GS Lê Hữu Khóa
29-6-2019
Tiếp theo phần 1 — phần 2 — phần 3 — phần 4 — phần 5 — phần 6 — phần 7 — phần 8 — phần 9 — phần 10 — phần 11 — phần 12 — phần 13 và phần 14 — phần 15
Việt
(Ta là ai?)
Muốn biết mình có phải là lãnh đạo chính trị Việt gốc hay không? (Theo nội dung yêu nước thương nòi, với ý nghĩa thiêng liêng nhất của định nghĩa “đồng bào”, chớ không phải chỉ cần có quốc tịch Việt hay tổ tiên Việt là đủ), thì phải tự khẳng định rằng ít nhất ba việc mình chính là con dân của một dân tộc:
- Không bao giờ khuất phục bất cứ ngoại xâm nào, tới từ bất cứ phương trời nào, dù chúng có to nhất, có giầu nhất.
- Không bao giờ chịu phận mất nước, làm thân nô lệ, dù phải trả những giá rất đắt để giữ độc lập.
- Nhận quyết tâm độc lập dân tộc như tiếp cùng lúc hai hệ vấn đề: một là bản sắc Việt tính bất di bất dịch, hai là về nhân phẩm Việt lực của mình.
Ba khẳng định chính kiến chính là ba xác nhận chính trị để kẻ lãnh đạo trước hết biết mình là ai? Sau đó để biết mình sẽ lãnh đạo một dân tộc nào? Một dân tộc kiên cường, chớ không phải một dân tộc cúi đầu, khoanh tay, quỳ gối. Như vậy, những kẻ không có, hoặc không muốn có ba chính kiến này thì đừng lãnh đạo chính trị, vì họ sẽ nhận thất bại và chóng chầy sẽ bị kết án là phản dân, hại nước!
Việt chính
(5C = chính đạo–chính nghĩa–chính lý–chính khí–chính ngôn)
Việt chính, ngược hẳn với Việt gian, có chính đạo nhờ có chính nghĩa, có chính tâm song hành cùng chính lý, có chính khí nên có chính ngôn, trước sau như một, tuyệt đối trung thành với tổ quốc, muốn làm lãnh đạo thì sẵn sàng hy sinh vì dân tộc, chết vì nước. Chắc chắn không phải là loại lãnh đạo, vừa vơ vét, vừa có thẻ xanh, có quốc tịch ngoại quốc, để khi Tàu tặc tới, vật đổi sao dời trong thời cuộc lại bỏ chạy qua phương Tây, rồi lẩn lút như đám ma bùn, ma xó.
Vật đổi sao dời trong đời người là có thật, vật đổi sao dời lại càng đúng trong chính giới với “nắng sớm, mưa chiều”, “sớm nở, tối tàn”; trong đó nếu có bọn xấu thì chuyện “lừa thầy, phản bạn” đối với chúng là chuyện “cơm bữa”! Chúng đang là đám tham quan hiện nay đang làm giầu nhờ tham nhũng. Chúng sẵn sàng lúc chúng mượn giọng lưỡi cách mạng, để mạt sát những người yêu nước, những kẻ thương dân, không là bè đảng với chúng, chúng thóa mạ họ là: Việt gian.
Hãy dùng định nghĩa Việt chính để lật trần ngược ngữ Việt gian, cùng lúc lột mặt nạ bọn Việt gian hiện đại đang nghênh ngang trong vai trò lãnh đạo chính trị, đó là bọn luồn từ phương trình xoay quyền lực qua quyền lợi qua phương trình chuyển công lợi qua tư lợi, bằng cách khai thác tận tủy phương trình tham quan-tham quyền-tham ô-tham nhũng, biến không ít một bộ phận dân tộc thành dân đen, dân oan!
Việt rễ
(“rễ sâu, gốc chắc” của niềm tin)
Rễ làm cội chắc, gốc vững, khi Trần Hưng Đạo bên giường bịnh vào giờ trăng trối mà Trần Anh Tông vẫn luôn lo lắng bọn quân Nguyên dù thua thảm bại ba lần trên đất nước Việt dưới triều Trần, nhưng vẫn không bỏ mộng xâm lược của chúng; Hưng Đạo vương chỉ khuyên: nếu có dân là có“rễ sâu, gốc chắc” thì không có gì phải lo!
Bài học “rễ sâu, gốc chắc” này, Trần tướng quân dặn dò cho nhiều đời sau phải hiểu là dân tộc và lãnh đạo: một lòng trong quyết tâm, quyết chí, để quyết đoán và quyết định trước mọi thử thách, mọi thăng trầm đang đe dọa Việt tộc. Dân chúng và chính trị một lòng thì làm được chuyện “dời non, lấp bể”, cụ thể là “châu chấu đá xe” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong Việt sử: nhỏ nhưng thắng được lớn, không sợ cường quốc và không sợ cường bạo, chỉ sợ là không có chính nghĩa. Sử liệu giờ đã thành sử luận, không hiểu được sử luận này thì đừng lãnh đạo chính trị!
“Rễ sâu, gốc chắc” từ chuyện cả nước một lòng có thượng nguồn là niềm tin, như đất nuôi rễ, như nền giữ gốc, tin vào chính, có chính nghĩa sẽ có chính tâm, có chính tâm sẽ có chính lý, có chính lý sẽ có chính ngôn, có chính ngôn sẽ có chính khí, tạo nên sung lực để vận động khí thế của dân tộc, trong chiến tranh cũng như trong phát triển.
Niềm tin hiện nay rõ ràng là không có, bề trên lãnh đạo độc quyền nên độc đoán, độc đảng nên độc tài, từ lộng quyền tới tham quyền, thì làm gì có chuyện một lòng, trong thực cảnh dân chúng một bộ phận lớn đang thành dân đen. Lãnh đạo biến quyền lực thành quyền lợi, cướp đất, đoạt nhà, biến một bộ phận không nhỏ dân tộc thành dân oan. Chuyện một lòng hiện nay là chuyện hão, chuyện mất lòng mới là chuyện thật. Mất lòng tin vì mất niềm tin, và mất luôn cả thông tin chân thật bởi một chế độ chỉ biết tuyên truyền một chiều, sợ đa tin như sợ đa luận! Sợ chính luận như sợ chính nghĩa!
Không tạo được “rễ sâu, gốc chắc”, vì không có ý thức chính trị về chuyện một lòng, vì không có tri thức lãnh đạo về chuyện niềm tin, thì đừng lãnh đạo chính trị, lãnh đạo thì chỉ làm khổ dân, chỉ làm tăng lượng dân đen và dân oan trong dân tộc như hiện nay.
Việt hiền minh
(3Thực = thực tại–thực cảnh-thực tế + 3Thức = tri thức-ý thức-nhận thức)
Hiền minh, chọn hiền triết để lãnh đạo, chọn minh triết để quản lý, tạo ra chính sách không qua định kiến và chỉ đạo không bằng tà kiến. Có chính kiến (chính thống trong liêm chính), nhưng cũng có luôn trung dung để tránh cực đoan, có trung đạo để không sa vào quá khích.
Hiền minh có chính lý trong trung dung, có chính tâm trong trung đạo, loại được cực đoan, xóa được quá khích, nên tiếp nhận thực tế trong tỉnh táo, chọn ra đường lối đúng trong sáng suốt, luôn linh hoạt trong các biến đổi của tình hình. Biết chọn trung dung đa của đa chiều (ngã tư, ngã sáu, ngã bẩy…) chứ không ngu dại mà chọn độc của độc đạo, vì quá khích của độc đảng sinh ra cực đoan của độc quyền, dẫn tới thui chột của độc tài, và chóng chầy sẽ rơi vào: ngõ cụt!
Hiền minh, có hiền ngoan nhưng luôn có thông minh, luôn hiểu sự thật qua nhiều nguồn, thấu chân lý qua nhiều gốc, nhận lẽ phải qua nhiều rễ, tiếp đón cuộc sống qua đa tri của đa trí, nên không tự sát trên độc lộ của độc đảng vì độc thân. Hiểu thực tại sâu xa của cuộc đời nhờ nắm được thực cảnh tức khắc bây giờ và ở đây, không bị ý thức hệ viển vông làm lầm đường lạc lối, luôn lấy thực tại-thực cảnh để hiểu thực tế, không bị ý thức hệ tung hỏa mù, không bị độc thị đầu độc độc não.
Hiền minh trong chính trị không phải là thái độ sinh hoạt hiền lành, phong cách làm việc ngoan ngoãn, mà cụ thể là sự tinh khôi trong khi dụng phương trình 3T (thực tại–thực cảnh-thực tế) để chống lại vô tri, vô minh, vô giác của 3Đ (độc tài vì độc thị đầu độc độc não). Lãnh đạo hiền minh thì nắm chắc 3 thực (thực tại–thực cảnh-thực tế) nhờ có 3 thức (tri thức-ý thức-nhận thức).
Hiền minh, không giả vờ thong dong, không đóng kịch ung dung, mà sáng suốt trong thư thái, tỉnh táo trong thư thả, nên khoan thai trong lãnh đạo vì nắm mỗi tay một phương trình: 3 thực (thực tại–thực cảnh-thực tế) song đôi cùng 3 thức (tri thức-ý thức-nhận thức).
Việt tri
(4T = tổng quát-tổng quan-tổng thể-tổng cộng)
Tri, nơi mà tri thức làm ra chính tri, nơi mà hiểu thấu có được nhờ hiểu đúng dữ kiện và hiểu trúng kiến thức, không có thái độ “ba phải”, không có hành vi “chung chung”, chắc chắn sẽ không có chuyện hiểu giả-giảng giả-dạy giả trong giáo dục chính trị cũng như trong truyền đạt khi lãnh đạo. Cái giả giết cái thực, truy diệt cả lẽ phải, thủ tiêu luôn niềm tin; câu chuyện một bộ trưởng Bộ Giáo dục Phùng Xuân Nhạ, đạo văn là chuyện giết chết kiến thức, truy diệt cả giáo lý, thủ tiêu luôn đạo đức; một chuyện chỉ có thể xẩy ra trong một đất nước bị áp chế và bưng bít bởi độc đảng sinh ra quái thai độc quyền-chuyên quyền-tham quyền, đẻ ra loại ung thư thâm tối mua quyền bán chức, giữa các lực lượng tham quyền để tham nhũng.
Tri, có vai vóc của phân tích tổng quát, có tầm vóc của giải thích toàn bộ, chống cục bộ, nó chống lại chuyện lấy cây che rừng, lấy tay che mặt trời, lấy vải thưa che mắt thánh, trong lãnh đạo chính trị phải hiểu thánh đây chính là dân! Phân tích tổng quát để có nhận định tổng quan, nơi mà quyết định chính trị để làm ra chính sách luôn là một lý luận tổng thể, nơi mà tổng cộng tri thức tới từ tổng công (tổng cộng của công mọi vốn liếng, tiềm lực, tài nguyên…) của dân tộc. Hiểu và thực hiện phương trình 4T (tổng quát-tổng quan-tổng thể-tổng cộng) chính là tài trí của kẻ lãnh đạo.
Tri, có phân chia để phân tích, có phân tách ra để phân loại, nhưng không rơi vào cục bộ để bị rơi vào chia rẽ, chia năm sẻ bẩy sẽ diệt đoàn kết, chia bè sẻ phái thì sẽ giết tương trợ. Minh tri để minh trí, lấy cái công để điều chế cái riêng, luôn chống lại cái phiến diện, nhất là chống lại chuyện lấy riêng rẻ của tư lợi để điều hành cái tổng thể của đất nước, đây chính là lỗi lầm lịch sử của ĐCSVN. Khi họ đã chọn tư quyền chỉ cứu đảng mà không cứu nước, họ đã rơi vào cái bẫy của Hội nghị Thành Đô, 1991, nơi mà ĐCSTQ-Đảng cộng sản Trung Quốc chính là: kẻ cầm cần câu, kẻ móc lưỡi câu, kẻ đưa mồi câu, để ĐCSVN là cá đã cắn câu, để rồi một ngày nào đó Việt tộc sẽ như: cá nằm trên thớt!
Việt đẹp
(đẹp chống tục, chống ngu, chống nhảm)
Việt đẹp là một đất nước đẹp từ địa lý tới cảnh quan, là một dân tộc đẹp từ tâm hồn đau khổ vì chiến tranh tới đạo lý yêu hòa bình, nhưng không chấp nhận xâm lăng, không cúi đầu trước ngoại bang dù là cường quốc. Cái đẹp này người ta thấy trong lịch sử rồi nhận ra được trong văn hóa, để nhận rõ hơn văn minh Việt chính là nhân phẩm Việt, tạo nên bản sắc Việt: luôn bất khuất để giữ độc lập, không khuất phục trước mọi bạo quyền. Đây là chuyện phải rõ trong mọi tư duy bình thường cho mọi lãnh đạo chính trị.
Vậy mà, đầu năm nay 2018, nhân dân Việt “rùng mình” khi nghe thủ tướng chính phủ Nguyễn Xuân Phúc ví đất nước Việt như một cô gái đẹp, với các từ ngữ của hình thể, không có lý luận nên chẳng có lập luận, tới từ một thủ tướng vô tri trong lập ngữ và vô minh lập ngôn. Chưa xong, dân Việt lại “rởn óc” khi nghe có một phó chủ tịch quốc hội, tiếp tục ví đất nước Việt như một cô gái đẹp, với các động từ (rờ, sờ, mó…) loại thô ngữ tục ngôn, tà lý với lời tồi, vô giác với hồn thiêng sông núi vì vô tri với tiền đồ tổ tiên của Việt tộc: thật là từ sỉ nhục qua điếm nhục! Những kẻ lãnh đạo này, vô luận nên vô tri đã lăng nhục đất nước Việt!
Những loại lãnh đạo này vô minh, vô tri, vô giác, họ đã quên là tổ tiên dạy con cháu mỗi lần miệng ra lời, trước đó phải uốn lưỡi nhiều lần; chúng không hề biết uốn lưỡi với mỹ ngữ, mà chỉ biết cong lưỡi để thô ngữ, tục ngôn. Nếu không được giáo dục về đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, vì không được giáo dưỡng đàng hoàng từ gia đình tới học đường, vì không được giáo huấn tử tế từ học đường tới xã hội; thì phải biết tự giáo dục, không khó, rất dễ, họ chỉ cần nghe thật kỹ ca từ các ca khúc tự tình dân tộc của Phạm Duy (tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời). Nghe thật rõ các ca từ về của đất nước Việt của Trịnh Công Sơn:
Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Tay đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà…
Bàn tay ta nắm nối trọn một vòng Việt Nam…
Biển xanh sống gấm nối liền một vòng tử sinh…
(Nối vòng tay lớn).
Nếu không hiểu hồn thiêng sông núi do tổ tiên để lại thì đừng lãnh đạo!
Việt hóa
(3H=hóa-hòa-hợp)
Hóa giải để hòa giải đã có nhiều lần trong Việt sử, từ minh quân tới minh chúa, từ Trần Nhân Tông qua nhiều nguồn xung đột nội chính, trước đại họa xâm lăng của Nguyên Mông, cho tới Quang Trung khi đã tống quân Thanh ra khỏi bờ cõi, lấy lại Thăng Long với những năm tháng dài chia rẽ thâm sâu của nội chiến Trịnh-Nguyễn. Đây là sự thông minh của kẻ lãnh đạo luôn lấy khối đại đoàn kết dân tộc làm nên sức mạnh cho chính lãnh đạo.
Hóa giải để hòa giải có bài học đầu tiên trong lãnh đạo qua đúc kết của thi hào Nguyễn Du: “phải dung kẻ dưới mới là lượng trên”, mà trong tình hình của hơn 40 năm qua, từ khi hòa bình được lập lại, có thống nhất đất nước, 1975, vậy mà các lãnh đạo của ĐCSVN không biết chuyển câu trên thành phương châm mới: phải hòa giải với kẻ bại để hóa giải mọi hậu quả của chiến tranh, để tạo được hòa hợp dân tộc.
Hóa giải để hòa giải luôn là cử chỉ đầu tiên đưa tay-dang tay-nối tay của kẻ thắng trước kẻ bại, không cần bắt đầu bằng xin lỗi, tha tội, mà qua thực tế của đất nước, bằng những hành động cụ thể của mọi người, mọi phía, cùng nhau xây dựng lại quê hương, cùng nhau đưa dân tộc đi lên, đẩy giống nòi thăng hoa với thế giới văn minh.
Hóa giải để hòa giải trong phương châm đa chiều để có đa trí, cùng lúc đa tri để tạo ra đa hiệu, dựa trên đa tài để có đa năng, lấy cái đa để xa cái độc hại của độc quyền qua độc đảng, đây chính là hành động thông minh của lãnh đạo chính trị, biết biến tiềm lực của mọi nơi thành hiệu lực tổng hợp từ mọi phía, tạo ra hiệu quả thống hợp từ mọi tiềm năng của mọi người, mọi tập thể, mọi cộng đồng.
Hóa giải để hòa giải có rễ trong hóa, trong hòa, trong hợp, trong đó hóa giải không những mọi hiềm khích mà luôn cả mọi oan khiên, hòa lấy hòa bình trước mắt chế tác ra thái bình bền vững; hợp biến tổng hợp mọi tiềm năng để tạo ra thống hợp mọi hiệu năng, làm nên thành công của phương trình mà tất cả lãnh đạo đều phải biết: phương trình 3H (hóa-hòa-hợp).
Việt chung
(chung chống riêng, chống độc, chống đặc)
Ngày ngày sống cạnh nhau thì chưa chắc là sống chung, vì đã chung thì không có riêng, vì chung là chia sẻ, chính ngữ pháp cộng sản, cũng từ đó mà ra, nhưng trong thực tế nó chỉ là một khẩu lịnh để tuyên truyền, để đưa đẩy quần chúng, dùng loại ý thức hệ để vận động cộng đồng, rồi dìu dắt quần chúng vào độc đạo của độc đảng, trong đó chuyện lãnh đạo “đánh lận con đen” sẽ bộc lộ rất rõ dưới ánh sáng của sự thật-chân lý-lẽ phải.
Thất bại luân lý, thảm bại đạo lý của người cộng sản là trong thực chất, khi cướp được chính quyền thì chính các đảng cộng sản luôn tạo ra sinh hoạt riêng, đời sống riêng, tổ chức riêng, cơ cấu riêng… chính những cái riêng này mới là thực chất để hiểu rõ bản chất: đứng riêng để đứng trên cái chung của dân tộc, đây là chuyện lừa đảo, dùng chuyên quyền để tham quyền, dụng tham quyền để tham nhũng. Vì cái riêng của họ, dẫn họ vào cái độc (độc đảng, độc quyền, độc tài, độc tôn, độc trị) tạo ra cái đặc (đặc quyền, đặc lợi), dành chỗ đặc biệt để “ăn trên ngồi trốc”, để ăn riêng (ngon), ở riêng (rộng), đây là khởi điểm báo hiệu ngày tàn của một tập đoàn lãnh đạo (nếu không biết tự thay đổi).
Thất bại luân lý vì rổng luân lý, là thảm bại đạo lý vì trống đạo lý, vì giọng lưỡi “là đày tớ cho nhân dân” chỉ là xảo ngữ, đã làm họ phải “tự lột mặt nạ” họ, khi họ tạo ra cái riêng thật ưu đãi cho chính họ. Khi họ lấy hằng trăm mẫu đất cạnh thủ đô Hà Nội, với kinh phí hàng ngàn tỷ đồng để xây nghĩa trang cho cán bộ cao cấp! Một hành động bất chính trắng trợn: lấy tiền người sống để phục vụ cho họ, kể cả khi họ đã rời cõi đời này! Nếu đúng “là đày tớ cho nhân dân” thì tại sao không lấy tiền này để lo cho dân đen, dân oan?
Từ thất bại luân lý này qua thảm bại đạo lý kia, họ còn tự tạo ra đặc lợi riêng là buôn bán cả trên danh nghĩa của các liệt sĩ, bằng cách xây các tượng đài liệt sĩ, cũng hàng ngàn tỷ. Họ có thấy là người sống không có nhà phải vào ở trong nghĩa trang để sống, họ có thấy là các người dân nghèo đang ăn xin chung quanh các tượng đài liệt sĩ.
Thất bại luân lý trước mắt dẫn tới thảm bại đạo lý mai sau, chính cái riêng, cái độc, cái đặc đang nạo diệt cái chung ngay trong tư duy của lãnh đạo ĐCSVN, ngày ngày đưa họ xa cái đồng cam-cộng khổ, cái thương nước-trọng dân, cái vì dân-vì nước, họ làm lãnh đạo mà quên các phương châm này thì khoa học lãnh đạo có thể nhắc họ là: họ đang tự đào mồ mà chôn chính họ!
Việt tri
(Cộng đồng tương trợ hữu cơ)
Cộng đồng tương trợ hữu cơ, nơi mà dân tộc là một cộng đồng khắng khít qua đoàn kết chặt chẽ để chế tác ra tương trợ sống trong một xã hội hữu cơ, không máy móc một cách thẳng thừng, trắng trợn kiểu “tiền trao cháo múc”, lại còn được thô lỗ hóa qua đám từ của một xã hội loạn lạc luân lý như hiện nay: “ăn bánh trả tiền”. Ngược lại hoàn toàn, cộng đồng tương trợ hữu cơ mang nội lực “một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”, có nội công “máu chảy, ruột mềm”, có nội hành liên đới “bầu ơi thương lấy bí cùng”. Đây là một đạo lý hữu cơ, không coi nhân dân là công cụ, không xem quần chúng là dụng cụ, mà là các chủ thể sống vì nhau, vì biết liên đới nhau, biết bảo vệ nhau, nơi mà trái tim đau, thì não cũng đau theo, nơi mà phổi khó thở thì tim cũng không dễ sống.
Cộng đồng tương trợ hữu cơ luôn là bài học đôi cho tất cả các lãnh đạo của các nước văn minh, tiên tiến, nơi mà luân lý cộng đồng, đạo lý tương trợ, đạo đức hữu cơ luôn mang theo hiệu quả sản xuất, hiệu năng quản lý, hiệu suất cho chính sách. Tương trợ để tăng hiệu quả chính là thông minh của chính giới.
Cộng đồng tương trợ hữu cơ đưa nhân thế vào nhân tính, đưa nhân tình vào nhân tính, nơi đây các phản xạ ích kỷ, tư lợi, cá nhân chủ nghĩa không bao giờ có được tầm vóc quốc gia, có vai vóc cộng đồng, có gân cốt của lãnh đạo cao minh vì biết lấy nhân nghĩa làm nhân tri.
Cộng đồng tương trợ hữu cơ đang “dở sống, dở chết” trong xã hội Việt tộc do ĐCSVN lãnh đạo đang bị trật hướng, ngược chiều, với các nội tạng không có thực chất tương trợ hữu cơ, nơi đây mà não bộ lãnh đạo đang bị ung thư óc vì chuyên quyền-bạo quyền-tham quyền, sinh ra cùng với ung thư máu lây lan toàn cơ thể tham quyền-tham ô-tham nhũng, ngày ngày hủy diệt các kháng tố “thương người như thể thương thân” đưa tính mạng của Việt tộc tới nan bịnh, trọng bịnh, bạo bịnh…
Cộng đồng tương trợ hữu cơ sẽ có, nếu các lãnh đạo của ĐCSVN biết chế tác, biết gầy dựng (như mọi lãnh đạo chính trị thông minh của các quốc gia văn minh đã thực hiện được) được ba định đề biến nó thành một chính sách hoàn chỉnh với ý chí chính trị kiên cường: dụng tự do để chế tác công bằng, dùng công bằng để gầy dựng bác ái. Nếu bác ái là tình thương đồng loại, nhất là tình thương dành cho đồng bào, thì chắc chắc bác ái là tiềm năng, động cơ, sung lực cho tương trợ.
Việt tâm
(Hiện hữu tâm linh-tri thức)
Hiện hữu tâm linh-tri thức, là sự có mặt qua các giá trị tâm linh dựa trên một hệ thống tri thức vừa hợp lý vừa trọn vẹn, nơi mà nhân đạo và nhân tri là một tổng thể để đưa nhân tình vào quỹ đạo nhân nghĩa, đây là thử thách tinh thần lớn nhất của sinh hoạt chính trị, và nếu làm được thì sẽ là thành công đạo lý lớn nhất của kẻ lãnh đạo.
Hiện nay, các diễn biến trong quyền lực chính trị thì ai cũng thấy là đang diễn biến hoàn toàn ngược lại, với các lãnh đạo đang thanh toán nhau qua ân oán giang hồ, đang thanh trừng nhau bằng luật rừng, theo phản xạ vô tri thắng làm vua, thua làm giặc, không có đạo đức sẽ không có hậu đây là chân lý khách quan và lịch sử của đạo đức học làm nền cho mọi hành động chính trị.
Chính cái bề trên không những bất tín-bội thề với dân tộc trong phương trình tự do-ấm no-hạnh phúc, mà lại lấy bạo quyền để chuyên quyền đã làm cho các giá trị tinh thần của dân tộc đã bị sa vào bùn bẩn, từ đó các thước đo luân lý cộng đồng, các khuôn mẫu đạo lý tập thể bị suy kiệt tới cùng tận, để trong xã hội hiện nay cái bạo động của cường quyền công an đánh giết quần chúng, làm chất xúc tác xấu cho chuyện phát triển bạo hành trong học đường, trong gia đình, bạo giới của nam đối với nữ.
Cái độc (độc đảng, độc quyền, đôc tài, độc tôn, độc trị) luôn là ổ rắn cho chuyện phát triển cho cái bạo (bạo quyền, bạo động, bạo hành, bạo giới), liên minh giữa độc và bạo sinh ra lầm than trong nhân dân, làm đảo lộn mọi bậc thang tâm linh và tri thức có thể truy diệt được nếu lãnh đạo có bản lĩnh của minh quân, có tầm vóc của minh chúa, có nội công của minh chủ (trong lúc chờ đợi dân chủ rồi nhân quyền thực sự tới với Việt tộc). Chuyện này đã có trong Việt sử qua Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái Tổ, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tôn… biết lấy tâm linh để chỉ đạo, biết dụng tri thức để lãnh đạo.
Các lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN đừng ngụy biện là không có gương sáng, không có mô hình hay, không có khuôn mẫu đẹp để lãnh đạo, hãy học kỹ ba điều có thực trước mắt: học tổ tiên, học láng giềng đã thành công, học thế giới văn minh đang đặt tiền đề cho hiện hữu tâm linh-tri thức cho một nhân loại tốt lành giữa toàn cầu hóa hiện nay.
______
Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie*Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á* Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các bài của giáo sư LÊ HỮU KHOÁ trên Tiếng Dân đã được ANTHRPOL-ASIE xuất bản và các bạn đọc có thể chuyển tải trực tiếp các tác phẩm Trực Luận (l’argumentation directe), Xã Luận (l’argumentation sociétale), Dân Luận (l’argumentation démocratique), Tự Luận (l’argumentation libre), Chính luận (l’argumentation politique), qua Facebook Vùng Khả Luận (trang thầy Khóa).
Mời đọc lại các bài cùng tác giả tại đây.