng / Master of Applied Mathematics… Khi chi nhánh của Thư được chuyển nhượng cho hãng điện toán IBM, Thư lên tới chức vụ Project Leader. Và khi nó outsourcing chuyển qua Ấn Độ, THT quyết định nghỉ hưu để có toàn thời gian thực hiện điều mơ ước: thực hiện tủ sách DI SẢN VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM” (sđd, tr. 416-417).

Theo Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, “Có thể nói một cách tự tin rằng so với những bài viết về Trần Hoài Thư trước đây, bài viết về Trần Hoài Thư trong Tuyển tập II là đầy đủ nhứt” (sđd, tr. 517).

  1. Nhà văn Phan Nhật Nam, “kẻ sống sót sau một cuộc chiến tranh dài hơn trí nhớ”, với những chấn thương không chảy máu. Tốt nghiệp Khóa 18 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, gia nhập binh chủng Nhảy Dù, từng là thành viên của Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương 4 và 2 Bên. Sau 1975, ông bị tù cải tạo 14 năm qua các trại giam miền Bắc với 2 đợt kiên giam (2/1979 đến 8/1980; 9/1981 đến 5/1988). Khi ra tù ông bị quản chế và chỉ định cư trú tại Lái Thiêu cho đến khi đi định cư tại Hoa Kỳ theo diện ODP vào năm 1993. Theo tác giả, những tác phẩm “viết về Chiến Tranh Việt Nam trước 1975 của Phan Nhật Nam là hay nhất đối với cả hai miền Nam Bắc” (sđd, tr. 451). Bút ký chiến tranh Phan Nhật Nam được tái bản nhiều lần ở miền Nam trước 1975 và cả ở hải ngoại sau này. Riêng cuốn Mùa Hè Đỏ Lửa được tái bản tới lần thứ 30 do nhiều nhà xuất bản khác nhau (sđd, tr. 440). Sau này ở Hoa Kỳ ông còn viết và xuất bản thêm 6 tác phẩm mới. Ngoài ra, tác phẩm của ông cũng được dịch sang tiếng Pháp (Dấu Binh Lửa, Mùa Hè Đỏ Lửa) và tiếng Anh (Những Chuyện Cần Được Kể Lại, Tù Binh và Hòa Bình…)
  2. Nhà văn John Steinbeck, tiếp theo sau Ernest Hemingway 1954, là nhà văn Mỹ thứ 6 được giải Nobel Văn chương 1962 cho toàn sự nghiệp “do những trang sách viết trộn lẫn hiện thực và tưởng tượng, kết hợp sự u mặc tinh tế và ý thức xã hội sắc bén … Các nhân vật của ông đều là nạn nhân của lịch sử, của thời kỳ suy thoái” (sđd, tr. 473). Steinbeck được xem như phe “diều hâu” công khai ủng hộ sự tham chiến của quân đội Mỹ ở Việt Nam mà ông coi đó một cuộc dấn thân anh hùng (sđd, tr. 477). Ông “đã đi khắp miền Nam Việt Nam, trong vòng sáu tuần lễ [từ tháng 12.1966 tới đầu năm 1967] … được bảo vệ an toàn, làm sao John Steinbeck hiểu được rằng: quân cộng sản Bắc Việt lúc ấy cũng đã được trang bị với những vũ khí tối tân nhất của Liên Xô và Trung Quốc, và ngay ở lãnh thổ miền Bắc lúc đó đã có hàng sư đoàn quân chí nguyện Trung Quốc giả dạng quân Bắc Việt với những dàn hỏa tiễn phòng không tối tân sẵn sàng nghênh chiến với hàng đoàn phản lực cơ Thần Sấm từ Hạm đội 7 bay vào oanh tạc miền Bắc” (sđd, tr. 476) được tiết lộ từ hai cuốn sách do chính Lý Tiểu Bình viết, The Dragon in the Jungle: The Chinese Army in the Vietnam War (xuất bản 2020) và History of the Modern Chinese Army (xuất bản 2007).

Phần phụ lục tác giả giới thiệu Con Đường Sách Saigon, “hình ảnh một mini-đường sách Lê Lợi của hơn 40 năm trước” (sđd, tr. 493), một địa điểm sinh hoạt văn hóa lý tưởng hiện nay, nên được các tác giả sống ở trong lẫn ngoài nước chọn làm nơi ra mắt sách. Cũng là nơi độc giả có thể tìm mua những cuốn sách cũ “tàn dư Mỹ Ngụy” rất quý hiếm còn sót lại.

Trong từng chương, tác giả đã giới thiệu, trình bày rất cặn kẽ để độc giả có thể nắm bắt và hiểu thêm hơn sự kiện. Chẳng hạn ở chương Bác sĩ Nguyễn Tường Bách, khi nói đến cái chết rất đột ngột của Hoàng Đạo, bà Hứa Bảo Liên, khi đó là em dâu, đã phải chạy vạy sang Quảng Châu vay bạn 500 đồng HK để có tiền chôn cất cho anh chồng. Ngô Thế Vinh đã soi sáng trường hợp Nhất Linh bị Việt Minh bôi nhọ: “Cũng để thấy rằng, cả Hải ngoại vụ Việt Nam Quốc Dân Đảng nghèo và đời sống khắc khổ thiếu thốn như thế nào, trong khi đó thì Việt Minh vẫn rêu rao tung tin bôi nhọ Nguyễn Tường Tam đã biển thủ công quỹ, mang theo hai triệu đồng của Bộ Ngoại Giao khi chạy sang Trung Hoa” (sđd, tr. 50). Trong chương cuối, John Steinbeck, nhân nói đến việc Hồng quân Trung Cộng đã hiện diện tại miền Bắc từ thời Chiến tranh Việt Nam, tác giả lên tiếng: “Sự kiện lớn lao và quan trọng như vậy mà trong bộ chính sử mới nhất của Hà Nội cho đến nay vẫn còn giấu giếm. Đó là trong cuộc chiến tranh để đối phó với Mỹ và miền Nam, giữa giai đoạn 1965 và 1970, thể theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông đã đưa sang miền Bắc VN 320.000 Hồng quân Trung Cộng. Tới 1968, Mao đưa thêm sang Lào 110.000 quân nữa (tổng cộng: 430.000 quân) (sđd, tr. 476). Việc này cũng từng được nhà văn Vũ Thư Hiên, con trai của cụ Vũ Đình Huỳnh nguyên Bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau làm Vụ trưởng Vụ Lễ Tân Bộ Ngoại Giao Hà Nội, tiết lộ trong hồi ký “Đêm Giữa Ban Ngày” “… Chính Lê Duẩn là người chủ trương mời quân đội Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam để trấn giữ hộ miền Bắc trong khi toàn bộ quân đội miền Bắc được đưa vào chiến trường miền Nam… Trong công tác phóng viên tôi đến Khu tự trị Việt  Bắc và khu mỏ Hồng Quảng nhiều lần. Trở về tôi kể lại cho cha tôi những gì tôi thấy. Nghe chuyện dân vùng núi Việt Bắc không được phép kiếm củi ngay trong những khu rừng quê hương họ nay đã trở thành khu vực đóng quân của Trung Quốc, chuyện những thợ mỏ muốn đi tắt đến nơi làm việc qua phần đất đã được giao cho Trung Quốc cũng không được, họ bị bộ đội Trung Quốc xua đuổi, ông rơm rớm  nước mắt…” [5]

Chương Giáo sư Hoàng Tiến Bảo thể hiện rất rõ tinh thần Tôn Sư Trọng Đạo của môn sinh Y khoa Đại học đường Saigon. Về phần Thầy Bảo thì lúc nào cũng hết lòng, rất thương và lo cho học trò. “Có lần đã sắp tới ngày thi FLEX của Thầy, nhưng Thầy không quá quan tâm, vẫn dẫn một phái đoàn lên gặp Medical Board trên Sacramento, tranh đấu cho đám sinh viên ra trường sau 1975 được công nhận là tương đương và được quyền thi cử để trở lại y nghiệp. Một lần khác, Thầy xin nghỉ hẳn một ngày ở USC, và tôi được biết Thầy đã đi bus lên Pomona, để gặp và khuyên một môn sinh đừng bỏ học” (sđd, tr. 84). Thầy cũng tổ chức nhóm học thi để giúp các môn sinh chậm đến Mỹ lấy được bằng hành nghề. “Với uy tín sẵn có, Thầy dễ dàng mời các bác sĩ đã thành đạt trong dòng chính/ mainstream, đang hành nghề và cả giảng dạy, … đến từ các chuyên khoa khác nhau, chia sẻ những kinh nghiệm lâm sàng và thi cử: như GS Vũ Quí Đài, Phùng Mạnh Lành, Bạch Thế Thức, Quỳnh Kiều, Phạm Văn Hạnh, Phùng Gia Thanh, Trà Mi… (sđd, tr. 86-87). Khi Thầy bị bệnh phải mổ thì học trò lo cho Thầy từ đầu đến cuối. “Bạch Thế Thức thu xếp cho Thầy được gặp bác sĩ Minh Lu Huang, là một trong 8 bác sĩ giải phẫu cardiothoracic giỏi nhất trong vùng… Thầy không phải nhập viện sớm, do mọi chuyện Pre-op Thức đều lo cho Thầy. Thầy còn một mối lo khác, khi mổ cần truyền máu nếu lấy từ blood bank, thì cái risk AIDS và Hepatitis tuy ít nhưng vẫn có. Rất may, Bạch Thế Thức thuộc nhóm máu O – universal donor, Thức đã tình nguyện hiến máu trước cho Thầy khi cần” (sđd, tr. 92). Thật cảm động biết bao!

Ở chương Giáo sư Trần Ngọc Ninh, Ngô Thế Vinh nhắc lại những chuyện bên lề về ‘Bài giảng cuối cùng” của thầy Ninh (sđd, tr. 151) hoặc chuyện “Gs Phạm Biểu Tâm, từng là Khoa Trưởng Đại học Y khoa Saigon, phải lau chùi cầu tiêu bị té ngã bầm dập ở bệnh viện Bình Dân” … Hay  trong “những buổi hội chẩn hay giao ban cùng với các ông y sĩ cách mạng phần đông chưa qua hết bậc trung học “chỉ có hồng mà không chuyên” nhưng rất huênh hoang từ ngoài Bắc vào hay từ trong rừng ra. Điển hình là trong một buổi sáng giao ban tại bệnh viện Bình Dân sau 1975, bác sĩ Lê Quang Dũng báo cáo về một trường hợp mổ áp xe vú, thì bị một bác sĩ quân quản Việt cộng vặn hỏi: “Tại sao anh lại cho mổ áp xe vú?” Bs Dũng đáp: “Tại vì áp xe vú có mủ nên phải mổ dẫn lưu.” Dũng đã bị họ mắng: “Anh dốt quá, ở chiến khu tôi nhai lá sống đời xong rồi đắp lên vú thì 5 phút sau áp xe biến mất, không phải mổ gì cả.”” (sđd, tr. 166-167). Những chuyện đau lòng và ngán ngẩm đó đã là nguyên nhân chính khiến những nhân sĩ trí thức cũ phải lưu vong mặc dù họ đã ở lại quê hương vào thời điểm cuối cùng của chế độ VNCH.

Độc giả cũng sẽ xót thương, phẫn nộ trong chương Tạ Tỵ, khi tác giả đã nhắc đến: “Cùng với bao nhiêu đồng đội và thế hệ văn nghệ sĩ miền Nam, anh đã bị đày ải trong những nhà tù từ Nam ra Bắc… nhưng may mắn sống sót, trong khi đó nhiều đồng đội cùng với các nhà văn nhà báo miền Nam bạn anh thì đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường… hay vừa ra khỏi nhà tù thì chết như Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường” (sđd, tr. 117). Bởi vậy, “Nói tới Văn Học Miền Nam, không thể không có một “cuốn sách trắng / livre blanc” về thời kỳ đó, một Wikipedia mở, như một “bộ nhớ” cho các thế hệ Việt Nam tương lai” (sđd, tr. 419). Hay khi nói về hai cuốn sách của Trần Hoài Thư, tác giả đã đặt câu hỏi: “Cả hai cuốn sách trên đã được quảng cáo trên báo chí nhưng không bao giờ được ra mắt. Đó là những tác phẩm bị thất lạc, thêm vào những tổn thất trong chiến tranh, vĩnh viễn đi vào sự quên lãng. Những tổn thất nhân mạng trong chiến tranh đã được thống kê và nói tới. Thế còn những tổn thất trong văn học, liệu đây có phải là phần trách nhiệm của các sử gia?” (sđd, tr. 422).

Và có nên thêm ở đây những tác phẩm đã bị phần thư tuyệt bản, những tranh tượng nghệ thuật sáng tác trước 1975 bị phá bỏ hoặc mất tích? Chưa kể đến khả năng sáng tạo ở thời kỳ sung mãn nhất của văn nghệ sĩ bị mai một, tàn lụi sau thời gian dài trong trại cải tạo của CS. Khi ra ngoài, tài năng đó cũng không được sử dụng. Như trường hợp Điêu khắc gia Mai Chửng, sau 1975, đã hai lần đoạt giải mẫu Tượng Đài Chiến Thắng của Hội Mỹ Thuật Thành Phố Sài Gòn đánh bạt cả những điêu khắc gia tăm tiếng miền Bắc cùng tham dự, nhưng cuối cùng mẫu này vẫn không được thực hiện vì anh đã từng là một người “Lính Ngụy”! Nhà phê bình nghệ thuật Huỳnh Hữu Ủy kể lại: “Tôi còn nhớ chính Mai Chửng quay bàn xoay để tôi nhìn mẫu hình pho tượng. Pho tượng rất đơn giản mà cực kỳ quyến rũ… Dù mới chỉ là một mô hình phác thảo, cũng đã cho thấy một không khí rất vĩ đại và tráng lệ… Một người phụ nữ với chiếc khăn quàng cổ tung bay, mái tóc tung bay, khẩu súng trường nắm trong tay phải được giương cao, người phụ nữ ấy đứng thẳng trên mình con chim vươn mình sải cánh trải dài. Hình tượng con chim, rõ ràng là Mai Chửng đã dựa vào nét cách điệu trừu tượng con chim Lạc trên các trống đồng cổ của nền văn minh Đông Sơn, điển hình nhất là những con chim Lạc bay ngược chiều kim đồng hồ trên trống đồng Ngọc Lũ. Dựa vào hình ảnh con chim Lạc ấy, nhưng Mai Chửng đã biến đổi đi, nên con chim sải cánh rất thực, chứ không phải chỉ là một đường lượn gợi ý, và người phụ nữ đứng trên mình con chim thì chỉ là một thành phần nhỏ của pho tượng, với tỉ lệ có lẽ chỉ khoảng chừng 1/10 của pho tượng. Mới chỉ là một đồ án phác thảo, đặt trên một mặt bàn với đường kính chừng hai thước, đã làm cho người xem ngây ngất vì một hấp lực thơ mộng, hoành tráng, và rất hiện đại”. Vẫn với những dòng chữ đanh thép, trong sự tiếc nuối, Huỳnh Hữu Ủy tiếp: “Định kiến chính trị và sự thù hằn giới tuyến đã làm đất nước mất đi một công trình nghệ thuật lớn. Nếu tượng đài này được dựng lên thì Việt Nam đã có một tượng đài chiến thắng có thể đủ lời lẽ để nói chuyện với thế giới, có thể đặt ngang với những tượng đài chiến thắng khắp nơi trên hành tinh, hòa nhập vào đời sống hiện đại mà vẫn là độc sáng của một nền văn hóa riêng biệt, với một ngôn ngữ và tâm hồn riêng bắt nguồn từ một quá khứ xa thẳm” (sđd, tr. 387-388).

Và còn nhiều nữa. Ở mỗi chương, Ngô Thế Vinh như vắt cạn tâm tư mình chia sẻ để mọi người nhìn thấy cảnh quan rồi tùy công tâm mà nhận xét hay tìm ra hướng đi cho chính mình. Cuốn sách có thể dùng làm tài liệu tham khảo, vì như ông đã có lần chia sẻ “bài viết có thể thiếu nhưng phần tư liệu thì cần chính xác và không thể sai”. [2]

Nhớ xưa vua Tự Đức (1829-1883) trong bài thơ chữ Hán “Quan Châm” (Khuyên kẻ làm quan) đã viết: Di tử hoàng kim mãn doanh bất như nhất kinh [Để lại cho con vàng đầy rương không bằng (để lại cho con) một quyển sách] [6]. Riêng nhà văn Ngô Thế Vinh, từ hơn hai năm nay ông liên tiếp cho ra ba tác phẩm song ngữ, Mặt Trận Ở Sài Gòn (Văn Học Press & Việt Ecology Press 2020), Vòng Đai Xanh (Văn Học Press & Việt Ecology Press 2020) và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch (Việt Ecology Press 2021), hướng tới những thế hệ tương lai, chia sẻ những mối quan tâm, những trải nghiệm, cùng những thông điệp dấn thân, hy sinh, quên mình vì lợi ích của dân tộc như những thế hệ cha ông mà không nghĩ đến lợi ích riêng tư cho cá nhân hoặc gia đình của chính mình. Vì với ông, “Lớp Người Trẻ, như lực lượng tiên phong sẽ nhận lãnh trách nhiệm bảo vệ các hệ thống giá trị vĩnh hằng, những chuẩn mực về quyền của con người – mà bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền vẫn mãi là một thông điệp sống động khẳng định quyền người dân được sống trong tự do với đầy đủ phẩm giá và nhân cách” (sđd, tr. 350).

Điều này cũng được ông tiếp tục thể hiện trong Tuyển Tập Chân Dung II VHNT & VH. Ông đã giới thiệu nhân vật chính cùng hoàn cảnh xã hội, văn hóa, chính trị, đan xen những dật sự, nếu có, trong thời đại của họ, nhờ đó bài viết thêm sinh động và những độc giả trẻ thích thú hiểu được thêm về nhân vật cùng lúc mở rộng tầm nhìn hơn. Ngoài đời, nhà văn Ngô Thế Vinh có mối quan hệ khá thân thiết với những nhân vật được ông giới thiệu, cộng thêm thân nhân và bạn bè, nên phần tư liệu rất phong phú với những hình ảnh, thủ bút quý hiếm.

Cuộc đời con người theo quy luật sinh, trụ, dị, diệt. “Với đời người như một cơn gió thoảng, với lịch sử chỉ là một chớp mắt, nhưng lại là một chặng đường rất dài trải nghiệm những tang thương. Thêm một chớp mắt nữa, thế hệ những người cầm bút 1954-1975 đều trở về với cát bụi” (sđd, tr. 419). Nơi đây xin được cảm tạ Nhà văn Ngô Thế Vinh đã giữ lại cho thế hệ sau những chân dung văn học nghệ thuật và văn hóa của miền Nam một thời vàng son lừng lẫy. Một cuốn sách rất nên được lưu giữ trong tủ sách của mỗi gia đình Việt Nam.

_________

Tham khảo:

[1] Tạ Tỵ – Ngô Thế Vinh: Mặt Trận Ở Sài Gòn (Sách song ngữ – Văn Học Press & Việt Ecology Press – 2020), Lời Bạt – tr. 156

[2] Ngô Thế Vinh – Trả lời ba câu hỏi của Phùng Nguyễn:

https://www.diendantheky.net/2017/04/ngo-vinh-tra-loi-ba-cau-hoi-cua-phung.html

[3] Tạ Tỵ – Đáy Địa Ngục.

[4] “Tôi muốn ngồi trên cây tràm như một con vượn người.” – Trần Hoài Thư – Cảm tạ văn chương.

[5] Vũ Thư Hiên – Đêm Giữa Ban Ngày

[6] Bài thơ này được ban tặng cho ông Trần Hưng Nhượng, nguyên Lang trung tại bộ Hộ, đảm nhận nhiệm vụ Thanh sứ tại Ty Thanh Lại Nam Kỳ (sứ thần thừa lệnh nhà vua đi thanh tra để giữ sự thanh liêm cho quan lại các tỉnh phía nam Kinh thành). Theo Phú Bình – Hai bài ngự chế của vua Tự Đức, báo Quảng Nam online:

https://baoquangnam.vn/van-hoa-van-nghe/hai-bai-ngu-che-cua-vua-tu-duc-261.html

Sách đã được Việt Ecology Press phát hành tháng 2/2022
ISBN # 9781990434181
www.amazon.com, các hiệu sách
P.O. Box 3893, Seal Beach, CA 90740

Ghi thêm: Nếu đang ở tại Hoa Kỳ, bạn có thể đặt mua bộ sách này qua Barnes and Noble, bìa cứng in màu với giá rất đặc biệt.

Tuyển Tập Chân Dung I

Tuyển Tập Chân Dung II

Đọc sách “Tháng Ngày Qua” của Nguyễn Tường Nhung

Trần Thị Nguyệt Mai

26-1-2022

Ảnh bìa sách “Tháng ngày qua” của Nguyễn Tường Nhung

Điểm sách: Không gì là không thể: Hoa Kỳ hòa giải với Việt Nam

Asia Sentinel

Tác giả: David Brown

Song Phan, dịch

14-8-2021

Ảnh bìa sách và tác giả Ted Osius

Tác giả sách: Ted Osius, do Nhà xuất bản Rutgers University Press, Chicago, phát hành, bìa cứng và sách đọc, 332 trang với ghi chú và thư mục, giá $29,95 Mỹ kim. Phát hành ngày 15/10/2021

Đừng “ru ngủ” người dân khi “lửa đang cháy dưới đống củi”

Huy Đức

10-8-2021

Tối qua, trong khi cô phát thanh viên xinh đẹp vừa mỉm cười vừa đọc bản tin đầy lạc quan này, cổng thông tin của Bộ Y Tế ghi nhận 360 ca TỬ VONG TRONG MỘT NGÀY, trong đó, Sài Gòn chiếm 269 ca.

Giới thiệu sách: Mekong, dòng sông nghẽn mạch

GS Võ Tòng  Xuân

3-6-2021

MEKONG DÒNG SÔNG NGHẼN MẠCH – Mekong The Occluding River, A travelogue, bản song ngữ: Tiếng Việt – Tiếng Anh

Tặng phần mềm hai cuốn sách

Nguyễn Đình Cống

13-5-2021

Vừa qua tân Thủ tướng Chính phủ phổ biến cho các Bộ trưởng ý kiến tăng cường nghe phản biện. Muốn được vậy cần có nhiều người biết phản biện để trình bày với các Bộ trưởng.

Giới thiệu sách: “Nước Mỹ nơi tôi đang sống”, của Lê Thanh Hoàng Dân

Lê Thanh Hoàng Dân

6-4-2021

Mỗi năm tháng Tư trở về, tôi buồn cho quê hương đất nước. Tôi cũng buồn cho riêng mình, và gia đình nhỏ bé của mình.

Vòng đai xanh – Một cái chết được báo trước

Hoàng Ngọc Nguyên

2-3-2021

Ảnh bìa sách “Vòng đai xanh” của tác giả Ngô Thế Vinh

“Vòng Đai Xanh” của Ngô Thế Vinh được xem là một tiểu thuyết chiến tranh, được viết rất thực bởi một quân y sĩ xông pha ngoài trận tuyến.

Cuộc chiến tự vệ của người dân Miền Nam chống xâm lược của Cộng Sản Miền Bắc kéo dài đến 15 năm (1960-75), nếu không nói đến hoạt động khủng bố, phá hoại 2-3 năm trước khi chiến tranh chính thức khai mào, cho nên chúng ta không thiếu những tác giả viết về cuộc chiến đó, cảm khái từ những mất mát, đổ vỡ, tan hoang của con người, của tuổi trẻ, của gia đình, của xã hội, của đất nước vì chiến tranh. Không thiếu, nhưng chắc không thừa, không đủ khi nhìn đến “quy mô” của cuộc chiến, chiều dài của nó về thời gian và không gian, cùng với những biến chuyển phức tạp qua các thời kỳ.

Điểm sách: Vòng Đai Xanh – The Green Belt

7-1-2021

GS Gerald C. Hickey, cựu Giáo sư Nhân chủng Đại học Yale và Cornell, tác giả “Free in the Forest, Ethnohistory of the Vietnamese Central Highlands 1954-1976″, viết: “Tôi đọc Vòng Đai Xanh với nhiều quan tâm. Cuốn sách đã gợi lại ký ức về Cao nguyên vào những năm 1960s và cả những biến cố liên quan tới Phật giáo và sinh viên cũng trong giai đoạn bất an đó.

Giới thiệu về hồi ký tổng thống Barack Obama

Nhã Duy

16-11-2020

Lời người dịch: Hồi ký “A Promised Land” (Một Miền Đất Hứa) của tổng thống Barack Obama sẽ phát hành vào ngày 17/11/2020. Theo lời giới thiệu từ Amazon, đây là cuốn sách rất gần gũi và đầy nội tâm, là câu chuyện về sự đánh cược của một người với lịch sử, niềm tin của một nhà hoạt động cộng đồng đã được thử nghiệm trên chính trường thế giới.

Mặt Trận Ở Sài Gòn – The Battle of Saigon

9-8-2020

LTS: Cuốn sách Mặt Trận Ở Sài Gòn của nhà văn Ngô Thế Vinh, được nhà xuất bản Văn Nghệ xuất bản năm 1996, sẽ được xuất bản bằng song ngữ Việt – Anh trong trong tháng 8/2020: “The Battle of Saigon – Bilingual Short Story Collection” do Văn Học Press & Việt Ecology Press xuất bản, nhằm phục vụ độc giả 2 thế hệ, ưu tiên thế hệ thứ 2 không rành tiếng Việt và cả độc giả thế giới chỉ đọc tiếng Anh.

“Người cộng sản” Ngô Đình Nhu…

Nghiên cứu Việt-Mỹ

8-8-2020

Điểm sách: Nguyễn Lập Duy, “Cộng đồng không tưởng tượng: Chủ nghĩa đế quốc và văn hóa ở miền Nam Việt Nam”, Manchester: Nhà xuất bản Đại học Manchester, 2020. 280 trang, ISBN 976-1-5261-4394-9.

Nghiệm lại 6 lời khuyên của GS John Vu về đại dịch nhân quả

Nguyễn Văn Phước

26-7-2020

Cách đây nhiều tháng, đầu năm 2020, sau khi hoàn tất bản thảo “Muôn Kiếp Nhân Sinh”, GS John Vu – Nguyên Phong đã rất quan tâm và dặn dò kỹ đội ngũ First News – Trí Việt, và không chỉ dặn một lần. Qua nhiều năm trao đổi khá sâu, tôi thật sự kinh ngạc và thán phục sự hiểu biết và khả năng tiên tri, nhìn trước mọi việc trên thế giới của Giáo sư, cứ như GS là một vị nào đó trong thần thoại được cử xuống trần gian này.

Điểm sách: Tư bản và Ý thức hệ của Thomas Piketty

Đỗ Kim Thêm

6-7-2020

Ảnh bìa sách: Tư bản và Ý thức hệ của Thomas Piketty

Tác phẩm

Thomas Piketty, nhà kinh tế học Pháp, vừa cho ra mắt tác phẩm “Capital and Ideology (Tư bản và Ý thức hệ). Qua tác phẩm mới nhất này, Piketty báo động về tình trạng bất bình đẳng tài sản trong toàn cầu hiện nay và đề ra việc cải cách về thuế tài sản, thu nhập và hợp tác quốc tế là một đối sách. Trên cơ sở tái tạo công bình xã hội, Piketty hy vọng, chủ nghĩa xã hội sẽ mang lại ý nghĩa đóng góp tích cực hơn cho việc xây dựng tương lai.

Tác giả

Điểm sách: Trật tự Thế giới của Henry Kissinger

Đỗ Kim Thêm

25-5-2020

Chúng ta đang sống trong một thế giới hỗn loạn và không có đối sách. Với cuốn sách World Order, Henry Kissinger đã thảo luận về những vấn đề trật tự cơ bản cần giải quyết, đó là ngăn chặn xung đột mà tất cả các nước đồng ý thực hiện, ngõ hầu mang lại hòa bình cho thế giới.

Người giải phẫu chế độ Trung Quốc

Tạ Duy Anh

15-3-2020

Lưu Hiểu Ba là cái tên vẫn còn khá xa lạ với phần lớn người dân Việt Nam. Đơn giản vì tên của ông không được nhắc đến, hoặc nhắc đến rất ít trên hệ thống báo chí, truyền thông chính thống luôn tuân thủ nghiêm ngặt định hướng của cấp trên.

Điểm sách: Becoming của cựu Đệ nhất Phu nhân Michelle Obama (Phần 3)

Vũ Kim Hạnh

14-8-2019

Tiếp theo Phần 1: Đọc Becoming – “Chất Michelle”, hiểu thêm xã hội và con người Mỹ — Phần 2: Tranh cử – Cuộc chiến khốc liệt — Phần 3: Vườn rau trong Nhà trắng và cái choàng vai của Nữ hoàng Anh

Michelle bắt đầu làm Đệ nhất phu nhân như thế nào? Tuy phải sống trong môi trường mới, Michelle cùng bọn trẻ phải thích nghi nhanh, bà không khó khăn để tạo sự gần gũi thân mật, bảo đảm sự chân thành và tôn trọng các cộng sự và nhân viên phục vụ. Thực tâm, bà không muốn mình trở thành món trang trí đỏm dáng trong các bữa tiệc hay lễ lạc ở Nhà trắng. Các con bà phải tự dọn phòng mỗi sáng, không nhờ vã hay yêu cầu bất cứ việc gì trừ những việc chúng không tự làm được.

Điểm sách: Becoming của cựu Đệ nhất Phu nhân Michelle Obama (Phần 1)

Vũ Kim Hạnh

11-8-2019

Đọc Becoming – “Chất Michelle”, hiểu thêm xã hội và con người Mỹ

Bạn thân mến,

Dù đang nín thở theo dõi liệu Việt Nam có được Trump chọn làm “đối tượng” thứ 2 của cuộc thương chiến, sau Trung Quốc, nhưng tôi cũng thấy cuốn sách mới do Michelle Obama viết, kể chuyện đời mình, “Becoming”, là rất đáng bỏ thời gian đọc. Và cuối tuần, chắc các bạn có thời gian hơn để bắt đầu theo dõi bài điểm cuốn hồi ký này do ông bạn cùng nhà, nhà báo Nguyễn Kiến Phước viết.

Điểm sách: Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn – Người Đi Tìm Mùa Xuân

Phạm Hồng Sơn

8-7-2019

Ảnh bìa sách: “Y Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn – Người Đi Tìm Mùa Xuân”

Đọc xong cuốn sách về một con người đã chết cách đây hơn nửa thế kỷ khi còn đương xuân, đương ở những năm tháng tiềm năng nhất về sức lực và trí lực, tự tôi dằn lòng nở một nụ cười lớn hạnh phúc cho riêng tôi.

Điểm sách “Lên tiếng ở Việt Nam” (Speaking Out in Vietnam’)

Tác giả: David Brown

Dịch giả: Song Phan

24-6-2019

Bìa sách “Lên tiếng ở Việt Nam” của GSTS Ben Kerkvliet mới xuất bản