Nhân trí dân chủ (Phần 1)

GS Lê Hữu Khóa

9-11-2018

Ý tưởng đẹp làm nên ý định hay, ý muốn tốt tạo ra ý chí bền, tất cả chế tác ra ý lực để đấu tranh.

Kiến thức đúng xây tri thức vững, ý thức cao dựng tâm thức sâu, tất cả sáng tạo ra trí lực để đề cao nhân trí.

Sống-nhận-biết-hiểu-thức đó là quá trình của trí, khi được đạo lý hay, đẹp, tốt, lành của nhân mở cửa để tiếp-lọc-chọn-tuyển-giữ; vì thế nhân trí có thể đi từ cá thể tới tập thể, nhưng nhân trí sẽ có nội công vững, bản lĩnh mạnh, có tầm vóc chắc khi nó đi từ tập thể để trở lại với cá thể. Nhân trí dân chủ cũng theo quy trình này, khi một cá thể có hiểu biết đúng để biến thành lập luận đúng, thì tập thể sẽ thấy cái đúng đó không những là kiến thức mà còn là ý thức, và ý thức này sẽ lan toả tới các cá nhân khác chưa có kiến thức và ý thức này. Và khi tất cả (hoặc đa số) có kiến thức và ý thức, thì tập thể và các cá thể đã có cùng một nhận thức. Nhân trí dân chủ có trước thể chế dân chủ, vì nhận thức về dân chủ được cộng đồng, dân tộc hiểu biết và ủng hộ để trở hành tâm thức, nó sẽ được nuôi và dưỡng để biến hoài bão thành thực tiễn qua đấu tranh.

Nhân của lý để dân làm chủ

Nhân trí không bao giờ bị ngưng động, vì kiến thức nhân sinh được bồi đắp thường nhật, dân chủ không bao giờ bị cầm tù, vì đòi hỏi cho công bằng và tự do luôn được khởi động thường xuyên, vì thế nhân trí dân chủ luôn được hoạt kích để thăng hoa trong sinh hoạt tri thức của nhân sinh. Nhưng động cơ nào làm nên sức mạnh của nhân trí dân chủ, tại đây lý luận về dân chủ làm nên các động cơ của các phong trào đấu tranh vì dân chủ:

– Con người làm nên lịch sử của chính con người, nên chính con người phải làm chủ lịch sử của mình qua lý trí, qua trí tuệ, qua tuệ giác của chính mình bằng cách hiểu các quy luật của nhân trí để làm khá lên nhân sinh, làm tốt hơn nhân tình mà mình đang sống, hoặc đang bị chịu đựng.

– Con người có ý thức sẽ làm nên ý lực cho cộng đồng của mình, con người đó với lý trí, trí tuệ, tuệ giác của mình, đã thấy sự thất bại của mọi chế độ công hữu, được cổ suý qua chủ nghĩa xã hội và cộng sản đều thảm bại chỉ vì nó không tôn trọng tự do cá nhân. Mà chính con người cũng thấy chính tự do cá nhân khi biến thành chủ nghĩa ích kỷ, mà quên dân tộc và nhân loại thì tự do ích kỷ này cũng sẽ không có hùng lực để tổ chức xã hội, tức là tổ chức ra sự sống chung có chia sẻ dựa trên công bằng xã hội luôn có mặt trong tự do của cá nhân.

– Con người có nhận thức không cực đoan công hữu, không quá khích tư hữu, nên nhân trí dân chủ tạo ưu tiên cho đa số để giải quyết ba phạm trù thiết yếu của nhân sinh là tự do, công bằng, bác ái, mà vẫn tôn trọng thiểu số, vẫn bảo vệ cá nhân. Đây cũng là lý luận và lập luận của lý trí, trí tuệ, tuệ giác có trong nhân trí, nếu làm mất phương pháp giải luận này, thì sẽ không có thể chế dân chủ.

Khi đã nhận ra ba động cơ trên của nhân trí dân chủ, thì phải tiếp tục diễn luận để thấy các thực trạng khác của một thể chế dân chủ. Khi thiết lập một thể chế có ứng cử và tuyển cử để có dân chủ thì phải thấy là một chế độ dân chủ được nuôi dưỡng bằng chính sức mạnh của nó, trong đó nó phải xử lý hai chuyện cùng một lúc.

– Dân chủ phải biết giải quyết các hành động mỵ dân của bọn chính khách đạo đức giả để được đắc cử, để khi có chính quyền thì chúng sẽ diệt dân chủ, tức là giết tự do, công bằng, bác ái; sinh hoạt dân chủ luôn bị đe doạ, giăng bẫy bởi bọn “mượn đầu heo nấu cháo” của bọn này. Bọn tồi tệ này không hề vắng mặt trong các chế thể dân chủ, cũng như trong lịch sử loài người, chúng không những biết “thừa gió để bẻ măng”, mà chúng còn biết “thừa nước đục để thả câu” với sự gian dối phản dân chủ của chúng, chúng sẽ đưa dân tộc chúng tới đại nạn, vì chúng chỉ tính toán cho chúng, theo con tính “đục nước thì béo cò”, đừng mong chúng kính trọng dân chủ.

– Dân chủ phải biết vượt qua sự khác biệt, sự chênh lệch của chương trình ứng cử và khả năng quản lý chính quyền của người, của nhóm, của đảng thắng cử với một chương trình hay và đẹp mà chính quyền quản lý chương trình này lại bất tài, bất lực thì kẻ đó, nhóm, đảng đó sẽ bất tín, bất trung vì chỉ biết hứa hảo, hứa bừa, hứa liều. Đây là bọn “nói như rồng leo, mà làm như mèo mửa” mà hiện nay, Việt tộc đang phải trả giá rất nặng nề và ác liệt chuyện này của ĐCSVN, với thảm hoạ mất nước trước Tàu tặc.

Từ hai thực tế trên như hai trở lực, tại đây sức mạnh của một thể chế dân chủ là phải biết tự bảo vệ mình: biết lập thân nhưng cũng biết phòng thân chống bọn thâm, độc, ác, hiểm; biết tu thân nhưng cũng phải biết thủ thân trước đám xấu, tồi, tục, dở. Chưa hết, một thể chế dân chủ sáng suốt còn có một nội lực biết thay đổi chính quyền, thay thế chính phủ đúng lúc để tránh hậu nạn cho dân tộc, cho quốc gia trước các đột biến mới mà lực lượng lãnh đạo đương nhiệm không gồng gánh nổi, không “kham” nổi, vì họ không có tâm hoặc không có tầm. Một thể chế dân chủ sáng suốt phải luôn có sự tỉnh táo, không để “nước tới chân mới nhảy”, không để chuyện “mất trâu rồi mới xây chuồng” xảy đến.

Lịch sử cận đại và hiện đại của các thể chế dân chủ cho thấy có hai châu lục: Âu châu và Mỹ châu, bị những suy thoái kính tế sâu rộng, những khủng hoảng thị trường nặng nề, nhưng luôn tự vực mình dậy. Như vậy, bản thân nhân trí dân chủ mang cùng lúc được hai nội chất: biết vượt thoát các thăng trầm, biết vượt thoát các thử thách: biết phục sức và biết hồi sức trước các trở lực.

Nhân của bằng, dân của công

Nhân trí dân chủ biết dụng công bằng để tạo thăng bằng, muốn có công bằng thì dân chủ biết dựa trên công lý để lập ra công pháp và yêu cầu công pháp phải bảo vệ luật pháp. Ý thức về dân chủ phải qua công bằng để có thăng bằng dựa trên pháp quyền được nhận định:

– Con người không còn nhắm mắt chấp nhận chuyện hạnh phúc của người này gây ra khổ đau cho người khác, không chịu đựng nữa cảnh “kẻ ăn ốc, người đổ vỏ”.

Con người không cúi đầu cam chịu chuyện bóc lột, kẻ không làm thì được hưởng, kẻ làm nhiều thì không được gì, chuyện “cốc mò, cò xơi”, lao động để nuôi bọn ký sinh trùng này tạo ra bất công.

– Con người cũng không khoanh tay nhận lãnh bất công “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau” của bọn “ăn trên, ngồi trốc”, bọn cơ hội này mang tiếng là đầy tớ của dân, nhưng chúng biến của công thành của cải của chúng.

– Con người không còn cúi đầu với bọn “cướp ngày là quan”, chúng là bọn “sâu dân, mọt nước”, đừng mong chúng yêu nước, đừng chờ chúng tôn trọng dân chủ, và phải chuẩn bị tinh thần các hành động cứu nước đối với bọn này, vì chúng vì tự lợi mà sẵn sàng bán nước.

Đây chính là thảm hoạ của Việt tộc từ khi có ĐCSVN với các lãnh đạo vô sản hứa với dân là sẽ xoá chuyện người bóc lột người, nhưng trong thực tế hằng ngày, chính bọn tham quan của ĐCSVN đang biến hằng triệu dân chúng thành dân đen, dân oan. Thực thể dân đen-dân oan đang còn đầy rẫy trong xã hội Việt Nam hiện nay là minh chứng của một xã hội bất công, không hề có công bằng, mà chỉ có oan nghiệp của dân đen, và oan khiên của dân oan, xã hội này không hề là một xã hội dân chủ.

Khi nhân trí dân chủ khởi xướng công bằng là một ý chí cho một thể chế dân chủ, thì chính ý chí này đã tham gia tích cực vào chuyện loại ra được ý thức hệ đấu tranh giai cấp, rất sắc máu trong các chế độ độc đảng phản dân chủ mà Việt tộc phải trả giá rất đắc trong giai đoạn cải cách ruộng đất, giữa thế kỷ XX vừa qua. Tại đây, dân chủ phải biết bảo vệ công bằng trước các đòi hỏi bức bách của tự do, nhưng phương pháp luận để giải quyết các ẩn số của tự do phải được lập luận dựa trên hằng số của công bằng, mà không quên sự trợ lực của hàm số bác ái. Chính các chế độ độc tài, độc đảng khi muốn áp đặt toàn quyền của nó để toàn trị thì nó đã bẻ gãy thế liên minh của tự do-công bằng-bác ái, và nó sẽ thất bại trên cả ba mặt trận này. Nếu độc tài toàn trị mà không có tự do-công bằng-bác ái thì nó sẽ vô hậu, vì bản chất của nó là bất nhân!

Nhân trí dân chủ chống lại độc tài toàn trị không những qua nhân đạo, nhân phẩm, nhân từ có trong nhân lý, nhân tri, nhân trí, mà dân chủ còn chống độc tài qua hiệu quả của quản lý xã hội bằng hiệu năng của lãnh đạo chính trị bằng đa nguyên, có bản lĩnh của đa tài và tầm vóc của đa trí. Cái tham quyền sinh ra tham quan trong độc tài toàn trị đẻ ra hoạn quan gây hoạn bịnh cho cả một dân tộc luôn là đối tượng đấu tranh của nhân trí dân chủ ra đời để dẹp độc tài toàn trị. Muốn làm được chuyện này, nhân trí dân chủ phải bảo đảm được sự an toàn hạnh phúc của cặp tự do-công bằng, để cả hai luôn song hành với nhau, vì mọi lý do ly thân hoặc ly hôn của hai phạm trù này sẽ làm mất dân chủ.

Trí của thật và trí của thiện

Dân chủ là tổng kết lý trí về sự thật, dân chủ là tổng hợp trí tuệ về sự thiện, không có hai nội chất thậtthiện, thì tất cả câu chữ về dân chủ đều giả mạo, gian dối, chỉ là chiêu bài đánh lận con đen.

Con người có cả một thế kỷ XX để thử nghiệm và nhiều quốc gia đã trải nghiệm về chủ nghĩa xã hội, với hứa hẹn đi lên cộng sản chủ nghĩa như thăng hoa lên một thiên đường: tất cả đều là ảo vọng! Mà nền móng là một sự dối trá, mà từ gốc tới ngọn, chỉ là một sự lọc lừa, với bao thảm hoạ. Mọi thảm hoạ đều gây ra hậu nạn, từ độc tài tới đàn áp, tù đày con dân của chính mình, từ công an trị tới bần cùng hoá dân tộc, từ tham ô tới tham nhũng mọi tầng, mọi cấp. Đây là địa ngục chớ không phải thiên đường: từ bòn rút mọi tài nguyên của đất nước tới kiệt quệ tới tiêu diệt công bằng tới sản sinh ra nghèo đói, với dân oan gào thét giữa đường phố vì bị mất đất, mất nhà, màn trời chiếu đất; tới dân đen cúi đầu trong túng quẩn, trắng tay cả kiếp người.

Các nhà lãnh đạo chính trị tài ba của nhân loại, các hiền sĩ sáng suốt của nhân sinh, các đạo sư của các đạo giáo… tất cả đều công nhận là chủ nghĩa xã hội đã thất bại như bao chủ nghĩa khác trong lịch sử của con người khi chúng muốn biến tư hữu thành công hữu, với ảo giác mê loạn về cộng sản chủ nghĩa. Mà thực chất của nó là luôn mang theo độc tài, trong thực chất là nó phản dân chủ vì nó phản dân tộc nó, tổ tiên nó, đất nước nó…

Từ thế kỷ XX, giờ tới kỷ XXI, nó mang theo từ tù đày tới thảm sát; miệng nó hứa thiên đường cho quần chúng, nhưng thực tế chỉ có lũ lãnh đạo chóp bu là được hưởng thiên đường trong sa đoạ. Khốn nạn nhất là nó chỉ mang địa ngục vào thẳng cuộc sống xã hội, khi nó xem sinh mạng của đồng bào nó chỉ là công cụ cho nó bóc lột; khi nó xem tính mạng của đồng loại nó như súc vật chỉ để phục dịch nó; khi không còn gì để bòn rút, thì nó xem sinh linh trong nhân sinh như cỏ rác. Nó mang vô cảm vào quan hệ xã hội vì nó vô nhân; nó đưa vô tri vào giáo dục vì nó muốn ngu dân hoá; nó cấy vô giác vào cộng đồng để thiêu huỷ các giá trị luân lý; nó tạo ra vô minh trong nhân thế để xoá diệt thông minh của nhân trí.

Bọn đầu sỏ độc tài cũng là bọn đầu nậu tiền của, tài nguyên của dân tộc, chúng là bọn đầu cơ quyền lực qua tà quyền khi biến quyền lực thành quyền lợi của riêng chúng, rồi thành tư lợi trong túi riêng của chúng, chúng ác khi có quyền, chúng hèn khi mất nước, chúng sẽ cao bay xa chạy rất mau khi chúng mất quyền. Kiếp đầu sỏ-đầu nậu-đầu cơ của bọn chóp bu này là tay chúng vơ vét, nhưng miệng chúng vẫn nghêu ngao chuyện chủ nghĩa xã hội, thiên đường cộng sản. Chúng lẩn khuất trong bóng tối để buôn chức bán quyền, vì chúng rất thạo các chuyện buôn thần bán thánh; đừng ngạc nhiên khi chúng buôn dân bán nước, khi mà quyền lực-quyền lợi của chúng chỉ là một, đã thành tà quyền của lũ âm binh như chúng.

Bọn chóp bu độc tài này sợ dân chủ, vì thích u hơn hiển, thích tối hơn sáng, thích đi đêm với tà đạo hơn thích bảo vệ chính nghĩa. Đừng mong chờ chúng thông báo các thống kê chân thật về các cuộc tàn sát do chúng chủ mưu: cải cách ruộng đất (1954-1956), Tết Mậu Thân (1968), Trại học tập (1975-1990), cùng hàng triệu người mất mạng ngoài khơi, vì không có đường sống ngay trên chính quê hương của họ… Và, dòng người bỏ quê hương để qua xứ người không hề dừng, họ phải đi để bảo vệ nhân phẩm, nhân cách, nhân tri, nhân tính của chính họ, vì họ không chấp nhận âm binh lãnh đạo số kiếp của họ, quyết định phần số của họ, họ không thể tiếp tục bị cai trị bởi tà quyền, lẩn tránh dân chủ, như âm binh luồn lách trong bóng tối để tránh mặt trời của sự thật, của chân lý, của lẽ phải!

Các thảm kịch do ĐCSVN gây ra, thường kéo theo cái hài kịch (cũng vô cùng thảm hại) của bọn tay sai, bị nó o ép, thao túng, giật dây, đó là hài kịch thấp hèn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong tuần lễ “cầu siêu” cho chủ tịch nước Trần Đại Quang, vừa bị đồng chí của hắn truy sát tới bức tử bằng vi trùng lạ và hiếm, trong tuần lễ từ 23 tới 28 tháng 9 năm 2018. Cầu siêu cho một lãnh tụ cộng sản, từ ý thức hệ tập thể tới tuyên thệ cá nhân là: vô thần? Cầu siêu cho một đầu sỏ công an tay vấy máu của đồng bào Tây Nguyên cuối thế kỷ qua với hằng trăm nạn nhân tử vong? Cầu siêu cho tên đầu sỏ công an tác giả các cuộc đàn áp không thương tiếc các đồng bào yêu nước xuống đường chống Tàu tặc cướp đất, biển, đảo của Việt tộc? Cầu siêu cho tên đầu cơ tham nhũng buôn quyền bán đất cho bọn đầu nậu bất động sản, biến hằng ngàn bây giờ lên hằng triệu dân chúng, một sớm một chiều mất đất, mất nhà, thành dân oan lầm than trên các nẻo đường của đất nước?

Tại sao Giáo hội Phật giáo Việt Nam không cầu siêu cho các nạn nhân đã bị vong mạng mà thủ phạm chính là hắn, một trong những đầu sỏ? Tại sao lại có chuyện ngược đời trong cách hiểu giáo lý nhà Phật như vậy? Phải cầu siêu cho nạn nhân chứ! Chưa hết, nếu làm tay sai thì phải nịnh chủ, cho nên trong đám ma sư này có một đày tớ trung thành tới điên dại dám ví: “Đỗ Mười là Bồ tát”, mà chính nhân vật đầu sỏ Đỗ Mười này đã làm đầu nậu cho chuyện đầu cơ bán nước trong mật nghị Thành Đô cùng Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh… Ma sư khi ví đồ tể là Bồ tát thì thật là thấp hơn súc sinh mới dám so sánh như vậy! Ma sư mượn áo nhà tu để tuyên bố một loại xảo ngữ phản chánh kiến, nơi mà chánh kiến là gốc rễ cho chánh niệm là nguồn cội cho chánh ngôn trong Phật giáo.

Dân Việt không lầm trước bọn sư quốc doanh, giờ thành sư công an, rồi hoá ra sư tuyên giáo, với loại xạo ngôn khẩu Phật tâm xà kiểu này, cho nên các phật tử chân chính mới đặt tên cho bọn tay sai điêu ngôn này là: ma tăng! Thật sự là chúng còn thấp hơn ma, nên chúng sẽ không bao giờ thành tăng được.

_____

Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie*Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á* Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

Các bài của giáo sư LÊ HỮU KHOÁ trên BÁO TIẾNG DÂN đã được ANTHRPOL-ASIE xuất bản và các bạn đọc có thể chuyển tải trực tiếp qua TRỰC LUẬN (l’argumentation directe), XÃ LUẬN (l’argumentation sociétale) http://bit.ly/2OMGXH9 trong VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

Mời đọc lại các bài cùng tác giả: Thư gởi tuổi trẻ của Việt tộc  —  Thư gởi các đảng viên của ĐCSVN: Trả lại thẻ đảng để nhận lại nhân phẩm Việt!  —  Thư gởi các ủy viên Bộ Chính trị đảng CSVN  —  Thư gởi các đại biểu Quốc hội: Cúi đầu bấm nút, rồi cúi đầu quỳ gối!  —  Thư gởi các Bộ trưởng của chính phủ: Chạy chức hay chạy dân? —  Thư gởi các nhà lãnh đạo tương lai của Việt tộc: Lãnh đạo nhận nhân lý, nhập nhân trí  —  Một xã hội bị tàu nạn hóa (Phần 1)  —  Một xã hội bị tàu nạn hóa (Phần 2)  — Một xã hội bị tàu nạn hóa (Phần 3) —  Một xã hội bị âm binh hóa (Phần 1)  —  Một xã hội bị âm binh hóa (Phần 2)  —  Một xã hội bị khổ sai hóa (Phần 1) —  Một xã hội bị khổ sai hóa (Phần 2)  — Một xã hội bị ngu dân hóa (Phần 1)  — Một xã hội bị ngu dân hóa (Phần 2)  —  Một xã hội bị ngu dân hóa (Phần 3)  —  Một xã hội bị ngu dân hóa (Phần 4) —  Nhân lý dân chủ (Phần 1)  —  Nhân lý dân chủ (Phần 2) —  Nhân tri dân chủ (phần 1)  —  Nhân tri dân chủ (phần 2)Nhân tri dân chủ (phần 3)

Bình Luận từ Facebook