Nguyễn Đình Cống
18-4-2024
Đó là việc bà Bùi Trân Phượng có ý bao che cho những người phải chịu trách nhiệm chính về sự lạc lối, sự suy thoái của nền giáo dục Việt Nam.
Nguyễn Đình Cống
18-4-2024
Đó là việc bà Bùi Trân Phượng có ý bao che cho những người phải chịu trách nhiệm chính về sự lạc lối, sự suy thoái của nền giáo dục Việt Nam.
Lê Văn Đoành
16-4-2024
Mặc dù Võ Văn Thưởng đã bị loại khỏi vị trí A2, nhưng chính trường Việt Nam xem ra vẫn chưa hạ nhiệt. Những cuộc so găng tranh giành vị trí chóp bu trong đảng Cộng sản Việt Nam từ bây giờ cho tới Đại hội 14, dự kiến sẽ diễn ra đầu năm 2026, vẫn tiếp tục gay cấn, đầy kịch tính và hấp dẫn cho đến phút cuối.
Nhã Duy
11-4-2024
Hôm nay, tại tòa liên bang khu vực DC, thẩm phán Tanya S. Chutkan đã tuyên án Antony Võ 9 tháng tù giam, 12 tháng quản thúc sau hạn tù và 1.000 đô la tiền phạt.
Đỗ Thành Nhân
10-4-2024
Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam hiện nay là 73,7 (1) và tăng hàng năm. Như vậy, nếu không có điều gì xảy ra bất thường thì ông Võ Văn Thưởng sẽ còn sống ít nhất cũng được 20 năm nữa.
Tác giả: Joseph S. Nye, Jr.
Đỗ Kim Thêm dịch
8-4-2024
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình.
Hubertus Volmer phỏng vấn đại tá Reisner
Vũ Ngọc Chi chuyển ngữ
8-4-2024
Đại tá Markus Reisner cho biết trong nhận định hàng tuần về tình hình ở tiền tuyến: Một cuộc chiến tranh tiêu hao như ở Ukraine “tuân theo các quy tắc riêng và được quyết định chủ yếu bởi việc sử dụng tài nguyên chứ không phải bởi chất lượng của hệ thống vũ khí hay tinh thần của binh lính”. Điển hình của loại chiến tranh này là: “Chúng thường có vẻ rất tĩnh, nhưng trên thực tế, bộ đếm nguồn lực của cả hai bên đang chạy ngầm đằng sau, cho thấy chúng đang giảm dần cho đến khi bộ đếm của một bên chỉ số 0”.
NTV: Mặt trận Ukraine mấy ngày qua có diễn biến gì bất ngờ không?
Markus Reisner: Về mặt chiến thuật, kỹ thuật chiến đấu, chúng tôi thấy rằng người Nga tiếp tục cố gắng đạt được kết quả vào cuối cuộc tấn công mùa đông thứ hai của họ. Họ làm điều này bằng cách tấn công ồ ạt vào các nơi khác nhau trên mặt trận.
Ukraine luôn tìm cách đẩy lùi các cuộc tấn công này, đôi khi đạt được thành công ngoạn mục về mặt số lượng bắn hạ. Nhưng chúng cũng cho thấy người Nga tin tưởng rằng họ vẫn có thể đạt được điều gì đó.
Giao tranh diễn ra căng thẳng nhất trong những ngày gần đây, đặc biệt là ở phía nam Kupyansk. Tại đây, Ukraine đã đẩy lùi một cuộc tấn công của Nga gần thị trấn Terny.
NTV: Việc bắn hạ thành công của Ukraine cho thấy ý định gì của quân Nga?
Markus Reisner: Những thành công trong phòng thủ của Ukraine cho thấy, họ vẫn có khả năng tự vệ trong khu vực. Nhưng số lượng xe của Nga bị bắn hạ cũng cho thấy quân Nga thật ra đã có âm mưu gì đó ở đây. Họ muốn đột nhập vào ít nhất tuyến phòng thủ thứ hai của Ukraine: Phía tây Bakhmut ở Chasiv Yar, phía tây Avdiivka gần Orlivka, nơi đặt vị trí phòng thủ của Ukraine, và ở Terny phía tây Kreminna. Từ đó, quân Nga muốn tiến về sông Oskil.
NTV: Ukraine có nhân lực và vật lực để đẩy lùi cuộc tấn công của Nga không?
Markus Reisner: Về mặt hoạt động, Ukraine đang cố gắng đào tạo binh lính dự bị. Ở đây vẫn chưa có quyết định cuối cùng, ngoài việc hạ độ tuổi tuyển quân từ 27 xuống 25; một số trường hợp, từ 17 tuổi có thể tham gia tình nguyện. Tư lệnh quân đội Olexander Syrskyj đã nói rõ rằng, theo quan điểm của ông, con số luân chuyển 500.000 binh sĩ mới vào lúc này là không cần thiết, mặc dù các nhà quan sát quốc tế cho rằng điều này là cần thiết. Syrskyj nói, hiện đang có một nỗ lực nhằm chuyển lực lượng từ các đơn vị sâu trong lãnh thổ ra mặt trận.
Đối với tôi, một vấn đề lớn hơn có vẻ là thiết bị. Năm ngoái, Ukraine thành lập cái gọi là lữ đoàn tấn công để chuẩn bị cho cuộc tấn công mùa hè – tổng cộng có 12 lữ đoàn, 9 trong số đó được phương Tây trang bị vào thời điểm đó. Các lữ đoàn này được sử dụng trong cuộc tấn công mùa hè thất bại và bị hao mòn đáng kể trong quá trình này. Hiện Ukraine đang cố gắng thành lập các lữ đoàn mới, gồm lữ đoàn từ 150 đến 154.
Tuần trước, quân đội Ukraine đã phải thừa nhận, họ không có đủ trang thiết bị để biến các lữ đoàn này thành lữ đoàn cơ giới hóa, tức là trang bị cho họ xe tăng chiến đấu chủ lực và xe chiến đấu bộ binh. Giờ đây sẽ là các lữ đoàn bộ binh – về cơ bản là bộ binh được cơ giới hóa. Điều này cho thấy sự thiếu hụt đến mức nào, đặc biệt là với các thiết bị hạng nặng. Không phải tất cả những gì phương Tây hứa hẹn đều đã được thực hiện – Đó là về mặt hoạt động.
NTV: Và về mặt chiến lược?
Markus Reisner: Mặt chiến lược được xác định bởi các cuộc không kích của Nga. Trọng tâm các cuộc không kích của Nga là vào Kharkiv, nhưng một số thành phố ở phía Tây và dọc theo sông Dnipro cũng bị ảnh hưởng. Nga đang cố gắng phá hủy hơn nữa cơ sở hạ tầng quan trọng và tấn công vào các cơ sở sản xuất, nơi sản xuất máy bay không người lái mà Ukraine đang cố gắng sử dụng để xâm nhập sâu vào Nga.
Trong những ngày gần đây, Ukraine đã có các nỗ lực ngoạn mục nhằm tấn công vào các sân bay quân sự của Nga: Một mặt tại các căn cứ như Morozovsk ở phía đông Ukraine, nơi Nga đồn trú các máy bay chiến đấu Su-34 và Su-35; mặt khác, tại các căn cứ như Engels, trên sông Volga, cách Ukraine hàng trăm km, nơi máy bay ném bom chiến lược bị tấn công. Tuy nhiên, hình ảnh vệ tinh cho thấy, không có tổn thất lớn, đáng chú ý nào ở đó, mặc dù tình báo Ukraine nói hơi khác.
NTV: Kyrylo Budanov, người đứng đầu cơ quan tình báo quân sự Ukraine, cho biết trong một cuộc phỏng vấn với đài truyền hình Đức ARD vào cuối tuần, rằng Ukraine nghĩ sẽ có một cuộc tấn công mới của Nga vào mùa xuân hoặc mùa hè, đặc biệt ở Donbass. Tại sao ở đó?
Markus Reisner: Bởi vì người Nga đang tập hợp lực lượng đáng kể ở đây và họ chắc chắn sẽ có ý định chiếm hữu hoàn toàn các vùng mà họ cho rằng đó là lãnh thổ của Nga, tức là Luhansk, Donetsk, Zaporizhzhia và Kherson.
NTV: Theo ông thành phố Kharkiv đang gặp nguy hiểm đến mức nào?
Markus Reisner: Luôn có những ước tính rằng, người Nga có thể sẽ triển khai quân lớn hơn để tấn công Kharkiv. Nhưng để làm được điều này họ sẽ phải tập hợp lực lượng đông đảo ở đó. Ở thế kỷ 21, những chuyện như thế này không còn có thể giấu được nữa, và cho đến nay chúng tôi chưa nhìn thấy nó.
Tuy nhiên, những gì chúng tôi nhìn thấy là nỗ lực của Nga nhằm tăng áp lực đến mức làm cho người dân [Ukraine] không thể chịu đựng được bằng các cuộc không kích vào Kharkiv. Điều này dẫn đến một làn sóng người tị nạn: Thường dân rời bỏ thành phố vì phần lớn thành phố không có điện.
NTV: Trang tin Politico dẫn lời một sĩ quan Ukraine cách đây vài ngày, nói rằng “không gì có thể giúp Ukraine lúc này vì không có công nghệ thực sự nào có thể bù đắp cho Ukraine số lượng quân lớn mà Nga có thể sẽ gửi tới”.
Markus Reisner: Đây là một ví dụ khác về tình hình ngày càng bấp bênh ở Ukraine. Tất nhiên, các quan chức Ukraine đang phản đối điều này vì họ không muốn xuất hiện một diễn ngôn khiến cuộc chiến đấu của Ukraine có vẻ như vô ích. Nhưng trong bài viết này, các tướng lĩnh khác cũng không được nêu tên đang kêu gọi cần viện trợ tiếp thêm vũ khí, đạn dược từ phương Tây. Tổng thống Zelensky cũng cho rằng, nếu Ukraine không được cung cấp các nguồn lực cần thiết thì nước này sẽ phải rút lui. Hay Bộ trưởng Ngoại giao Kuleba, là người đã nói rất quyết liệt: “Hãy trao cho chúng tôi những tên lửa Patriots chết tiệt đó đi”. Tuyên bố của viên chức được Politico trích dẫn cũng đi theo hướng này.
Một cuộc chiến tiêu hao tuân theo những quy luật riêng của nó và được quyết định chủ yếu bởi việc sử dụng nguồn lực chứ không phải bởi chất lượng của hệ thống vũ khí hay tinh thần của binh lính. Và đây là việc Nga đã tích lũy được một khoản thặng dư vũ khí đáng kể trong vài tháng qua – về số lượng binh sĩ, cũng như về pháo binh, nơi mà tỷ lệ hiện nay là từ 1:6 cho đến 1:10.
NTV: Ông là nhà sử học và luôn nhấn mạnh rằng, những dự đoán có thể được đưa ra từ quá khứ. Ông nghĩ đến tình hình lịch sử nào trong các cuộc chiến trước đây khi xem xét tình hình hiện tại ở Ukraine?
Markus Reisner: Có vài ví dụ, đặc biệt là từ các cuộc chiến tranh tiêu hao. Tất nhiên, ở đây Chiến tranh thế giới thứ nhất luôn có ích, cho thấy một loạt trận chiến diễn ra dường như không có gì nổi bật trong một khoảng thời gian dài trước khi một bước ngoặt quyết định xảy ra.
Một ví dụ từ lịch sử Áo trong Thế chiến thứ nhất là trận chiến Isonzo. Đây là mười hai trận chiến giữa Áo và Ý, trong đó quân Ý liên tục tiến về phía trước một cách chậm chạp. Trong Trận Isonzo lần thứ mười hai, năm 1917, diễn biến này đã bị đảo ngược: Trong một cuộc tấn công được bắt đầu bằng khí độc, quân Áo với sự hỗ trợ của Đức đã đạt được bước đột phá và đẩy quân Ý ngược trở lại tới sông Piave. Mọi kết quả của những trận chiến trước đó đều bị vô hiệu hóa. Nhưng trong trận chiến Piave năm 1918, người Ý đã đẩy lùi quân Áo và cuối cùng đánh bại họ.
Đây là điển hình của các cuộc chiến tranh tiêu hao: Chúng thường có vẻ rất tĩnh tại, nhưng trên thực tế, nguồn lực của cả hai bên đều đang cạn kiệt. Cho đến khi một bên rơi xuống số 0 và nhường chỗ [cho bên kia] ở mặt trận.
NTV: Budanov cũng nói rõ rằng, Ukraine tiếp tục hy vọng có được tên lửa hành trình Taurus: “Taurus chắc chắn sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta dễ dàng hơn”. Cái gì có thể thay thế Taurus?
Markus Reisner: Một số hệ thống có thể được sử dụng thay thế, hầu hết trong số đó có thể được cung cấp bởi Hoa Kỳ. Có một hệ thống tên là JASSM (AGM-158B-2). Đáng chú ý, Ba Lan vừa nhận được cam kết từ Mỹ, cung cấp 800 tên lửa hành trình loại này. Đó sẽ là một hệ thống cũng sẽ được Ukraine quan tâm.
NTV: Nhưng họ không có được nó.
Markus Reisner: Kể từ khi bắt đầu chiến tranh, Ukraine đã phải chịu đựng việc phương Tây không “nhúng tay hoàn toàn vào”. Họ được cho từ hệ thống này đến hệ thống khác để người Nga có thể thích nghi và do đó hiệu ứng biến mất. Điều này có nghĩa là, Ukraine không thể cho phép các hệ thống vũ khí khác nhau hoạt động cùng nhau. Nếu các hệ thống khác nhau hoạt động cùng lúc, chúng sẽ có tác dụng hoàn toàn khác. Điều này cũng áp dụng cho F-16. Ukraine có thể sẽ cần những máy bay chiến đấu này khi bắt đầu cuộc tấn công vào năm ngoái. Bây giờ chúng tới quá muộn cho những nỗ lực tấn công này.
NTV: Budanov nói: “Tình hình khá khó khăn nhưng kiềm chế được”. Theo ông, đó có phải là mô tả chính xác?
Markus Reisner: Vâng, bạn có thể cho rằng điều đó đúng. Những cuộc tấn công vẫn đang bị đẩy lùi. Quân Nga mặc dù đang tiến chậm tới nhưng người Ukraine vẫn kiểm soát được tình hình. Nhưng đó chính là vấn đề của cuộc chiến tiêu hao: Nó có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Và nếu Ukraine không nhận được nguồn viện trợ cần thiết, nước này sẽ bị đánh bại.
Đỗ Thành Nhân
7-4-2024
Mừng sinh nhật Đoàn ở Quảng Ngãi năm nay
Dịp sinh nhật Đoàn ngày 26 tháng 3 vừa qua, các cháu thiếu nhi Trường Tiểu học Trần Hưng Đạo, thành phố Quảng Ngãi được tổ chức văn nghệ ca múa, chào mừng 93 năm ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Trương Nhân Tuấn
2-4-2024
Tiếp theo kỳ 1
Kỳ 2: Yếu tố tinh thần đấu tranh
Trong một cuộc chiến tranh, ở đâu cũng vậy, nếu một bên không nỗ lực hy sinh để bảo vệ đất nước, dân và quân không ý thức được ở đâu là quyền và lợi ích của họ trong công cuộc bảo vệ đất nước, chắc chắn bên đó sẽ thua trong cuộc chiến.
Trương Nhân Tuấn
1-4-2024
Kỳ 1: Yếu tố Phật giáo Trí Quang
Nhóm Phật giáo do Thích Trí Quang cầm đầu là tác nhân chính đưa đến cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 và hai anh em ông Diệm bị giết. Biến cố lịch sử này gây xáo trộn chính trị và xã hội miền Nam trong nhiều năm. Người Mỹ đổ bộ vô miền Nam trong lúc các tướng lãnh còn đang tranh giành quyền lực ở Sài gòn.
Đỗ Kim Thêm
27-3-2024
Bán đảo Crimea nằm ở khu vực Biển Đen, phía bắc nối liền với nội địa Ukraine; diện tích ước khoảng 26.844 km2; dân số khoảng 2,4 triệu người; riêng tại thủ đô Sewastopol hiện có hơn 386.000 sinh sống. Trong vài thế kỷ qua, nhiều đế chế khác nhau đưa ra yêu sách đòi chủ quyền lãnh thổ của bán đảo này.
Nguyễn Đình Cống
26-3-2024
Trong kỳ nghỉ tết vừa qua, tôi về quê và được một người cháu gọi bằng bác tới thăm. Anh là TS Nguyễn Đình Cả, nguyên là cán bộ giảng dạy môn chủ nghĩa Mác – Lênin (CNML) ở một trường đại học tại thành phố HCM, hiện anh đã nghỉ hưu.
Nông Văn Tiềm
25-3-2024
Kịch bản phù hợp nhất khi tướng Phan Văn Giang ngồi ghế Chủ tịch nước, thay Võ Văn Thưởng; Nguyễn Tân Cương nắm Bộ trưởng Quốc phòng thay Giang; Trần Cẩm Tú ngồi ghế bà Mai (nếu bà cáo quan, hồi hương). Bùi Thị Minh Hoài sẽ cầm trịch Uỷ ban Kiểm tra Trung ương. Lê Minh Khái sẽ nắm Trưởng Ban Kinh tế.
Ghế chủ tịch nước Cộng hoà XHCN Việt Nam hiện đang bị bỏ trống. Trong khi chờ Bộ Chính trị chuẩn thuận một nhân vật chính thức lên thay ông Võ Văn Thưởng, hiện bà Võ Thị Ánh Xuân đang ngồi tạm ghế này kể từ ngày 21-3-2024. Đây là lần thứ hai bà Xuân ngồi tạm ghế Chủ tịch nước, nhưng bà Xuân sẽ không bao giờ được ngồi ghế này chính thức, bởi bà không ở trong Bộ Chính trị.
Tác giả: Ian Storey
Đỗ Kim Thêm dịch
22-3-2024
Tiếp theo phần 1
Mối quan hệ quốc phòng Việt – Nga
Kể từ những ngày đầu của cuộc Chiến tranh Lạnh, hợp tác quốc phòng đã là một trụ cột chính trong các mối quan hệ Việt-Nga. Như ghi nhận trước đó, quân viện của Liên Xô (và Trung Quốc) cho Quân đội Nhân dân Việt Nam là công cụ trong việc Hà Nội đánh bại các quân đội Pháp và Mỹ. Cuộc chiến sau thời chiến tranh Lạnh, Việt Nam tiếp tục dựa vào Nga như là nguồn cung cấp chủ yếu về vũ khí. Từ năm 1995 đến năm 2015, Việt Nam đã mua vũ khí của Nga với trị giá 5,68 đô la Mỹ, tương đương với 90% mức nhập khẩu về quốc phòng của đất nước. Hầu hết vũ khí tồn kho của Quân đội Nhân dân Việt Nam hiện nay – bao gồm máy bay chiến đấu, xe tăng, tàu ngầm và tàu chiến trên mặt nước – đều là các thiết bị do Liên Xô và Nga sản xuất.
Việc Nga chiếm đóng Crimea năm 2014 là một bước ngoặt trong mối quan hệ quốc phòng Việt-Nga. Việt Nam trở nên lo ngại rằng các biện pháp trừng phạt và kiểm soát xuất khẩu của phương Tây nhắm vào lĩnh vực công nghiệp quốc phòng của Nga sẽ ảnh hưởng đến chất lượng hệ thống vũ khí của Nga và làm gián đoạn lịch trình giao hàng. Những lo ngại đó càng trở nên trầm trọng hơn nhiều kể từ khi cuộc chiến Nga-Ukraine bùng nổ và việc phương Tây thắt chặt các biện pháp trừng phạt đối với Nga.
Hơn nữa, màn trình diễn mờ nhạt của quân đội Nga ở Ukraine đã khiến cho giới lãnh đạo cấp cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam lo lắng. Nếu người Nga không thể đánh bại một kẻ thù yếu hơn, thì làm sao Quân đội Nhân dân Việt Nam do Nga trang bị và huấn luyện sẽ chống lại một đối thủ mạnh hơn nhiều như Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc? Điều này được chú ý gần đây nhất khi hai tàu tuần tra tên lửa lớp Taruntul của Hải quân Nga bị máy bay không người lái của Ukraine phá hủy hồi tháng 12/2023 và tháng 2/2024. Hải quân Việt Nam vận hành 12 tàu loại này.
Kể từ năm 2014, nhu cầu giảm sự phụ thuộc quân sự của Việt Nam vào Nga đã rõ ràng. Nhưng việc chuyển đổi từ một nhà cung cấp quan trọng về vũ khí là tốn kém và mất thời gian. Do đó, Việt Nam sẽ vẫn phụ thuộc vào lĩnh vực quốc phòng của Nga trong một hoặc hai thập niên nữa. Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam đã thực hiện một chiến lược ba hướng: Trang bị thêm, bản địa hóa và đa dạng hóa.
Mũi nhọn đầu tiên là trang bị thêm các thiết bị hiện có do Nga sản xuất để nâng cấp khả năng của họ với sự hỗ trợ từ các quốc gia khác mà nó vận hành số thiết bị của Liên Xô / Nga, bao gồm Ấn Độ và các thành viên thuộc Hiệp ước Warsaw cũ như Cộng hòa Séc.
Mũi nhọn thứ hai là hỗ trợ sự phát triển của một ngành công nghiệp quốc phòng bản địa để Việt Nam có thể giảm sự phụ thuộc vào các nước khác trong việc hỗ trợ trang bị thêm và mua sắm mới. Ngành công nghiệp quốc phòng non trẻ của Việt Nam, dẫn đầu bởi các doanh nghiệp quốc doanh như doanh nghiệp viễn thông Viettel, hiện nay đang sản xuất máy bay trinh sát không người lái, radar, các vũ khí nhẹ và tên lửa. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn cần nhiều thập niên nữa mới có thể tự cung ứng trong lĩnh vực quốc phòng.
Mũi nhọn thứ ba là mua phần cứng về quân sự từ các quốc gia khác ngoài Nga. Thực ra, Việt Nam đã bắt đầu chính sách tuần tự về việc đa dạng hóa vũ khí trước năm 2014, mua hàng từ Israel, Hàn Quốc, Pháp và Nhật Bản. Nhưng cuộc chiến Nga – Ukraine buộc Việt Nam phải đẩy nhanh chính sách này. Hà Nội có thể sẽ tăng cường mối quan hệ đối tác quốc phòng với Hàn Quốc và một số nước châu Âu, bao gồm Anh và Pháp. Mua vũ khí từ Hoa Kỳ, bao gồm cả chiến đấu cơ như F-16 đã qua sử dụng, vẫn là một khả năng, mặc dù một số trở ngại cản trở mối quan hệ quốc phòng gần gũi hơn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
Bất chấp những vấn đề mà ngành công nghiệp quốc phòng của Nga đối mặt, không thể loại trừ vai trò tiếp tục của ngành này trong các kế hoạch mua sắm quốc phòng của Việt Nam. Giới lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam đã trở nên thoải mái với mối quan hệ kéo dài hàng thập niên với Nga và ít tin tưởng vào các nước khác, đặc biệt là Mỹ, kẻ cựu thù. Hơn nữa, việc tích hợp các thiết bị không phải của Nga với kho hàng hiện có của Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ có vấn đề rắc rối. Tháng 9/2023, có thông tin cho rằng Việt Nam và Nga đã thỏa thuận một việc thương thảo về số vũ khí trị giá 8 tỷ đô la Mỹ, sử dụng lợi nhuận từ liên doanh năng lượng của họ ở Siberia. Tuy nhiên, vẫn còn phải xem liệu Việt Nam có tiếp tục thực hiện bất kỳ vụ thương vụ khổng lồ nào với Nga trong tương lai gần hay không.
Việt Nam và mối quan hệ Nga – Trung
Cuộc chiến Nga – Ukraine đã củng cố mối quan hệ chiến lược Trung – Nga. Moscow và Bắc Kinh chia sẻ các thế giới quan tương tự, đặc biệt là sự cần thiết phải chống lại bá quyền Mỹ. Không có lợi cho Trung Quốc trong việc Nga thua trận, cũng như các biện pháp trừng phạt của phương Tây thành công. Mặc dù Bắc Kinh không công khai ủng hộ sự gây hấn của Nga, nhưng họ đã bày tỏ sự đồng cảm với lý do Moscow phát động cuộc xâm lược, bỏ phiếu trắng tại Đại Hội Đồng LHQ khi lên án Moscow, tăng cường can dự kinh tế với Nga và cung cấp quân viện hạn chế. Tuy nhiên, cuộc chiến đã khuếch đại tình trạng bất cân xứng về quyền lực trong mối quan hệ Nga – Trung khi sự phụ thuộc về chính trị và kinh tế của Moscow vào Bắc Kinh ngày càng sâu đậm. Không có quốc gia nào khác ở Đông Nam Á bị ảnh hưởng bởi sự năng động này như Việt Nam. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với tranh chấp đang diễn ra của Việt Nam với Trung Quốc ở Biển Đông cũng như hợp tác quốc phòng với Nga.
Việt Nam lo ngại rằng, việc Nga phụ thuộc vào Trung Quốc ngày càng tăng, Bắc Kinh có thể sử dụng đòn bẩy với Moscow để làm suy yếu lợi ích của Việt Nam. Điều này bao gồm gia tăng áp lực cho Điện Kremlin rút các doanh nghiệp quốc doanh về năng lượng ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và ngừng bán vũ khí cho Quân đội Nhân dân Việt Nam …
Nga có cổ phần đáng kể trong lĩnh vực dầu khí của Việt Nam. Hai doanh nghiệp quốc doanh về năng lượng của Nga là Zarubezhneft và Gazprom, hiện đang tham gia vào các dự án khai thác và sản xuất trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý của Việt Nam. Vietsovpetro (VSP) – một liên doanh được thành lập bởi Zarubezhneft của Liên Xô và PetroVietnam, một doanh nghiệp quốc doanh của Việt Nam vào năm 1982 – có các dự án khoan tại năm mỏ dầu khí ngoài khơi Việt Nam.
Theo Vietsovpetro, tính đến cuối năm 2017, doanh nghiệp này đã sản xuất được 228 triệu tấn dầu thô và 32,5 tỷ mét khối khí, tạo ra doanh thu 77 tỷ đô la Mỹ, trong đó chính phủ Việt Nam thu được 48 tỷ đô la Mỹ. Năm 2010, hai doanh nghiệp đồng ý kéo dài sự hợp tác cho đến năm 2030. Năm 2021, Rosneft, doanh nghiệp dầu mỏ lớn nhất của Nga, đã bán phần của mình trong hai mỏ năng lượng ở lưu vực sông Nam Côn Sơn cho Zarubezhneft. Gazprom, doanh nghiệp khí đốt lớn nhất của Nga, đã thành lập một liên doanh với PetroVietnam vào năm 1997, Vietgazprom (VGP), để phát triển các dự án về năng lượng ở ngoài khơi. Chúng bao gồm các mỏ khí Hải Thạch và Mộc Tĩnh, trong năm 2017 chiếm 21% tổng sản lượng khí đốt tự nhiên của Việt Nam.
Một số lô năng lượng mà Vietsovpetro (VSP) và Vietgazprom (VGP) hoạt động nằm trong đường chín đoạn của Trung Quốc. Bắc Kinh tuyên bố quyền tài phán đối với các nguồn tài nguyên biển trong đường đó, bao gồm cả trữ lượng dầu khí. Năm 2016, Trung Quốc bác bỏ phán quyết của tòa trọng tài do LHQ hậu thuẫn, trong đó phán quyết đường chín đoạn không tương thích với Công ước LHQ năm 1982 về Luật Biển (UNCLOS) và do đó không hợp lệ. Nga không công nhận đường chín đoạn của Trung Quốc, nhưng đồng cảm với quyết định [của Trung Quốc] bác bỏ phán quyết của tòa trọng tài năm 2016.
Bắc Kinh khẳng định các yêu sách của mình bằng cách sử dụng các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc (China Coast Guard, CCG) và dân quân biển để quấy rối các tàu khảo sát và giàn khoan hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các nước Đông Nam Á, mà nó thường chồng lấn với đường chín đoạn mở rộng. Mặc dù các mối quan hệ giữa Nga và Trung Quốc được thắt chặt trong thập niên qua, Bắc Kinh đã không tạo ra ngoại lệ đối với các tàu được thuê bởi liên doanh Việt – Nga. Ví dụ, trong năm năm qua, các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG), thường đi cùng với các tàu khảo sát và tàu đánh cá Trung Quốc, đã nhiều lần xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, đôi khi đi qua rất gần tới các giàn khoan do Nga thuê, dẫn đến một trò chơi mèo vờn chuột gây căng thẳng giữa các tàu cảnh sát biển của Việt Nam và Trung Quốc. Chính sự quấy rối của tàu Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG) đã khiến cho Rosneft phải bán đi phần đầu tư của mình ở lưu vực Nam Côn Sơn cho Zarubezhneft hồi năm 2021 để bảo vệ lợi ích thương mại của họ ở Trung Quốc, khách hàng lớn nhất của doanh nghiệp.
Mục đích của các chiến thuật đe dọa của Trung Quốc có hai mặt. Thứ nhất, tạo ra một môi trường hoạt động thù địch cho các doanh nghiệp ngoại quốc về năng lượng ở Biển Đông, buộc họ phải chấm dứt các thương vụ (như Repsol của Tây Ban Nha và Marudaba của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đã làm vào năm 2020 và Rosneft một năm sau đó). Thứ hai, ép buộc các bên tranh chấp ở Đông Nam Á hủy hợp đồng với các tập đoàn ngoại quốc về năng lượng và tham gia vào các dự án phát triển mới với các tập đoàn Trung Quốc.
Cả Việt Nam và Nga đều không sẵn sàng nhượng bộ các mong muốn của Trung Quốc. Thực ra, trong Bản Tuyên bố chung năm 2021 về Tầm nhìn phát triển quan hệ Việt Nam – Nga năm 2030, hai nước cam kết tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp dầu khí “cho phù hợp với luật quốc tế, bao gồm UNCLOS và các luật quốc nội của Việt Nam và Nga”.
Hà Nội hoan nghênh sự tham gia của các doanh nghiệp ngoại quốc về năng lượng vào các dự án về khai thác và sản xuất của mình không chỉ vì họ là một nguồn chuyên môn kỹ thuật và vốn quan trọng, mà còn vì Việt Nam có quyền chủ quyền theo UNCLOS để quyết định trữ lượng dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình nên được phát triển như thế nào và với ai.
Nga cũng rất coi trọng việc tiếp tục hoạt động của các doanh nghiệp năng lượng trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Các liên doanh với PetroVietnam có lợi nhuận cao và tạo ra nguồn doanh thu quan trọng vào thời điểm xuất khẩu dầu khí của Nga sang châu Âu bị cắt giảm mạnh sau khi Liên Âu áp đặt các biện pháp trừng phạt. Hơn nữa, nếu Nga chấp nhận yêu cầu của Trung Quốc và chấm dứt hợp tác năng lượng với Việt Nam, họ sẽ bị tổn hại thanh danh ở Việt Nam và các nước khác ở Đông Nam Á. Các quốc gia trong khu vực có thể sẽ kết luận rằng Nga là đối tác cấp dưới của Trung Quốc và phụ thuộc vào lợi ích của Bắc Kinh ở Đông Nam Á. Điều này sẽ làm suy yếu tuyên bố của Moscow rằng họ hoạt động độc lập trong nền chính trị toàn cầu.
Việt Nam lo ngại rằng do sự phụ thuộc ngày càng gia tăng của Nga với Trung Quốc, Bắc Kinh có thể sử dụng đòn bẩy của mình với Moscow để làm suy yếu lợi ích của Việt Nam. Điều này bao gồm gia tăng áp lực lên Điện Kremlin để rút khỏi các doanh nghiệp quốc doanh về năng lượng ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam và ngừng bán vũ khí cho Quân đội Nhân dân Việt Nam, đặc biệt là vũ khí tấn công có thể được sử dụng chống lại Trung Quốc trong một cuộc đối đầu quân sự ở Biển Đông.
Tuy nhiên, Việt Nam đánh giá là trong ngắn hạn, việc tăng cường các mối quan hệ Nga – Trung có thể không có tác động quan trọng đến lợi ích của Việt Nam, vì hai lý do. Thứ nhất, Trung Quốc hiểu tầm quan trọng về kinh tế và địa chính trị của các hoạt động của Nga trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam và sẵn sàng chấp nhận sự tiếp tục của họ trong một thời gian dài hơn vì lợi ích của quan hệ đối tác chiến lược của họ.
Hơn nữa, động lực quyền lực trong các quan hệ Trung – Nga vẫn chưa lệch lạc đến mức Bắc Kinh có thể buộc Moscow phải thực hiện mệnh lệnh của mình. Thứ hai, Trung Quốc cũng hiểu rằng nếu họ thúc ép Việt Nam quá mạnh, bao gồm cả thông qua mối quan hệ với Nga, điều đó có thể buộc Hà Nội tạo ra mối quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, một mối quan hệ chiến lược Trung – Nga mạnh mẽ hơn đặt ra những thách thức trung và dài hạn cho Việt Nam và tạo thêm động lực cho Hà Nội giảm sự phụ thuộc quân sự vào Nga.
______
Tác giả: Ian Storey là thành viên nghiên cứu cao cấp tại ISEAS – Viện Yusof Ishak, Singapore
Jackhammer Nguyễn
22-3-2024
Võ Văn Thưởng bị cách chức, Võ Văn Thưởng chủ tịch nước trẻ nhất, Võ Văn Thưởng chủ tịch nước ngắn nhất…
Trần Văn Chánh
20-3-2024
Mấy năm gần đây, qua việc đại phát động chống tham nhũng quyết liệt, được hầu hết thường dân hoan nghênh, trong giới quan chức từ cấp trung ương trở xuống và giới doanh nghiệp đại gia, hầu như ngày nào cũng có kẻ “vô lò”, gây chóng mặt cho một số người quan tâm, theo dõi thời cuộc. Họ đi sóng đôi với nhau, trong một xã hội tiền và quyền vốn có mối quan hệ rất chặt chẽ, thời nào cũng vậy, nhưng trong hiện tại phổ biến là bất chấp pháp luật và văn hóa-đạo đức.
Nguyễn Huy Cường
18-3-2024
Câu cảm thán này thường phát ra từ tâm cảm vui vẻ khi nhận được ơn huệ hay kết quả gì đó sau bao nhiêu hy vọng, khát vọng mà nay hé mở ánh sáng của sự tốt lành.
Tác giả: Niall Ferguson
Đỗ Kim Thêm dịch
Số tháng 3 và tháng 4-2024
Giảm căng thẳng 2.0
Xét đến những rắc rối mà Hoa Kỳ đang phải đối mặt hồi đầu năm 1969, tình trạng hòa hoãn như Kissinger quan niệm về nó là hợp lý. Không thể đánh bại Bắc Việt Nam, bị ảnh hưởng bởi tình trạng vừa lạm phát vừa đình trệ, và phân hoá sâu đậm về mọi thứ, từ quan hệ chủng tộc đến nữ quyền, Washington không thể chơi trò cứng rắn với Moscow.
Thật vậy, nền kinh tế Mỹ trong thập niên 1970 không có điều kiện để duy trì kinh phí quốc phòng tăng trong tổng thể. (Giảm căng thẳng cũng có lý do về tài chính, mặc dù Kissinger hiếm khi đề cập đến vấn đề này).
Việc hoà hoãn không có nghĩa là – như giới chỉ trích Kissinger cáo buộc – chấp nhận, tin tưởng hay xoa dịu Liên Xô. Điều đó cũng không có nghĩa là cho phép họ đạt được ưu thế về hạt nhân, kiểm soát thường trực Đông Âu hoặc là một đế chế ở thế giới thứ ba. Điều đó có nghĩa là, nhận ra giới hạn về sức mạnh của Mỹ, giảm nguy cơ chiến tranh nhiệt hạch bằng cách sử dụng kết hợp cả hai chính sách dùng cà rốt và cây gậy, kéo dài thời gian để cho Mỹ phục hồi.
Việc này đã vận hành. Đúng vậy, Kissinger đã không bảo đảm “khoảng thời gian thích hợp” giữa việc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam và cuộc chinh phục miền Nam của miền Bắc, một khoảng thời gian mà ông hy vọng sẽ đủ dài để hạn chế thiệt hại cho uy tín và thanh danh của Washington.
Nhưng việc hòa hoãn cho phép Mỹ tập hợp lại các vấn đề trong nước và ổn định chiến lược của Mỹ về Chiến tranh Lạnh. Nền kinh tế Mỹ sớm đổi mới theo cách mà Liên Xô không bao giờ có thể, tạo ra các tài sản kinh tế và công nghệ, cho phép Washington giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh.
Giảm căng thẳng cũng cho Liên Xô sợi dây thòng lọng để tự treo cổ tự tử. Được khuyến khích bởi những thành công của họ ở Đông Nam Á và Nam Phi, họ đã thực hiện một loạt các can thiệp sai lầm và tốn kém trong thế giới kém phát triển, mà đỉnh điểm là cuộc xâm lược Afghanistan vào năm 1979.
Với sự thành công hiếm khi được thừa nhận của việc hòa hoãn trong các điều kiện này, vấn đề đáng để đặt ra là, liệu có những bài học nào mà Hoa Kỳ ngày nay có thể học được mà nó có liên quan đến cuộc cạnh tranh với Trung Quốc không. Kissinger chắc chắn tin như vậy.
Trong khi phát biểu tại Bắc Kinh hồi năm 2019, ông tuyên bố rằng Mỹ và Trung Quốc đã “ở chân đồi của một cuộc chiến tranh lạnh”. Năm 2020, giữa lòng trận đại dịch COVID -19, Kissinger đã nâng cấp nó thành “lối thoát trên núi”. Và một năm trước khi qua đời, ông cảnh báo rằng, cuộc chiến tranh lạnh mới sẽ nguy hiểm hơn cuộc chiến đầu tiên vì những tiến bộ trong công nghệ, chẳng hạn như về trí tuệ nhân tạo, đe dọa chế tạo vũ khí không chỉ nhanh hơn và chính xác hơn mà còn có tiềm năng tự động. Ông kêu gọi cả hai siêu cường hợp tác bất cứ khi nào có thể được để hạn chế những nguy cơ sinh tồn của cuộc chiến tranh lạnh mới này – và đặc biệt là để tránh một cuộc hạ màn đầy thảm khốc trong tiềm tàng về tình trạng tranh chấp của Đài Loan.
Như trong thập niên 1970, nhiều chuyên gia chỉ trích phương cách này trong cuộc tranh luận hiện nay về chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc.
Elbridge Colby, người có suy nghĩ sâu sắc nhất trong thế hệ mới của các chiến lược gia bảo thủ, đã khuyến khích chính quyền Biden áp dụng “chiến lược phủ nhận” để ngăn chặn Trung Quốc thách thức về mặt quân sự trong hiện trạng mà Đài Loan được hưởng quyền tự trị trên thực tế và một nền dân chủ thịnh vượng.
Đôi khi, dường như chính quyền Biden tự đặt vấn đề về chính sách mơ hồ trong chiến lược về Đài Loan kéo dài nửa thế kỷ, trong đó không rõ liệu Mỹ có sử dụng quân lực để bảo vệ hòn đảo này không. Và gần như có một sự đồng thuận trong lưỡng đảng rằng, kỷ nguyên cam kết trước đây với Bắc Kinh là một sai lầm, dựa trên giả định lầm lạc rằng, tăng cường thương mại với Trung Quốc sẽ tự do hóa hệ thống chính trị một cách kỳ diệu.
Tuy nhiên, không có lý do chính đáng là tại sao các siêu cường của thời đại chúng ta, giống như những người tiền nhiệm của họ trong thập niên 1950 và 1960, phải chịu đựng 20 năm bên miệng hố của chiến tranh trước khi có giai đoạn giảm căng thẳng của Chiến tranh Lạnh.
Giảm căng thẳng 2.0 chắc chắn sẽ được yêu chuộng hơn là chạy theo một phiên bản mới như cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba hay đối với Đài Loan, nhưng với vai trò đảo ngược: Nhà nước cộng sản phong tỏa hòn đảo tranh chấp gần đó và Hoa Kỳ phải tiến hành phong tỏa, với tất cả các rủi ro kèm theo. Đó chắc chắn là những gì mà Kissinger tin tưởng trong năm cuối cùng của cuộc đời dài của mình. Đó là động lực chính cho chuyến thăm cuối cùng của Kissinger tới Bắc Kinh ngay sau sinh nhật lần thứ 100 của ông.
Giống như tình trạng hòa hoãn 1.0, một sự hòa hoãn mới sẽ không có nghĩa là xoa dịu Trung Quốc, càng không mong đợi đất nước này thay đổi. Điều đó có nghĩa là, lại một lần nữa, tham gia vào vô số cuộc đàm phán: Về kiểm soát vũ khí (rất cần thiết khi Trung Quốc điên cuồng xây dựng lực lượng của mình trong mọi lĩnh vực); về thương mại; về chuyển giao công nghệ, biến đổi khí hậu, trí tuệ nhân tạo; và trên không gian. Giống như SALT, các cuộc đàm phán này sẽ kéo dài và tẻ nhạt – thậm chí có thể không có kết quả. Nhưng chúng sẽ là “cuộc chạm trán” mà Thủ tướng Anh Winston Churchill thường thích là có chiến tranh hơn. Đối với Đài Loan, các siêu cường có thể làm tồi tệ hơn là phủi sạch lời hứa cũ của họ, do Kissinger đưa ra, là đồng ý các vấn đề không đồng ý.
Tất nhiên, tình trạng giảm căng thẳng không làm nên điều kỳ diệu. Trong thập niên 1970, nó đã bị bán đổ bán tháo và mua với giá quá mắc. Chính sách này chắc chắn đã mang lại cho Hoa Kỳ nhiều thời gian, nhưng đó là một chiến lược cờ vua có lẽ đòi hỏi quá nhiều sự hy sinh nhẫn tâm của các quân cờ nhỏ hơn trên bàn cờ.
Bối rối trước sự phản đối của Hoa Kỳ đối với sự can thiệp của đất nước ông vào Angola, một nhà phân tích Liên Xô đã nhận xét: “Người Mỹ các bạn đã cố gắng bán việc hòa hoãn như chất tẩy rửa và tuyên bố rằng nó sẽ làm mọi thứ mà một chất tẩy rửa có thể làm”.
Cuối cùng, giới phê bình đã thành công trong việc đầu độc thuật ngữ này. Vào tháng 3 năm 1976, Ford đã cấm sử dụng nó trong chiến dịch tái tranh cử của ông. Nhưng không bao giờ có một sự thay thế khả thi.
Khi được hỏi liệu ông có một thuật ngữ thay thế không, Kissinger đưa ra một câu trả lời dí dỏm đặc trưng. Ông nói: “Tôi đã nhảy múa xung quanh mình để tìm một người, giảm căng thẳng, giảm căng thẳng. Chúng ta cũng có thể kết thúc với từ cũ một lần nữa”.
Hiện nay, chính quyền Biden đã giải quyết vấn đề bằng cách dùng từ riêng của mình: “giảm rủi ro”. Nó không phải là tiếng Pháp, nhưng nó hầu như cũng không phải là tiếng Anh. Mặc dù khởi điểm của cuộc chiến tranh lạnh này là khác biệt, vì sự tương thuộc về kinh tế ngày nay lớn hơn nhiều giữa các siêu cường, về cơ bản, chiến lược tối ưu có thể trở nên giống như trước đây.
Nếu sự hòa hoãn mới bị chỉ trích, thì giới phê bình không nên giải thích sự sai lầm của nó theo cách mà sự hòa hoãn của Kissinger thường bị xuyên tạc bởi nhiều kẻ thù của ông – kẻo họ thấy mình giống như Reagan trước đây, về cơ bản cũng làm như vậy khi họ ngồi ở Phòng Phân tích Tình hình.
_______
Tác giả: Naill Ferguson là thành viên nghiên cứu cấp cao của Học viện Hoover, Đại học Standford. Ông là tác giả cuốn sách Kissinger: 1923–1968; The Idealist.
Bài liên quan: Đánh giá Henry Kissinger — Di sản của Henry Kissinger — Henry Kissinger đã bỏ rơi miền Nam như thế nào? — Richard Nixon, Henry Kissinger và Sự Sụp Đổ Của Miền Nam — Hồ sơ tội trạng của Henry Kissinger
(Hết)
Tác giả: Niall Ferguson
Đỗ Kim Thêm dịch
Số tháng 3 và tháng 4-2024
“Tôi tin vào hòa bình mà ông Ford nói, nhiều như bất kỳ người nào nói. Nhưng ở những nơi như Angola, Campuchia và Việt Nam, sự bình an mà họ đã biết là sự bình an của nấm mồ. Tất cả những gì tôi có thể thấy là những gì mà các quốc gia khác trên thế giới nhìn thấy: Sự sụp đổ của ý chí Mỹ và sự rút lui của sức mạnh Mỹ”.
Thua trong trận, nhưng thắng trong cuộc chiến
Giới bảo thủ phản đối Kissinger vì những lý do vượt ra ngoài sự khoan dung của ông đối với sự ngang bằng về hạt nhân của Liên Xô. Phe diều hâu cũng lập luận rằng, Kissinger đã quá sẵn sàng để chấp nhận điểm bất công của hệ thống Xô Viết – mặt trái lời phàn nàn của những người theo chủ thuyết tự do, rằng ông đã quá sẵn sàng để dung thứ cho đặc điểm bất công của các chế độ độc tài theo cánh hữu.
Vấn đề này đã trở nên nổi bật về hạn chế của Liên Xô đối với việc di cư của người Do Thái và đối xử với những người bất đồng chính kiến của Liên Xô, chẳng hạn như tác giả Aleksandr Solzhenitsyn. Khi Solzhenitsyn đến Hoa Kỳ trong thập niên 1970 (sau khi bị trục xuất khỏi Liên Xô), Kissinger đã chọc giận giới bảo thủ bằng cách khuyên Tổng thống Gerald Ford không nên gặp ông [Solzhenitsyn].
Solzhenitsyn trở thành một trong những đối thủ khó chịu nhất của Kissinger. Tiểu thuyết gia này nói hồi năm 1975: “Một nền hòa bình bao dung cho bất kỳ hình thức bạo lực tàn bạo nào và bất kỳ liều lượng lớn nào của nó chống lại hàng triệu người, nó không có sự cao cả về đạo đức ngay cả trong thời đại hạt nhân”. Ông và giới phê bình bảo thủ khác lập luận rằng, thông qua việc hòa hoãn, Kissinger chỉ đơn thuần cho phép mở rộng chủ nghĩa cộng sản Liên Xô. Sự sụp đổ của Sài Gòn năm 1975, Campuchia rơi vào địa ngục của chế độ độc tài cộng sản Pol Pot, sự can thiệp của Cuba – Liên Xô vào cuộc xung đột tại Angola trong thời hậu thuộc địa – những thất bại này và những thất bại địa chính trị khác, dường như minh chứng cho tuyên bố của họ.
Reagan tuyên bố hồi năm 1976, khi ông vận động chống lại Ford trong cuộc bầu cử sơ bộ tổng thống của đảng Cộng hòa: “Tôi tin vào hòa bình mà ông Ford nói, nhiều như bất kỳ người nào nói. Nhưng ở những nơi như Angola, Campuchia và Việt Nam, sự bình an mà họ đã biết là sự bình an của nấm mồ. Tất cả những gì tôi có thể thấy là những gì mà các quốc gia khác trên thế giới nhìn thấy: Sự sụp đổ của ý chí Mỹ và sự rút lui của sức mạnh Mỹ”.
Không giống như cáo buộc về tình trạng ưu thế trong hạt nhân của Liên Xô, Kissinger không bao giờ phủ nhận rằng, chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô ở thế giới thứ ba đặt ra một mối đe dọa đối với sự hòa hoãn và sức mạnh của Mỹ. Ông nói trong một bài phát biểu hồi tháng 11-1975: “Thời gian không còn nhiều; việc tiếp tục cho một chính sách can thiệp chắc chắn phải đe dọa các mối quan hệ khác. Chúng ta sẽ linh hoạt và hợp tác trong việc giải quyết các xung đột, . . . Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ cho phép việc hòa hoãn biến thành một sự che đậy lợi thế đơn phương”.
Tuy nhiên, thực tế là trong trường hợp không có được sự ủng hộ của Quốc hội – dù là để bảo vệ cho miền Nam Việt Nam hay Angola – chính quyền Ford không có lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận cho sự bành trướng quân sự của Liên Xô, hoặc ít nhất là chiến thắng của các lực lượng ủy nhiệm của Liên Xô.
Kissinger nói hồi tháng 12 năm 1975: “Các tranh chấp trong nước của chúng ta đang tước đi khả năng của chúng ta cả trong việc cung cấp các động lực cho sự ôn hòa [của Liên Xô] như trong các hạn chế đối với đạo luật thương mại, cũng như khả năng chống lại các hành động quân sự của Liên Xô như ở Angola”.
Tất nhiên, có thể tranh luận ở mức độ nào mà Kissinger hợp lý khi tuyên bố rằng, với sự hỗ trợ liên tục của Quốc hội trong việc viện trợ của Hoa Kỳ, miền Nam Việt Nam và ngay cả Angola có thể đã thoát ra khỏi được sự kiểm soát của Cộng sản.
Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, khi Kissinger quan tâm đến việc ngăn chặn sự lan rộng của các hệ thống Xô Viết. Ông nói hồi năm 1974: “Sự cần thiết cho việc hoà hoãn như chúng ta quan niệm về nó không phản ánh sự tán thành về cấu trúc trong nội địa của Liên Xô. Hoa Kỳ luôn nhìn với sự cảm thông, với sự đánh giá cao, về việc thể hiện tự do tư tưởng trong tất cả các xã hội”. Nếu Kissinger từ chối ủng hộ Solzhenitsyn, đó không phải là vì Kissinger khoan dung (ít có thiện cảm bí mật hơn) với mô hình Xô Viết. Đó là bởi vì ông tin rằng Washington có thể đạt được nhiều hơn bằng cách duy trì mối quan hệ đang vận hành với Moscow.
Và trong việc này, Kissinger chắc chắn đã có lý. Bằng cách giảm bớt các căng thẳng cả ở châu Âu và các nơi khác trên thế giới, việc hòa hoãn đã giúp cải thiện cuộc sống của ít nhất một số người dưới sự cai trị của Cộng sản. Việc di cư của người Do Thái ra khỏi Liên Xô tăng lên trong giai đoạn khi Kissinger đặc trách việc hòa hoãn.
Sau khi Thượng nghị sĩ Dân chủ Henry “Scoop” Jackson của Washington và giới diều hâu khác trong Quốc hội tìm cách công khai gây áp lực buộc Moscow thả thêm người Do Thái qua việc duy trì thỏa thuận thương mại Mỹ – Xô Viết, việc di cư đã giảm xuống.
Giới phê bình bảo thủ của Kissinger đã kịch liệt phản đối việc Hoa Kỳ ký các Hiệp định Helsinki vào mùa hè năm 1975, họ lập luận rằng, chúng thể hiện cho việc phê chuẩn các cuộc chinh phục của Liên Xô ở châu Âu trong thời hậu chiến.
Nhưng bằng cách nhận cam kết của các nhà lãnh đạo Liên Xô về việc tôn trọng một số quyền dân sự cơ bản của công dân của họ như một phần của các hiệp định – một cam kết mà họ không có ý định tôn trọng – thỏa thuận cuối cùng đã làm xói mòn tính hợp pháp của việc cai trị của Liên Xô ở Đông Âu.
Không có sự thật nào trong số này có thể cứu vãn sự nghiệp của Kissinger trong chính phủ. Ngay sau khi Ford ra đi, Ngoại trưởng của ông cũng vậy, không bao giờ trở lại nhiệm sở quan yếu. Nhưng khái niệm chính về chiến lược của Kissinger tiếp tục phát huy thành quả trong nhiều năm sau, bao gồm cả các chỉ trích chính về hòa hoãn: Carter và Reagan.
Carter đã chỉ trích Nixon, Ford và Kissinger vì không đủ lòng thương cảm trong chủ thuyết hiện thực của họ, nhưng Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh quốc gia của chính ông [Carter], đã thuyết phục ông nên cứng rắn với Moscow. Đến cuối năm 1979, Carter buộc phải cảnh báo Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan, nếu không sẽ phải đối mặt với “hậu quả nghiêm trọng”.
Về phần mình, Reagan cuối cùng đã chấp nhận việc hòa hoãn như là một chính sách của riêng mình trong toàn diện ngoại trừ tên gọi – và thực sự đã vượt xa những gì mà Kissinger đã làm để giảm bớt căng thẳng. Trong khi theo đuổi việc xít lại gần nhau, Reagan đã đồng ý giảm kho vũ khí hạt nhân của Washington xuống một lượng lớn hơn nhiều so với những gì Kissinger nghĩ đã là thận trọng. “Kỷ nguyên Kissinger” không kết thúc khi ông rời chính phủ hồi tháng Giêng năm 1977.
Mặc dù đã bị lãng quên, sự thật này được công nhận bởi những người đương thời nhiều tinh ý hơn của Kissinger. Chẳng hạn như nhà bình luận bảo thủ William Safire lưu ý rằng, chính quyền Reagan đã nhanh chóng bị thâm nhập bởi “những người thuộc phe Kissinger” và “những người theo tinh thần hòa hoãn”, ngay cả khi bản thân Kissinger bị ngăn chặn.
Thật ra, chính quyền Reagan đã trở nên quá thích ứng đến mức bây giờ đến lượt Kissinger lại cáo buộc Reagan là quá mềm mỏng, chẳng hạn như trong phản ứng của Reagan trước việc áp đặt tình trạng thiết quân luật ở Ba Lan. Kissinger phản đối các kế hoạch xây dựng một đường ống dẫn khí đốt tự nhiên từ Liên Xô đến Tây Âu với lý donó , sẽ khiến phương Tây “trở thành đối tượng bị thao túng chính trị nhiều hơn so với hiện nay”. (Về sau được phát hiện lời cảnh báo này là tiên đoán).
Năm 1987, Nixon và Kissinger đã lên tiếng trong trang xã luận của tờ Los Angeles Times để cảnh báo rằng, việc Reagan sẵn sàng thực hiện một thỏa thuận với Mikhail Gorbachev, nhà lãnh đạo Liên Xô, đã đi quá xa, khi cả hai quốc gia sẽ loại bỏ tất cả vũ khí hạt nhân tầm trung của họ. Đối với lời chỉ trích như vậy, Ngoại trưởng George Shultz đã đưa ra một câu trả lời, tiết lộ: “Bây giờ chúng ta đã vượt quá sự hòa hoãn”.
(Còn tiếp)
Tác giả: Niall Ferguson
Đỗ Kim Thêm dịch
Số tháng 3 và tháng 4-2024
Tiếp theo kỳ 1
Lầu Năm Góc đề xuất bắn khoảng 200 vũ khí hạt nhân vào các cơ sở quân sự của Liên Xô gần biên giới Iran. Kissinger hét lên: ‘Các anh mất trí rồi sao? Đây là một lựa chọn hạn chế sao?’
Tác giả: Niall Ferguson
Đỗ Kim Thêm dịch
Số tháng 3 và tháng 4-2024
Tóm tắt: Tái tạo chiến lược Chiến tranh Lạnh cho việc cạnh tranh với Trung Quốc
Mạc Văn Trang
15-3-2024
Nhiều lần mấy nhân viên an ninh trò chuyện thân mật với mình, cứ bảo: Xã hội nào chẳng có cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu, chú cứ nhìn vào mặt tiêu cực rồi phê phán nhiều không có lợi…
13-3-2024
Tiếp theo kỳ 1
Cũng tới gần giữa tháng 3, báo mậu dịch và siêu mạng xã hội ì xèo về vụ nữ tài xế ở Hà Nội bị phạt, rồi phạt lây sang cả người khác.
Nguyệt Quỳnh
12-3-2024
“Một người thầy tốt như một ngọn nến – cháy hết mình để soi đường cho những người khác” – Mustafa Kemal Atatürk (1881 – 1938)
Dưới thời vua Trần Thái Tông (1226-1258), sau chiến thắng quân Nguyên -Mông lần thứ nhất, nước ta vẫn luôn được đặt trong tình trạng chuẩn bị cho chiến tranh. Sống cạnh một đế quốc hùng mạnh, đã từng xâm lấn và san bằng một nửa thế giới đâu có dễ dàng.
Có lẽ điều ấy đã thúc đẩy vua Trần Thái Tông giao trọng trách viết sử cho Lê Văn Hưu, gia sư của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải. Với cái văn hoá của người Việt Nam “người thầy là một người dẫn đường” Lê Văn Hưu đã hoàn tất bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư gồm 30 quyển vào mùa xuân tháng giêng năm 1272.
Tiếc rằng bộ sách đã không còn tồn tại để ta có thể đọc lại tấm lòng của một người viết sử đã sống qua hai cuộc chiến gian khổ chống quân Nguyên – Mông. Tuy nhiên, nội dung và tư tưởng của người thầy giáo ấy vẫn bàng bạc trong những bộ sử được soạn lại sau này từ các sử gia đời sau như Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ, …
Là con dân của một đất nước chiến tranh triền miên, ta tiếp xúc với lịch sử khi ta hoang mang. Sử giúp ta đứng vững khi soi bóng mình trên dòng sông Bặch Đằng. Biết bao nhiêu nỗ lực, biết bao nhiêu hy sinh; sử cho ta hoa trái, cho ta lý do để tồn tại, để tiếp nối.
Không có gì đẹp bằng, nhìn sâu vào lịch sử ta thấy mình hiện diện ở đó. Ta thấy mình quỳ nơi bãi sậy lau, ta thấy mình đang đóng cọc ở dòng sông Bạch Đằng, ta thấy mình là sứ thần Giang Văn Minh hiên ngang đối đáp với vua nhà Hán rồi bình thản trở về trên cỗ quan tài khi đã hoàn tất sứ mệnh.
Không có lịch sử, chúng ta không còn là ta, có thể chúng ta đang mang một họ khác: Chang hay Cheng, hay gì gì đó… Sử có mặt cho ta, ta có mặt cho sử. Và hôm nay trên trang viết này, ta lại gặp ta, một Lê Văn Hưu tóc để chỏm, đi tung tăng trên con đường quê, yêu đất nước mình bằng tất cả trái tim.
***
Thuở ấy, ở đầu làng Thần Hậu thuộc tỉnh Thanh Hoá có một gian nhà tranh gọi là quán học. Các chức sắc trong làng đã cùng nhau dựng nên quán học để cho những người biết chữ nghĩa đến đây giảng thơ, bình văn. Đây cũng là nơi chốn để cho các con em trong làng đến học hành, dùi mài kinh sử.
Ngày ấy, Lê Văn Hưu tuổi tuy còn nhỏ nhưng cũng thường mon men ra đấy để xem lóm các anh trong làng học tập. Rồi một hôm, thầy đồ dạy học chợt nhận ra có điều kỳ lạ. Rất nhiều lần thầy nhìn thấy cậu bé hay chơi quẩn quanh nơi quán học lại thường hay nhắc bài cho các anh.
Để thử tài, thầy bèn gọi cậu vào, viết mấy chữ Nho lên một tấm giấy rồi giảng giải cho cậu bé. Sau đó, thầy viết sang một tờ giấy khác, thì ngay lập tức cậu lặp lại không sai một chữ nào. Hỏi ra mới biết, cậu bé đang sống cùng người mẹ trong làng, tên là Lê Văn Hưu, mồ côi cha khi còn trong bụng mẹ.
Lê Văn Hưu có một giai thoại vui với bác thợ lò rèn, cho ta thấy sự nặng lòng về giáo dục, cái tâm sính chữ nghĩa của người đời xưa. Chuyện như sau: Năm Lê Văn Hưu lên 11 tuổi, trên đường đi học từ Kẻ Rị sang Phúc Triền, cậu thường đi ngang qua một lò rèn dựng ngay bên đường. Một hôm, trông thấy những chiếc dùi của bác thợ rèn treo trong quán, cậu thích lắm. Cậu cứ tần ngần, ngắm nghía, ước ao có một cái để đóng vở học. Thấy cậu học trò khuôn mặt sáng sủa, khôi ngô, bác thợ rèn bèn gạn hỏi:
– Này, cậu bé muốn gì thế?
– Thưa ông, cháu muốn có một chiếc dùi để đóng vở.
Bác thợ rèn bèn ra một câu đối, bảo cậu, nếu đối được bác sẽ biếu không một cái dùi. Câu đối như sau: “Than trong lò, lửa trong lò, sắt trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi vở”.
Ngẫm nghĩ một lát, Lê Văn Hưu đối lại: “Giấy trong túi, bút trong túi, mực trong túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên”.
Thế là, không những cậu bé được tặng chiếc dùi vở đẹp nhất, cậu còn được bác thợ rèn tặng thêm những 3 quan tiền. Năm lên mười bảy tuổi, Lê Văn Hưu đỗ Bảng Nhãn. Ông được nhà vua giữ lại chốn cung đình để dạy dỗ hoàng tử thứ ba là Trần Quang Khải. Người sau này dược sắc phong chức Thượng tướng Thái sư, tài cao học rộng, lập nhiều công trạng trong cuộc chiến chống quân Nguyên – Mông.
Nếu William Butler Yeats, thi sĩ người Ireland cho rằng,“dạy học không phải là làm đầy một thùng nước mà là thắp sáng một ngọn lửa” thì Lê Văn Hưu thực sự là người đã thổi bùng lên ngọn lửa ấy. Sống giữa hai cuộc chiến tranh, đất nước phải đối mặt với một đối thủ mạnh nhất thế giới, Lê Văn Hưu đã dùng những dữ kiện thật từ những bài học lịch sử để khơi dậy lòng tự hào dân tộc: Những chiến công của Ngô Quyền khi đánh tan hàng trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, hoặc chiến công của Lê Đại Hành trong những trận đánh Tống, bình Chiêm.
Lê Văn Hưu đã khẳng định được năng lực của quân dân Đại Việt và khơi dậy khí phách ở mỗi người dân triều Trần. Có lẽ, chính ngọn lửa từ người thầy giáo ấy đã giúp dân ta đánh bại được một đội quân bách chiến bách thắng không chỉ một mà đến cả ba lần.
Tư tưởng của Lê Văn Hưu cho đến tận giờ vẫn còn nguyên vẹn giá trị. Bàn về điềm lành, ông cho rằng “phàm người xưa gọi là điềm lành là nói việc dùng được người hiền và được mùa, ngoài ra không có cái gì gọi là điềm lành cả”. Hay: “của cải không phải là trời mưa xuống, sức không phải là trời làm thay, há không phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm việc phúc được chăng?”.
Nay, chính quyền nước ta thiếu hẳn những điều căn bản cốt lõi để trị nước. Người hiền không được dùng đã gây ra tình trạng tham ô nhũng nhiễu đến mức báo động. Ở các nước tân tiến, chuyện tham ô chỉ nằm trong mức độ kiểm soát, ở nước ta đã biến thành quốc nạn.
Đọc về Lê Văn Hưu sẽ thấy rõ, chúng ta sinh ra không để sống một mình mà để sống với nhau và vì nhau. Đặt tay trên trang sử, tôi tự hỏi chúng ta là ai, chúng ta là gì trong dòng chảy của đất nước mình? Chúng ta có sống với nhiệt huyết và tình yêu cho đất nước này như chúng ta đã từng không? Những trang sử ngày nào như những tờ lịch rơi trong gió, và chúng ta tựa như bao lớp học trò rồi cũng ra đi, khi bóng dáng người thầy vẫn còn đó nơi cửa lớp. Bụi thời gian đã xoá nhoà nước mắt, xoá nhoà những vinh quang cùng bóng dáng của người thầy năm nào.
Lê Văn Hưu làm quan tới chức Binh bộ Thượng thư, được sắc phong Hàn Lâm viện Thị độc, kiêm Chưởng sử, tước Nhân Uyên hầu, hiệu Tu Hi. Ông mất ngày 23 tháng 3 năm Nhâm Tuất – 1322 và được táng ở cánh đồng xứ Mả Giòm, tỉnh Thanh Hoá.
Có điều trước ngày mất, vị Binh bộ Thượng thư ấy đã cởi áo quan về làm thầy đồ nơi Kẻ Rị. Ba quan tiền tặng và chiếc dùi đóng vở của bác thợ rèn ngày nào đã nuôi lớn tâm hồn cậu bé Lê Văn Hưu. Chúng ta sống với nhau và vì nhau. Để cậu bé ngày nào mon men nơi quán học, nay lại về làm thầy đồ nơi làng quê để dạy những đứa trẻ chân đất ba chỏm.
Lịch sử không ghi rõ, nhưng ngoài Trạng nguyên Bạch Liên, tôi nghĩ còn có những văn nhân, những tể tướng có lẽ đã đi ra từ cái chiếu học ấy, nơi thầy đồ Lê Văn Hưu đã trải qua những năm tháng cuối đời ở quê nhà.
Trần Huê chuyển ngữ
23-2-2024
Người dân Ðức, cũng như nhiều người Âu châu vẫn chưa thực sự hiểu những gì đang xảy ra trong hai năm qua. Phải chi các nhà lãnh đạo giải thích với họ rõ ràng hơn.