Tác giả: Nouriel Roubini
Đỗ Kim Thêm, dịch
25-2-2022
Lời người dịch: Khác hẳn với các ảnh hưởng của nạn COVID-19 lên nền kinh tế toàn cầu, kể từ cuối năm 2021, giá dầu thô đã tăng, nhưng ngay sau khi Nga xâm lược Ukraine, giá đã tăng khoảng 1/3.
Cuộc tranh luận hiện nay của chính giới về việc ngừng nhập năng lượng do Nga cung cấp đang gây nhiều biến động lên thị trường chứng khoán, khiến giá dầu tăng nhanh lên mức cao nhất kể từ năm 2008.
Trong phiên giao dịch đầu tuần này, giá một thùng dầu tăng lên gần 18%, 139,13 đô la Mỹ và do đó gần với mức kỷ lục gần 150 đô la Mỹ trong mùa hè năm 2008. Hiện nay, giá dầu Brent mới nhất đã tăng lên gần 11% tương đương 12,57 đô la Mỹ, 130,67 đô cho một thùng.
Vì lo sợ chiến cuộc sẽ leo thang hơn, nên Mỹ đang thảo luận với các đồng minh châu Âu về khả năng cấm nhập khẩu dầu từ Nga. Các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc hơn cho Nga đang xúc tiến.
Thị trường chứng khoán châu Âu cũng chịu áp lực nặng nề do những thông báo này. Chỉ số hàng đầu của thị trường chứng khoán Đức đạt mức cao kỷ lục khoảng 16.290 điểm vào tháng 11 năm ngoái, hiện nay đã giảm xuống còn 13.000 điểm và có thể đi xuống thấp hơn trong thời gian tới.
Chính phủ Đức đã tỏ ra phản ứng thận trọng khi từ chối yêu cầu tẩy chay vì lo sợ tình trạng khan hiếm và lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Tóm lại, các nhận định của Nouriel Roubini trong bản dịch sau đây là bi quan, nhưng các ảnh hưởng của chiến tranh Ukraine cho nền kinh tế toàn cầu sẽ còn có những hiệu ứng càng khó lường đoán và nguy hại hơn.
***
Thật hấp dẫn khi nghĩ rằng cuộc chiến ở Ukraine sẽ chỉ có một tác động kinh tế và tài chính nhỏ trên toàn cầu, vì Nga chỉ chiếm có 3% trong nền kinh tế thế giới. Nhưng các nhà hoạch định chính sách và các nhà phân tích tài chính cần tránh những ước vọng như vậy.
Vào cuối tháng 12, tôi đã cảnh báo rằng năm 2022 sẽ khó khăn hơn nhiều so với năm 2021, một năm mà các thị trường và các nền kinh tế trên toàn thế giới nhìn chung là tốt, với tăng trưởng vượt lên trên tiềm năng sau cuộc suy thoái lan tràn vào năm 2020.
Trước thềm năm mới, rõ ràng là sự gia tăng lạm phát sẽ không chỉ là tạm thời, mà virus corona luôn biến dạng sẽ tiếp tục gieo rắc tình trạng bất trắc trên toàn thế giới và những rủi ro về địa chính trị lờ mờ đang trở nên nghiêm trọng hơn. Đầu tiên trong số ba mối đe dọa địa chính trị mà tôi đã đề cập là việc Tổng thống Nga Vladimir Putin cho tập trung quân đội gần biên giới Ukraine.
Sau hai tháng ngừng khởi động ngoại vận và các cuộc đàm phán bất tín nhiệm từ phía điện Kremlin, Nga hiện nay đã phát động một cuộc xâm lược Ukraine toàn diện, theo những gì các giới chức Mỹ nói là một hoạt động để “xử trảm” chính phủ hiện nay do dân bầu. Bất chấp những cảnh báo lặp đi lặp lại của chính quyền Biden rằng Nga tham chiến một cách nghiêm trọng, các hình ảnh xe tăng và phi đội trực thăng Nga tấn công Ukraine đã gây sốc cho thế giới.
Hiện nay, chúng ta phải lượng định những hậu quả kinh tế và tài chính của sự phát triển lịch sử này. Bắt đầu với một sự quan sát địa chính trị quan trọng: Đây là một sự leo thang chủ yếu của Chiến tranh Lạnh lần thứ hai, trong đó bốn cường quốc xét lại – Trung Quốc, Nga, Iran và Bắc Triều Tiên – đang thách thức sự thống trị toàn cầu lâu đời của Hoa Kỳ và trật tự quốc tế do phương Tây lãnh đạo đã tạo ra, sau Thế chiến thứ hai.
Trong bối cảnh đó, chúng ta đã bước vào một cuộc suy thoái về địa chính trị mà nó sẽ có những hậu quả toàn diện về kinh tế và tài chính mà nó vượt ra ngoài Ukraine. Đặc biệt, hiện nay, một cuộc chiến tranh nóng bỏng giữa các cường quốc có nhiều khả năng xảy ra trong thập niên tới. Khi sự cạnh tranh chiến tranh lạnh mới giữa Mỹ và Trung Quốc tiếp tục leo thang, Đài Loan cũng sẽ ngày càng trở thành một điểm nóng tiềm tàng, khiến cho phương Tây chống lại liên minh mới nổi dậy của các cường quốc xét lại.
Tình trạng suy thoái do vừa trì trệ, vừa lạm phát
Một rủi ro lớn hiện nay là các thị trường và các nhà phân tích chính trị sẽ đánh giá thấp các tác động của sự thay đổi chế độ địa chính trị này. Vào cuối phiên giao dịch ngày 24/2 – ngày xảy ra cuộc xâm lược – thị trường chứng khoán Mỹ đã tăng điểm với hy vọng rằng cuộc xung đột này sẽ làm trì trệ việc sẵn sàng tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và các ngân hàng trung ương khác. Nhưng cuộc chiến Ukraine không chỉ là một cuộc xung đột nhỏ, không gây tác hại về mặt kinh tế và tài chính thuộc loại này mà người ta thấy ở những nơi khác trong những thập niên gần đây. Các nhà phân tích và nhà đầu tư không được phạm sai lầm tương tự như trước Thế chiến thứ nhất, khi hầu như không ai thấy một cuộc xung đột toàn cầu lớn sắp xảy ra.
Cuộc khủng hoảng ngày nay thể hiện cho một bước nhảy vọt lượng tử địa chính trị. Các hiệu ứng và ý nghĩa lâu dài của nó khó có thể bị phóng đại. Về mặt kinh tế, một tình trạng suy thoái vừa do lạm phát vừa do trì trệ trên trong toàn cầu hiện nay rất có khả năng xảy ra. Các nhà phân tích đã tự hỏi, liệu Fed và các ngân hàng trung ương quan trọng khác có thể đạt được một cuộc hạ cánh an toàn từ cuộc khủng hoảng này và hậu quả của nó hay không. Đừng trông chờ vào việc này. Cuộc chiến ở Ukraine sẽ gây ra một cú sốc về nguồn cung tiêu cực toàn diện trong một nền kinh tế toàn cầu mà nó vẫn còn đang chao đảo vì COVID-19 và sự thành hình kéo dài cả năm của các áp lực lạm phát. Cú sốc sẽ làm giảm tăng trưởng và tăng lạm phát hơn nữa vào thời điểm khi các lo âu về lạm phát vốn dĩ đã không bình ổn.
Tác động thị trường tài chính trong ngắn hạn của cuộc chiến đã rõ ràng. Đối mặt với một cú sốc quy mô vừa lạm phát vừa trì trệ, các thị trường chứng khoán trên toàn cầu có thể sẽ chuyển từ phạm vi điều chỉnh hiện tại (-10%) cho đến lãnh thổ thị trường (-20% trở lên). Doanh thu từ các trái phiếu an toàn của chính phủ sẽ giảm sút trong một thời gian và sau đó tăng sau khi lạm phát trở nên giảm. Giá dầu và khí đốt tự nhiên sẽ tăng vọt hơn nữa – lên trên 100 đô la/thùng – cũng như nhiều giá thương phẩm khác vì cả Nga và Ukraine đều là những nhà xuất khẩu quan trọng về nguyên liệu và thực phẩm. Các loại tiền tệ an toàn như đồng franc Thụy Sĩ sẽ mạnh lên và giá vàng sẽ tăng hơn nữa.
Hậu quả kinh tế và tài chính từ chiến tranh và cú sốc lạm phát tất nhiên là kết quả sẽ lớn nhất ở Nga và Ukraine, tiếp theo là Liên minh châu Âu, do sự phụ thuộc nặng nề vào khí đốt của Nga. Nhưng ngay cả Mỹ cũng sẽ phải gánh chịu. Bởi vì các thị trường năng lượng thế giới đang hội nhập rất sâu xa, sự gia tăng đột biến của giá dầu trên toàn cầu – được tính theo tiêu chuẩn của Brent – sẽ ảnh hưởng mạnh đến giá dầu thô của Mỹ (West Texas Intermediate).
Đúng, Hoa Kỳ hiện nay là một nước nhỏ về xuất khẩu ròng năng lượng; nhưng sự phân bố vĩ mô của cú sốc sẽ là tiêu cực. Trong khi một tập họp nhỏ các doanh nghiệp năng lượng sẽ thu lợi nhuận cao hơn, các hộ gia đình và doanh nghiệp sẽ trải qua một cú sốc giá toàn diện, khiến cả hai giảm chi tiêu. Với những động lực này, ngay cả một nền kinh tế Mỹ mạnh mẽ cũng sẽ bị suy giảm mạnh một cách khác, nghiêng về suy thoái tăng trưởng. Tình trạng tài chính nghiêm chặt hơn và những tác động kết quả đối với niềm tin của nhà doanh nghiệp, người tiêu dùng và nhà đầu tư sẽ trầm trọng thêm những hậu quả vĩ mô tiêu cực của cuộc xâm lược của Nga, cả ở Mỹ và trên toàn cầu.
Các biện pháp trừng phạt sắp tới đối với Nga – dù lan rộng hay hạn chế, và dù cần thiết để răn đe trong tương lai – chắc chắn sẽ làm tổn thương không chỉ Nga mà cả Mỹ, phương Tây và các thị trường mới nổi. Như Tổng thống Mỹ Joe Biden đã nhiều lần nói rõ trong các tuyên bố công khai của mình với người dân Mỹ, “bảo vệ tự do cũng sẽ phải trả giá cho chúng ta ở trong nước. Chúng ta cần phải thành thực về điều đó“.
Hơn nữa, người ta không thể loại trừ khả năng mà Nga sẽ đáp trả các lệnh trừng phạt mới của phương Tây bằng các đối sách riêng: Cụ thể là giảm mạnh sản lượng dầu để đẩy giá dầu toàn cầu lên cao hơn nữa. Một động thái như vậy sẽ mang lại lợi thuần cho Nga cho đến chừng nào mà sự gia tăng phụ thuộc về giá dầu lớn hơn so với việc thất lợi xuất khẩu dầu. Putin biết rằng, có thể gây ra thiệt hại bất đối xứng cho các nền kinh tế và thị trường phương Tây, bởi vì Putin đã dành phần lớn thời gian tốt hơn trong thập niên qua để xây dựng một quỹ chiến tranh và tạo ra một lá chắn tài chính chống lại các lệnh trừng phạt kinh tế bổ sung.
Kiểm soát thiệt hại bị hạn chế
Một cú sốc nặng nề về vừa trì trệ và vừa lạm phát cũng là một kịch bản đầy ác mộng đối với các ngân hàng trung ương, sẽ bị thiệt hại nếu họ phản ứng và cũng bị thiệt hại nếu họ không phản ứng. Một mặt, nếu họ quan tâm chủ yếu đến tăng trưởng, họ nên trì hoãn tăng lãi suất hoặc thực hiện chúng chậm hơn. Nhưng trong môi trường ngày nay – nơi lạm phát đang gia tăng và các ngân hàng trung ương đã đứng sau khúc tuyến – việc thắt chặt chính sách chậm hơn có thể gây bất ổn về các lo âu lạm phát, làm trầm trọng thêm tình trạng vừa lạm phát và trì trệ.
Mặt khác, nếu các ngân hàng trung ương cắn răng cam chịu và vẫn hiếu chiến (hoặc trở nên diều hâu hơn), cuộc suy thoái đe doạ sắp xảy ra sẽ trở nên nghiêm trọng hơn. Lạm phát sẽ được chiến đấu với các mức độ chính sách danh nghĩa và thực tế cao hơn, tăng giá tiền, và do đó làm giảm nền kinh tế nói chung. Chúng ta đã xem bộ phim này hai lần trước đây, với những cú sốc giá dầu năm 1973 và 1979.
Việc tái diễn hôm nay sẽ gần như tệ hại. Mặc dù các ngân hàng trung ương nên đối mặt với sự trở lại của nạn lạm phát một cách mạnh mẽ, họ rất có thể sẽ cố gắng để tránh né nó, như họ đã làm trong thập niên 1970. Họ sẽ lập luận rằng vấn đề chỉ là tạm thời và chính sách tiền tệ không thể gây ảnh hưởng hoặc thu hồi một cú sốc cung tiêu cực từ bên ngoài đến. Khi thời điểm của sự thật đến, họ có thể sẽ nhắm mắt, chọn tốc độ thắt chặt tiền tệ chậm hơn để tránh gây ra một cuộc suy thoái, thậm chí còn nghiêm trọng hơn. Nhưng điều này sẽ làm biến động trong ngắn hạn các kỳ vọng lạm phát hơn nữa.
Trong khi đó, các chính trị gia sẽ cố gắng giảm bớt cú sốc tiêu cực về nguồn cung. Mỹ sẽ cố gắng giảm thiểu sự gia tăng giá xăng dầu bằng cách giảm Quỹ Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược và thúc đẩy Saudi Arabia sử dụng công suất dự phòng để tăng sản lượng dầu riêng. Nhưng những biện pháp này sẽ chỉ có tác động hạn chế, bởi vì những lo ngại rộng rãi về việc tăng giá hơn nữa sẽ dẫn đến việc tích trữ các nguồn cung cấp năng lượng toàn cầu.
Trong hoàn cảnh mới này, Mỹ sẽ cảm thấy áp lực nhiều hơn để đạt được một thoả ước với Iran – một nguồn dầu tiềm năng khác – về việc khôi phục thỏa thuận hạt nhân năm 2015. Nhưng Iran thực sự liên minh với Trung Quốc và Nga, và các nhà lãnh đạo của họ biết rằng, bất kỳ thỏa thuận nào họ làm hôm nay có thể bị gạt sang một bên vào năm 2025 nếu Donald Trump hoặc một người muốn như Trump lên nắm quyền ở Mỹ. Do đó, một thỏa thuận hạt nhân mới với Iran là không thể.
Tồi tệ hơn, trong trường hợp không có một thoả hiệp, Iran sẽ tiếp tục thúc đẩy chương trình hạt nhân của mình, làm tăng nguy cơ Israel sẽ tiến hành một cuộc tấn công chống lại các cơ sở của mình. Điều đó sẽ mang lại một cú sốc nguồn cung tiêu cực kép cho nền kinh tế toàn cầu. Kết quả là, những hạn chế địa chính trị khác nhau sẽ hạn chế nghiêm trọng khả năng của phương Tây trong việc chống lại cú sốc lạm phát do cuộc chiến ở Ukraine gây ra.
Một vấn đề cũ và mới
Các nhà lãnh đạo phương Tây cũng không thể dựa vào chính sách tài chánh để chống lại những tác động làm giảm tăng trưởng của cú sốc Ukraine. Thứ nhất, Mỹ và nhiều nền kinh tế tiên tiến khác đang cạn kiệt phương tiện tài chính, đã tận dụng tất cả các biện pháp đình chỉ để đối phó với đại dịch COVID-19. Chính phủ các nước đã có nhiều thâm hụt ngày càng tăng lên, gây mất bền vững, và việc phục vụ các khoản nợ này sẽ trở nên đắt hơn nhiều trong một bối cảnh lãi suất cao hơn.
Hơn nữa, một biện pháp kích lệ bằng ngân sách là đối sách sai lầm đối với cú sốc cung ứng vừa làm lạm phát và trì trệ. Mặc dù nó có thể làm giảm tác động tăng trưởng tiêu cực của cú sốc, nhưng nó sẽ làm tăng áp lực lạm phát. Và nếu các nhà hoạch định chính sách dựa vào cả hai chính sách vừa tiền tệ và ngân sách để đối phó với cú sốc, hậu quả vừa lạm phát và vừa trì trệ sẽ trở nên nghiêm trọng hơn, do ảnh hưởng cao đến các kỳ vọng lạm phát.
Các chính sách kích lệ về tiền tệ và ngân sách khổng lồ mà các chính phủ đưa ra sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 không phải là lạm phát vì nguồn gốc của cú sốc đó là ở phía nhu cầu, được thúc đẩy bởi cuộc khủng hoảng tín dụng vào thời điểm lạm phát thấp và dưới mục tiêu. Tình hình hiện nay hoàn toàn khác. Chúng ta đang phải đối mặt với một cú sốc nguồn cung tiêu cực trong một thế giới nơi mà lạm phát đã tăng và trên mục tiêu.
Thật hấp dẫn khi nghĩ rằng cuộc xung đột Nga – Ukraine sẽ chỉ có tác động kinh tế và tài chính nhỏ và tạm thời. Rốt cuộc, Nga chỉ chiếm 3% nền kinh tế toàn cầu (và Ukraine ít hơn nhiều). Nhưng các quốc gia Ả Rập đã áp đặt lệnh cấm vận dầu mỏ vào năm 1973 và cuộc cách mạng ở Iran vào năm 1979, cho thấy một phần, thậm chí còn nhỏ hơn trong GDP toàn cầu so với Nga ngày nay. Tác động toàn cầu trong cuộc chiến của Putin sẽ được chuyển qua dầu mỏ và khí đốt tự nhiên, nhưng nó sẽ không dừng lại ở đó. Các hiệu ứng đánh mạnh sẽ giáng một đòn vào niềm tin trong toàn cầu vào thời điểm mà sự phục hồi mong manh từ đại dịch đã bước vào giai đoạn bất trắc sâu đậm hơn và các áp lực về lạm phát đang gia tăng.
Những tác động của cuộc khủng hoảng Ukraine – và từ cuộc suy thoái địa chính trị rộng lớn hơn mà nó cảnh báo cho tương lai – sẽ là khác hẳn, bất cứ mọi điều có thể xảy ra mà không phải là tạm thời.
_______
Tác giả: Ông Nouriel Roubini là giáo sư Kinh tế học hồi hưu, Phân khoa Kinh doanh Stern, Đại học New York, Kinh tế trưởng của Atlas Capital Team, Giám đốc điều hành của Roubini Macro Associates và đồng sáng lập TheBoomBust.com, Chuyên gia trong Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Clinton và làm việc cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ và Ngân hàng Thế giới. Trang web riêng là NourielRoubini.com. Ông còn là người điều khiển chương trình NourielToday.com.
Chỉ thấy lũ cướp nga và putin giết người Ukraine và thôn tính lãnh thổ. Bắt đầu từ thời liên bang xô viết và stalin
Đúng như tôi đoán trước, Putin ra lệnh “cắt đường ống dẫn Gas Nord Stream 1 tới Đức” là một hành động “dồn Đức vào chân tường”, và đây là kết quả :
“MiG-29 für die Ukraine? Der brisante Dreiecks-Deal mit den Nato-Kampffliegern – FOCUS Online
MiG-29 für die Ukraine? Der brisante Dreiecks-Deal mit den Nato-Kampffliegern – FOCUS Online
Polen ist zur sofortigen Lieferung seiner Kampfflugzeuge vom Typ MiG-29 an die USA bereit, die diese der Ukraine zur Verfügung stellen könnten. Polen sei bereit, die sowjetischen Kampfjets zum US-Stützpunkt Ramstein zu liefern und den USA „kostenlos und unverzüglich“ zur Verfügung zu stellen, erklärte das polnischeAußenministerium am Dienstagabend. Berichten zufolge sollen die Maschinen anschließend der Ukraine geliefert werden, deren Piloten an diesem Typ geschult sind.”
Chết mẹ mày chưa Pút ???
Vừa hôm qua, Ba land vẫn còn ngại không dám trợ giúp vũ khí tấn công cho Ucraine. Đức bị “dồn vào chân tường”, nên đã “bán MIG-29” với giá 1€ một chiếc cho Ba lan, để Balan chuyển giao cho Ucraine gián tiếp qua trung gian Mỹ !
Vừa sợ, nhưng cũng vừa hồi hộp chờ xem chú Pút có dám “bấm nút đỏ vũ khí hạt nhân” hay không !
Vậy là “Ngày tàn của bạo chúa” sắp tới gần !!!
Chính vì Đức là “mắt xích yếu nhất” của NATO, nên vừa rồi, sau khi không “loại được Đức ra khỏi cuộc khủng hoảng”, Putin ra lệnh ngưng Nord Stream 1 !
Như vậy, dù Đức lừng khừng hay không lừng khừng, thì cũng bị Put “dồn vào chân tường”.
Tôi nghe phong thanh, rằng Đức có thể “chống chọi được trong vòng 1 năm”, nếu giả sử bây giờ nguồn Gas từ Nga hoàn toàn bị cắt đứt. Nhưng có thể thấy rằng, Putin không có dấu hiệu ngưng chiến, mà quyết bắt Ucraine phải quỳ gối chấp nhận tất cả những gì ông ta đòi hỏi .
Như vậy, 1 năm không đủ để Đức thoát khỏi sự lệ thuộc Năng lượng vào Nga của mình .
Tôi đã từng cho rằng, cuộc chiến Ucraine không còn nằm trong phạm vi “cuộc chiến khu vực”, mà nó thực chất đã trở thành “cuộc chiến uỷ nhiệm”, giữa Nga và Tây Âu, bởi Tổng thống Ucraine cũng thề quyết tử (và thực tế thì Zelenski cũng đang quyết tử tại Kiew), khi ông yêu cầu NATO và Mỹ viện trợ Vũ khí cho ông ( Ông nói : “Hãy đưa vũ khí cho chúng tôi, và chúng tôi sẽ làm phần Job của mình !”.
Putin đã quá đáng khi hành xử với Đức như vậy . Cắt Gas từ Nord Stream 1 đối với Đức sẽ giống như Nhật hoàng tấn công Trân Châu Cảng của Mỹ thời thế chiến hai, làm cho Mỹ không thể không tham chiến !
Cứ yên cái tâm. Huê Kỳ đang ve vãn “tên độc tài” Nicolas Maduro ở Venezuela, nhằm mục đích tiêu diệt “đại đế” Putin. Châu Âu việc gì phải lo, có Huê Kỳ cung cấp các kiểu “con đà điểu”, cùng sự ủng hộ của những người có lương tri và yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Vị thế “lãnh đạo thế giới” của Huê Kỳ và châu Âu sẽ “sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”.
(dân ngu vẫn thắc mắc: Huê Kỳ và phương Tây “lãnh đạo thế giới” do bầu cử dân chủ lúc nào, hay là “tự xưng” như vùng ly khai ở Ukraina.)
https://www.argusmedia.com/en/news/2309314-us-delegation-met-with-venezuela-leaders
Vậy theo Mai Cuốc Xẻng, thì khi nào một Luật pháp được Công nhận là “Hợp pháp” ? Do lãnh đạo quốc gia lập ra, hay do “trưng cầu dân ý” ???
Vâng NCM.
Bàn về lập pháp thì quả là lôi thôi, yêu cầu thông hiểu về luật tự cổ chí kim, am hiểu mọi mặt về xã hội, thành thạo về ngôn ngữ … có thế mới biết được việc tác động lên xã hội của 1 điều luật, 1 bộ luật. Việc của những nhà chuyên môn.
Xin có chút ý kiến như sau. Đầu tiên cần trả lời câu hỏi, luật làm ra phục vụ ai, mọi việc sẽ sáng tỏ. Luật làm ra phục vụ và điều chỉnh hành vi của tất cả mọi người, khác với luật làm ra phục vụ một nhóm người và điều chỉnh hành vi của tất cả mọi người.
Luật do những người chuyên về luật soạn ra cho các nhà cầm quyền sử dụng, bảo rằng qua trưng cầu dân ý, cũng vẫn có kẽ hở. Như số đông sẽ áp đảo số ít, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của số ít, chưa kể đến việc, nếu số đông lại có suy nghĩ “xấu”.
Thận Đáo, một nhà tư tưởng của Tàu có bàn về việc làm luật “luật pháp mà làm theo ý riêng còn loạn hơn là không có luật”.
Như Đông Lào, tự đặt quyền lãnh đạo tuyệt đối vào đảng cộng sản, luật làm ra theo ý riêng của đảng, khẳng định không bao giờ hết rối loạn.
Ukraina làm luật theo ý riêng của đa số, ảnh hưởng quyền lợi chính đáng của các nhóm thiểu số, sinh loạn.
Luật của Huê Kỳ làm theo ý của dân Huê Kỳ, các nước khác cũng vậy, chứ không phải làm ra phục vụ chung cho loài người, dẫn tới ảnh hưởng quyền lợi của những nước khác. Thế giới không bao giờ hết loạn.
Chưa kể bọn lợi dụng loạn.
“Huê Kỳ và phương Tây “lãnh đạo thế giới” do bầu cử dân chủ lúc nào, hay là “tự xưng” như vùng ly khai ở Ukraina.”
Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, biên giới các nước châu Âu được xác định lại. Chính quyền các nước lần lượt được thành lập là do dân chúng bầu ra theo thể thức dân chủ. Hoa Kỳ và các nước phương Tây theo chế độ chính trị dân chủ nghị trường và nền kinh tế thị trường tự do. Trong khuôn khổ chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ và các nước phương Tây không có lãnh đạo thế giới và không có tự xưng gì hết mà chỉ là một mô hình đối kháng với thế giới độc tải cộng sản. Đây là một vấn đề lịch sử, hãy tìm đọc các sách giáo khoa cơ bản để tìm hiểu thêm.