Lý trí tù nhân lương tâm Việt tộc

Lê Hữu Khóa

4-10-2019

Đại hội lần thứ II của Hội Cựu Tù nhân Lương tâm, năm 2017. Photo Courtesy

Lương tri và nhân tri

Tù nhân lương tâm, mang hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) đi tù, vào tù vì lương tâm của mình, như vậy bạo quyền của độc đảng toàn trị, tà quyền của cơ chế độc trị, ma quyền của công an trị như đang bỏ tù cả dân tộc, cả đồng bào khi chúng đẩy các tù nhân lương tâm vào vòng lao lý. Tù nhân lương tâm là tuyến đầu trong cuộc đấu tranh cho nhân quyềnnhân phẩm. Tù nhân lương tâm là những đứa con tin yêu của Việt tộc bằng lương tri của mình: “Sống lâu mới biết lòng người có nhân!”.

Tù nhân lương tâm nhắc cho dân tộc, cho đồng bào là nhân quyền luôn có chỗ dựa trên hệ nhân nơi mà nhân phẩm là gốc của nhân tâm, nhân từ, có rễ là nhân bản, nhân văn, có cội là nhân tính, nhân lý, làm nguồn cho nhân tri, nhân trí, tất cả cùng bồi đắp cho nhân vị. Tù nhân lương tâm chấp nhận: tù đày, tra tấn, nhục hình, truy sát… để đưa cả hệ nhân này vào nhân đạo, để đi trọn con đường từ nhân ái tới tận nhân nghĩa, tù nhân lương tâm là những đứa con kiên cường của Việt tộc bằng quyết tâm của mình: “Đường mòn nhân nghĩa chẳng mòn!”.

Tù nhân lương tâm: tù vì chính kiến?

Tù nhân lương tâm, theo định nghĩa quốc tế, là những công dân một sớm một chiều thành tù nhân, vì họ có chính kiến hoặc chống lại, hoặc khác biệt với ý thức hệ, với chế độ đang cầm quyền không tôn trọng tự do ngôn luận. Như vậy, ý thức hệ độc tôn để độc tài, chế độ độc trị để độc quyền, mà trong trường hợp của Việt Nam hiện nay là độc đảng để độc quyết chính là nguyên nhân cùng lúc là thủ phạm sinh ra, tạo ra, chế ra hiện tượng: tù nhân lương tâm!

Hiện tượng: tù nhân lương tâm không có trong các quốc gia tôn trọng văn minh của dân chủ, quý trọng văn hiến của nhân quyền, như vậy hiện tượng này chỉ có trong hiện tình của một quốc gia như Việt Nam hiện nay là độc đảng-toàn trị, trong đó hoàn toàn không có tam quyền phân lập, để có một nền tư pháp biết lấy công pháp dựa trên công lý để giải luận rõ ràng về sự công bằng giữa các chính kiến.

Từ đây, mọi lý luận đều dẫn đến một lập luận là: bạo quyền độc đảng-toàn trị phải bỏ tù, mà không qua đối thoại để đối luận, thì bạo quyền này được nuôi dưỡng bởi: tà kiến! Chính tà kiến tới từ tà quyền được giáo dưỡng bởi bạo quyền độc đảng-toàn trị đã vạch ra tà lộ cho thượng tầng lãnh đạo bằng ngục lộ để dựng lên nhà tù, rồi đẩy các công dân yêu nước thương nòi, quý dân chủ, trọng nhân quyền vào vòng lao lý. Khi lý luận, lập luận, giải luận xong thì cùng nhau tới một diễn luận là hiện tượng tù nhân lương tâm, có nguyên nhân của đấu tranh giữa hai thế lực:

  • Chính kiến đúng chống tà kiến sai đang cầm quyền bằng cái ác!
  • Chính kiến hay chống tà kiến tồi đang cầm quyền bằng cái độc!
  • Chính kiến đẹp chống tà kiến xấu đang cầm quyền bằng cái dở!
  • Chính kiến tốt chống tà kiến tục đang cầm quyền bằng cái bẩn!
  • Chính kiến hay chống tà kiến tồi đang cầm quyền bằng cái hiểm!

Hiện tượng: tù nhân lương tâm luôn là cuộc đấu trí giữa:

  • Lương tâm chống lại bạo quyền lãnh đạo.
  • Lương thiện chống lại tà quyền tham quan.
  • Lương tri chống lại ma quyền tham quyền.

Chính hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri) làm nên định nghĩa, có định đề làm nền cho định luận của hiện tượng tù nhân lương tâm, tại đây tù nhân vì chính kiến của chính nghĩa đã làm đẹp cụm từ lương tâm, làm thăng hoa nhân cách của tù nhân, vì tù nhân chính là chủ thể của lương tri.

Tù nhân lương tâm: tù vì ý thức?

Tù nhân lương tâm, qua tên gọi quốc tế là prisonnier de conscience, mà conscienceý thức, nếu bị một bạo quyền lãnh đạo mang tà lực của âm binh bỏ tù mình bởi mình có ý thức, thì đây là định nghĩa, định đề, định luận khác, rất đẹp. Vì trong ngữ văn cũng như ngữ pháp cả hai ngữ vựng: lương tâmý thức đều đẹp vì cả hai đại diện cho đạo lý đúng, hay, tốt, lành để đối diện rồi trực diện trước cái phản đạo lý xấu, tồi, tục, dở đến từ cái phản luân lý thâm, độc, ác, hiểm trong cuộc sống.

Định nghĩa thế nào là tù nhân lương tâm cần cả hai gốc, rễ, cội, nguồn của hai hệ:

  • Hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri).
  • Hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức).

Tại đây, kiến thức xuất hiện để xóa vô tri, tri thức có mặt để loại vô minh, trí thức hiện diện để bứng vô nghĩa, ý thức ra đời để gạt đi vô cảm, nhận thức đứng lên để vùi vô tâm, làm nên tỉnh thức từ lương tâm tới lương tri. Tại đây, chọn lựa của các đứa con tin yêu của Việt tộc, vừa cõng hệ lương (lương tâm, lương thiện, lương tri), vừa bồng hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) tạo nên một sung lực cho quần chúng, cho xã hội, sung lực đó chính là hùng lực của sự phản tỉnh.

Sự phản tỉnh ngay khi tỉnh giấc là đồng bào, dân tộc đã qua ác mộng của tà lộ được tà quyền vẽ ra qua ngu dân bằng tuyên truyền, qua áp chế, khủng bố, trù dập của một chế độ lấy công an trị để gieo cái sợ, dùng cái sợ để truy hủy sung lực của tỉnh thức, để truy diệt hùng lực của sự phản tỉnh.

Hãy lý luận tiếp để lập luận thêm là:

  • Bạo quyền lãnh đạo không sợ sự thật, nó chỉ sợ sự thức tỉnh.
  • Tà quyền tham quan không sợ chân lý, nó chỉ sợ sự phản tỉnh.
  • Ma quyền tham quyền, không sợ lẽ phải, nó chỉ sợ sự tỉnh giấc.

Chính các tù nhân lương tâm đại diện cho cả ba:

  • sự thức tỉnh trước bất công.
  • sự phản tỉnh trước bất luân.
  • sự tỉnh giấc trước bất nhân.

Tù nhân lương tâm: tù vì công lý?

Trần Thị Nga là tù nhân lương tâm, mà chúng ta nhận ra quá trình của lương thiện vừa là vốn của nhân phẩm, vừa là động cơ cho đấu tranh vì công bằng và dân chủ, để mở rộng chân trời của lương tâm biết dấn thân vì đời, vì người, với lương tri của nhân bản để có nhân vị xứng đáng cho nhân vị trong một chế độ độc đảng toàn trị. Chính chị là nạn nhân của chính sách xuất khẩu lao động, một sách lược khốn kiếp của lãnh đạo độc tài đã và đang vùi lấp nhân phẩm Việt, khi con dân Việt một sớm một chiều trở thành: lao nô, nô tỳ cho các nước láng giềng.

Tồi tệ như bọn lãnh đạo là tay chân của chúng là bọn làm môi giới, tha hồ vơ vét tiền hối lộ của các con dân Việt thất nghiệp đã túng quẫn tới đường cùng, lại phải chi tiền cho chúng mới được đi ra nước ngoài làm loại lao động rẻ tới tận cùng của mạt vận. Bọn lãnh đạo thì đầu cơ chính sách, bọn môi giới thì đầu nậu buôn người, chúng chính là loại ký sinh trùng bòn rút sinh lực đồng bào, một loại ký sinh đang nắm quyền, cầm quyền, và bám quyền để vơ vét cho tới ngày chúng bị mạt vận trong ma trận của chính chúng dựng lên. Và cũng chính chúng đã ép bản án 9 năm tù giam, 5 năm tù treo, trên cuộc đời của chị.

Hãy nhận diện các hằng số trong phương trình lương thiện-lương tâm-lương tri của Trần Thị Nga từ nhà đấu tranh cho công bằng xã hội tới chủ thể đấu tranh toàn diện trên mọi bất công xã hội: đấu tranh để bảo vệ các nạn nhân trong chính sách xuất khẩu lao động mà thực chất là thực hiện một chế độ nô lệ mới mà chính chị cũng là nạn nhân, mà thân thể hiện đang mang thương tật trên đoạn đường làm nô lệ này. Khi trở về đất Việt, Trần Thị Nga tiếp tục đấu tranh chống chính sách xuất khẩu lao nô, cùng lúc ủng hộ các phòng trào bảo vệ môi trường, trực diện với bạo quyền để đấu tranh chống ô nhiễm do Formosa gây ra. Chị còn đứng cạnh, đứng kề cùng dân oan chống bọn tà quyền tham quan, ma quyền tham đất, cả hai chúng chỉ biết tham tiền đang chủ trì ma sách nheo nhóc hóa Việt tộc.

Phương trình lương thiện-lương tâm-lương tri đấu tranh cho công bằng xã hội, ở bất cứ nơi nào có bất công, sau cùng Trần Thị Nga đã tới đấu tranh vì tự do, vì nhân quyền và dĩ nhiên vì dân chủ. Hãy nhận diện các chỉ báo mà Trần Thị Nga phải trả giá trước bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tư pháp, ma quyền công an: chị đã bị hành hung và bọn công an đã đánh chị gẫy chân, với hình ảnh của hơn 20 công an truy sát, đánh đập một phụ nữ thân cô, thế cô. Chúng cô lập, khủng bố, ngăn chặn chị đi lại, không cho chị đưa các con về quê thăm ông bà, cản ngăn chị không cho chị đưa các con đi ăn ngoài phố. Còn bao nhiêu điều nữa từ thối nát của tư pháp tới thối tha của công an, khi chúng không cho chồng con của chị tới thăm chị trong nhà tù. Và, chị đã trả lời với chúng là: “Tôi chỉ làm những điều đúng luật pháp, đúng đạo đức…”. Đây là định nghĩa của lương tâm, định đề của lương thiện, định luận của lương tri.

Tù nhân lương tâm: tù vì đa lý?

Tù nhân lương tâm Hoàng Đức Bình, có mặt trên hai trận tuyến đấu tranh cho xã hội, một tại công đoàn, hai trong phong trào bảo vệ môi trường sau đại nạn ô nhiễm miền trung do Formosa gây ra, anh bị bắt và phải nhận một bản án vô nhân là 14 năm tù, với hai hành động bảo vệ tự do cho công đoàn, bảo vệ môi trường cho đồng bào. Đấu tranh trên hai mặt trận của xã hội dân sự, thì đối với bạo quyền lãnh đạo đã là đa lý, vì tà quyền độc đảng rất sợ các chủ thể đa lý, vì họ đa tài, đa năng, đa hiệu và nhất là đa trí trong công cuộc đấu tranh vì công bằng và tự do.

Hàng chục người đến phiên tòa của anh, đều bị chặn lại và hành hung, và trước bản án quá nặng của bạo quyền độc đảng dùng tà quyền tư pháp để buộc tội anh 14 năm tù, những ai được vào phiên tòa hôm đó đều nhận ra nhân cách liêm chính, phong cách bình tĩnh, tư cách nghiêm túc của anh. Luật sư của anh Hoàng Đức Bình cũng ngỡ ngàng trước sự thiếu vắng chứng cớ, chứng từ, chứng nhân… để tòa án bất nhân này có thể buộc tội anh tới 14 năm tù. Những ai được vào tham dự phiên tòa  đều nực cười với bản án mà nguyên nhân là: “lợi dụng tự do dân chủ để chống lại người thi hành công vụ”. Trước nhân cách rất liêm sỉ đường đường chính chính của Hoàng Đức Bình, thì cáo trạng này của tòa án đã lột mặt nạ bọn bạo quyền lãnh đạo chỉ đáng là bọn xảo ngôn trong điếm lộ, đã lột trần bọn tà quyền tư pháp chỉ là đám gian nghiệp trong điếm phận.

Trước và sau bản án tù 14 năm, phải nhắc tới bà mẹ của anh cương nghị trong quyết đoán: con của bà là Hoàng Đức Bình là người tốt, làm việc đúng với lương tâm, và biết rõ là còn nhiều hoạn nạn sẽ tới với thể lực, tâm lực, trí lực của đứa con, bà dặn con là bà hiểu rõ sự can đảm cùng công cuộc dấn thân của con, bà biết con bà hy sinh vì đồng bào, đồng loại. Tiếng bà nói rõ, giọng bà vang vang để sự thật, chân lý, lẽ phải, cùng nhau song hành luôn có mặt trong nguồn sống của con của bà. Bà còn dặn thêm con là bà sẽ rất hiểu nếu trong cuộc dấn thân vì người, vì đời mà con bà phải hy sinh, thì bà là người hơn ai hết hiểu rõ tình thương của con bà đối với dân tộc, quê hương.

Trong lao tù tại nhà tù An Điền tỉnh Quảng Ngãi, với điều kiện lao lý khác nghiệt, thể lực của anh đã suy kiệt với các chứng bịnh mới xuất hiện, mà cai tù không hề tạo điều kiện cho anh chữa trị, trong đó có chứng bị mờ mắt vì đã bị nhốt trong phòng tối quá lâu ngày. Hành hạ tù nhân lương tâm bằng những bản án dài, hành sát tù nhân lương tâm bằng điều kiện lao lý của loại địa ngục trần gian, nơi mà nhân quyền là chướng ngại vật luân lý mà bọn bạo quyền lãnh đạo xảo ngôn trong điếm lộ, cùng bọn tà quyền tư pháp gian nghiệp trong điếm phận không sao vượt qua được, chúng ta hãy chọn một mô thức giải luận của KHXHNV để phân tích hành động của bọn này: đốn mạt vận trong mạt vận kiếp!

Tù nhân lương tâm: tù vì đa lương?

Trong cái ác của bạo quyền, trong cái thâm của tà quyền, trong cái độc của ma quyền là sự vô tâm của chúng đã “sản xuất” ra lương tri, khi chúng đưa những người lương thiện vào vòng lao lý, đó là trường hợp của tài xế Nguyễn Nam Phong. Khi anh dũng cảm đưa một linh mục đi khiếu kiện bọn gây ô nhiễm tồi tệ Formosa luôn được bạo quyền lãnh đạo buôn dân bán nước bao che, và anh đã bị bắt, bị lãnh án tù bằng một phiên tòa bất lương, vô nhân. Trong bán án kết tội anh, thì bọn quan tòa bất nhân của tòa án vô luân đã kết tội anh là đã: “chống đối những người đang thi hành công vụ!”. Vu khống để vu cáo rồi vu họa lên kẻ lương thiện, đó là hành vi giờ đã thành phản xạ của tà quyền, mà sự thật là anh chỉ làm công việc của nghề nghiệp và lương tâm là lái xe đưa linh mục Nguyễn Đình Thục đi kiện bọn sát diệt môi trường Formosa đã giết môi sinh của các tỉnh miền Trung, làm bao triệu đồng bào vào vòng họa lộ trước biển chết.

Những ngày tháng trong tù là những ngày mà anh là nạn nhân của những cuộc tra tấn tàn bạo, dã man của những tên công an cai ngục, ngày ngày chúng đóng vai đồ tể để tra tấn bằng đòn thù trong ý đồ hành xác tại nhà tù Nghi Kim, tỉnh Nghệ An. Bọn cai ngục đồ tể này đã đánh đập anh bị chấn thương rồi nội thương nặng máu luôn chảy từ lỗ tai của anh cho tới nay. Những đòn thù của tra tấn, luôn song hành bằng hành vi tồi tệ của âm binh trong âm giới nơi chỉ có cái ác xuất hiện ở dạng điếm nhục nhất. Cụ thể là khi bọn công an tra tấn anh thì chúng đưa ảnh của Hồ Chi Minh rồi bắt anh chào, và sau đó là những trận đòn chỉ để gây nội thương lâu dài, với các lời nhục mạ vô liêm sỉ, với những lời phỉ báng bất nhân nhất.

Những ngày tháng trong tù đày là những ngày tháng bị tra tấn bằng đòn thù mà cũng là những ngày tháng bị lao động vất vả như một cực hình khác song lứa cùng tra tấn. Bạo quyền không hề có tư duy để lý luận là khi tù đày song lứa cùng tra tấn rồi song đôi cùng lao động như nhục hình thì chính tại đây khi cái ác cặp kè cùng cái độc và cái hiểm, thì nó càng làm anh dấn bước thêm mạnh để cùng song hành cùng đồng bào Nghệ Tĩnh của anh.

Trong lao tù, anh phải sống với những thử thách mới dồn dập tới: vợ của anh là chị Nguyễn Thúy Hạnh thông báo là con gái của anh là cháu Nguyễn Hải Giang bị ung thư ở giai đoạn trầm trọng… Cháu Nguyễn Hải Giang đã không được cứu chữa đúng lúc… Cái kết xấu đã tới với gia đình anh… Cái kết này đánh thức rất nhiều lương tâm trong quần chúng, trong xã hội, trong và ngoài nước mà bạo quyền lãnh đạo, tà quyền công an, ma quyền cai ngục không sao đoán hết được hậu quả một ngày kia sẽ tới với chúng!

Tù nhân lương tâm: đối thủ của bạo quyền?

Phạm Đoan Trang chính là biểu tượng của lương tâm trong một chế độ bất lương, đã khủng bố, truy lùng các chủ thể yêu tự do, trọng dân chủ, quý nhân quyền; một chế độ đã biến xã hội là một nhà tù khổng lồ với bạo quyền lãnh đạo độc đảng có quyền sinh sát công dân Việt, ma quyền công an có quyền truy sát các chủ thể đấu tranh vì công bằng, tự do, dân chủ, nhân quyền. Đó chính là cuộc đời của Phạm Đoan Trang phải luôn dời chỗ ở, luôn tránh thoát các khủng bố, bắt bớ của bạo quyền và ma quyền này. Và trong điều kiện phải sống như vô hình ngay trên đất nước của mình đang bị quản thúc bởi âm binh, thì Phạm Đoan Trang luôn có một hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) sáng ngời. Chủ thể này hoạt động không ngưng nghỉ từ báo chí tới mạng xã hội, đúng nghĩa chủ thể của trách nhiệm với đất nước, của bổn phận với đồng bào. Phạm Đoan Trang còn là chủ thể của sáng tạo các đường lối đấu tranh, của tri thức nhìn xa trông rộng trước hiện tình của đất nước, với các tư duy sáng suốt mang lại những phương pháp cụ thể trong đấu tranh chính trị, xã hội, truyền thông… Phạm Đoan Trang đã là tác giả của ba tác phẩm:

Chính trị bình dân, giải thích cách sử dụng từ hiến pháp tới luật pháp trong công cuộc đấu tranh vì dân chủ, với văn phong rành mạch giúp mọi công dân có ý thức rõ về quyền lợi và bổn phận của mình.

Phản kháng phi bạo lực, phân tích phương pháp đấu tranh bất bạo động làm nên chính nghĩa cốt lõi của mọi công dân yêu tự do, quý dân chủ, trọng nhân quyền.

Cẩm nang nuôi tù, hướng dẫn các công dân, từ gia đình tới bạn bè các cách tiếp cận với một hệ thống tà quyền bằng man trá, lấy bịp bợm làm phản xạ định chế tới cơ chế của loại nhà tù mà ai đã qua đều xem là địa ngục trần gian.

Hành động vì lương tâm và hành tác vì lương tri của Phạm Đoan Trang được các hội đoàn và quốc gia yêu dân chủ, trọng nhân quyền biết rõ. Từ Hội Ân xá Quốc tế tới Ủy Ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, các chính phủ dân chủ và hội đoàn vì nhân quyền từ Âu châu tới Bắc Mỹ đều xem Phạm Đoan Trang là biểu tượng của lòng khao khát công bằng, tự do, dân chủ cho Việt Nam. Và năm 2019 này, họ đã trao giải thưởng cho chị, mà Đức quốc đứng ra tổ chức, một đất nước thấy, hiểu, thấu rất rõ cái thiếu công bằng, cái vắng tự do, cái mất dân chủ của Việt tộc hiện nay đang bất hạnh dưới bạo quyền bất lương. Khi vận dụng các phương pháp luận của khoa học xã hội và nhân văn, nhất là triết học, chính trị học, xã hội học, tri thức học… thì hành động xã hội của Phạm Đoan Trang là sung lực đã đưa hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) mạch lạc để chế tác ra hệ sáng: sáng kiến bằng đấu tranh, sáng tạo bằng hành động, sáng tác bằng kinh nghiệm. Đây là định nghĩa mà xã hội học tặng cho các cá nhân có cá tính như Phạm Đoan Trang: chủ thể của thay đời đổi kiếp theo hướng thăng hoa!

Tù nhân lương tâm: tử thù của tà quyền?

Khi điều tra thực địa xã hội học về các tù nhân lương tâm kết thúc với các sự thật từ định lượng tới định chất, thì phân loại hóa các nhóm tù nhân lương tâm để phân tích:

– Động cơ tranh đấu của các tù nhân lương tâm: nguyên nhân, lý do làm lên động lực của dấn thân vì đời, vì người.

– Phương pháp đấu tranh cụ thể trong môi trường xã hội cụ thể, địa phương hay toàn quốc, chính trị hay môi trường, luật pháp hay xã hội…

Khi có phân tích về hai chỉ báo này, thì phân loại hóa phải giải thích tiếp sự tương đồng và khác biệt giữa các tù nhân lương tâm, trong đó đồng thuận trên các tiêu chí và phạm trù đấu tranh sẽ giúp chúng ta tìm tới mẫu số chung giữa các tù nhân lương tâm, đây chính là sự đồng thuận như một định đề giải luận để định vị về động cơ tranh đấu cũng như phương pháp đấu tranh của các tù nhân lương tâm:

  • Đồng thuận xã hội: đấu tranh cho tự do, công bằng, bác ái.
  • Đồng thuận chính trị: đấu tranh cho dân chủ, đa nguyên, nhân quyền.
  • Đồng thuận đạo lý: đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tham quyền.
  • Đồng thuận giáo lý: đấu tranh cho giáo dục, giáo khoa, giáo án.
  • Đồng thuận tín ngưỡng: đấu tranh vì tự do tôn giáo, tín ngưỡng, niềm tin.
  • Đồng thuận cộng đồng: đấu tranh vì môi trường, môi sinh, thiên nhiên…

Chính các đồng thuận này làm nên nội công đạo lý và luân lý các tù nhân lương tâm:

  • Nội lực của lương thiện
  • Sung lực của lương tâm
  • Hùng lực của lương tri

Các tù nhân lương tâm không xem ai là tử thù, vì họ không xem ai là đối thủ của họ, họ không dùng con người làm đối phương, và trong nhận định cũng như trong định luận của họ thì:

  • tử thù của các tù nhân lương tâm là hành vi phản dân hại nước, buôn dân bán nước, mại quốc cầu vinh.
  • đối thủ của các tù nhân lương tâm là hành động của tà quyền tham quan vì tham quyền để tham nhũng.
  • đối phương của các tù nhân lương tâm là thái độ mang voi dày mả tổ, rồi cõng rắn cắn gà nhà, trong bối cảnh thừa nước đục thả câu, với bất công của ma quyền là cốc mò cò ăn.

Các tù nhân lương tâm thẳng lưng vì đạo lý hay, đẹp, tốt, lành, thẳng bước vì luân lý có trách nhiệm với đất nước, có bổn phận với đồng bào, nên họ không có tử thù!

Tù nhân lương tâm: tử lộ của ma quyền?

Chính trị học nhận thức khi nghiên cứu về các chủ thể đấu tranh, đơn phương độc mã chống lại bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, thì thường xuyên xem xét kỹ lưỡng vốn tri thức có trong vốn chính trị của mỗi chủ thể, vốn xã hội trong vốn kinh nghiệm của mỗi cá thể. Các vốn sau đây được nhận ra trong lý lịch, trong hồ sơ, có ngay trong chân dung của các tù nhân lương tâm của Việt Nam: vốn lương thiện chống bất bình đẳng; vốn lương tâm chống bất công; vốn lương tri chống bất tài.

Ba vốn này của hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri) vốn nguồn để vạch mặt chỉ tên bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, nhưng nó chưa đủ để làm hành trang vững bền trong công cuộc đấu tranh trường kỳ. Vì bạo quyền sẽ dùng bạo lực, tà quyền sẽ dùng tà lực, ma quyền sẽ dùng ma lực không những qua tuyên truyền, tuyên giáo, mà bọn này còn biết dùng vu khống, vu cáo, vu họa để làm tổn thương thanh danh rồi tìm mọi cách để truy diệt các chủ thể của hệ lương này. Ở đây, xuất hiện một vốn gốc của hệ thức:

  • Lấy kiến thức chống tuyên truyền
  • Lấy tri thức chống ngu dân
  • Lấy trí thức chống độc tài
  • Lấy ý thức chống độc tôn
  • Lấy nhận thức chống độc quyền
  • Lấy tỉnh thức chống độc trị.

Chính hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức, tỉnh thức) giúp các chủ thể đấu tranh tiếp cận sự thật để chống bưng bít, chân lý để chống bịp bợm, lẽ phải để chống man trá của bọn bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền, từ đây xuất hiện một vốn cội của hệ thông:

  • Sử dụng thông minh để xóa độc đoán của bạo quyền lãnh đạo
  • Vận dụng thông thái để xua độc hại của tà quyền tham quan
  • Tận dụng thông thạo để loạt độc tham của ma quyền tham tiền.

Từ vốn cội của hệ thông các chủ thể đấu tranh cho tự do, công bằng, bác ái bằng con đường của dân chủ, nhân quyền, đa nguyên, sẽ cho xuất hiện một vốn rễ của hệ sáng:

  • Dùng sáng kiến để lập hành trình đưa dân tộc, đất nước ra khỏi bạo quyền.
  • Dùng sáng tạo để lập hành trang đưa đồng bào, đồng loại ra khỏi tà quyền.
  • Dùng sáng lập ra các phong trào xã hội đưa nhân quần ra khỏi ma quyền.

Tất cả những vốn vừa được liệt kê trong chính trị học nhận thức cũng chính là các tín hiệu, các chỉ báo để đưa ma quyền vào tử lộ!

Tù nhân lương tâm: đối phương của độc quyền?

Khi tổng hợp hai vốn làm nên nội công và bản lĩnh của các tù nhân lương tâm:

  • vốn tri thức có trong vốn chính trị
  • vốn xã hội trong vốn kinh nghiệm

Chính trị học nhận thức và xã hội học chính trị nhận ra hai vốn này có nguồn, gốc, cội, rễ, đã hiện diện trong nội lực làm nên sung lực để dấn thân, trở thành hùng lực trong đấu tranh của các tù nhân lương tâm:

  • vốn nguồn của hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri).
  • vốn gốc của hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức).
  • vốn cội của hệ thông (thông minh, thông thái, thông thạo).
  • vốn rễ của hệ sáng (sáng kiến, sáng tạo, sáng lập).

Các phân tích này không hề trừu tượng, các giải thích trên không hề mơ hồ, chúng có trong lý lịch, hồ sơ làm nên chân dung của các tù nhân lương tâm:

  • Trần Huỳnh Duy Thức đã đề nghị một chương trình xây dựng kinh tế, xã hội cho tương lai của Việt Nam.
  • Lê Công Định đã đề nghị và soạn ra một hiến pháp mới công bằng hơn, tự do hơn cho dân tộc Việt.

Ngay như những chủ thể không có học thức cao, nhưng họ có sự tỉnh thức rất rộng, nhờ có nhận thức rất sâu về bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền tham tiền:

  • Cấn Thị Thêu, lấy vốn xã hội trong vốn kinh nghiệm của đấu tranh vì dân oan tại Dương Nội để xây dựng vốn tri thức làm vốn chính trị mà đấu tranh rộng ra toàn xã hội dân sự.
  • Trần Thị Nga, lấy vốn xã hộinghề nghiệp trong vốn kinh nghiệm của kiếp lao nô, nạn nhân của bọn môi giới xuất khẩu lao động để gầy dựng vốn tri thức mà chế tác ra vốn chính trị để đấu tranh vì môi trường, vì dân oan.
  • Huỳnh Thục Vi, vận dụng vốn tri thức làm vốn chính trị để bồi đắp vốn cội của hệ thông (thông minh, thông thái, thông thạo) để đấu tranh trực diện với bạo quyền trung ương, tà quyền quan lại địa phương, ma quyền tham tiền.

Các điều tra của xã hội học chính trị, các khảo sát chính trị học nhận thức cũng không quên những chủ thể của thông tin, truyền thông, báo chí, đó là các nhà báo, ký giả, mà trường hợp của Pham Đoan Trang là tiêu biểu. Chủ thể này không những đã được tổng kết cả hai vốn vốn tri thức có trong vốn chính trị vốn xã hội trong vốn kinh nghiệm để đưa vào tổng hợp của bốn vốn nguồn, gốc, cội, rễ: lương, thức, thông, sáng, rồi hướng dẫn quần chúng đấu tranh bằng những tác phẩm của mình như những cẩm nang để đánh thức lương tâm!

Tù nhân lương tâm: đối trọng của độc trị?

Khi chính trị học nhận thức và xã hội học chính trị đi tìm sự thật về dấn thân, chân lý về đấu tranh làm nên lẽ phải trong lương tri của các tù nhân lương tâm, thì từ nghiên cứu tới khảo sát, từ điều tra tới điền dã, kết quả thực địa cho xuất hiện hệ đối:

  • Đối kháng, chống bạo quyền độc đảng, tà quyền độc tôn, ma quyền độc trị đang trùm phủ lên toàn xã hội, lên trọn số phận của Việt tộc.
  • Đối trọng, chống bất công trong xã hội, bất tài trong quản lý, bất nhân trong đạo lý, đã tạo ra đói nghèo trong dân chúng, lầm than trong xã hội.
  • Đối lực, chống tham quan đang tham quyền để tham ô qua tham nhũng, làm nên tà lộ từ sâu dân mọt nước tới buôn dân bán nước.
  • Đối diện, để trực diện mà chống mọi nguồn gốc của ngu dân, mà tội phạm là tuyên giáo nắm tuyên truyền, gây bao độc hại tới từ độc đoán của độc đảng.
  • Đối đầu, để đấu trí chống bạo quyền là chống chế độ công an trị, chống tà quyền là chống bọn vi hiến và phạm pháp, tội phạm và tội đồ của Việt tộc.

Khi lương tâm có gốc là lương thiện biết gầy dựng lên lương tri để chế tác ra đối (đối kháng, đối trọng, đối lực, đối diện, đối đầu), thì chính trị học nhận thức và xã hội học chính trị đã nhận diện được hệ hành của các tù nhân lương tâm:

  • Hành trang, luôn mang theo bốn vốn: lương, thức, thông, sáng, để vừa đấu tranh trực diện, vừa đấu tranh lâu dài với bạo quyền độc đảng, tà quyền độc tôn, ma quyền độc trị.
  • Hành trình, vừa có khó khăn qua lửa thử vàng, gian nan thử sức, vừa của thử thách bằng đầu sóng ngọn gió, trong thăng trầm với sóng cao nhưng vững tay chèo. Thậm chí có ngục tù, tra tấn, có cả truy diệt, thủ tiêu.
  • Hành vi, vừa có kiên cường của sống lâu mới biết lòng người có nhân, vừa có đạo lý của tổ tiên, của dân tộc trong sống có nhân mười phần không khó, nơi mà cái khó không bó được cái khôn của các tù nhân lương tâm.
  • Hành động, từ đề nghị vì tự do để có công bằng và bác ái tới quyết định dấn thân vì dân chủ và nhân quyền trong đa nguyên: hành động của đạo lý.
  • Hành tác, mang hành động của đạo lý hay, đẹp, tốt, lành tới quần chúng và xã hội để đánh thức mọi người, đây là hành tác của bổn phận trước đồng bào, trách nhiệm trước đất nước để làm nên luân lý yêu nước thương nòi như quý nhân sinh, trọng nhân tâm.

Tại đây, khi chính trị học nhận thức và xã hội học chính trị nhận ra sự thật về dấn thân, chân lý về đấu tranh đã làm nên lẽ phải trong lương tri của các tù nhân lương tâm, thì sự thật-chân lý-lẽ phải đã được cõng, bồng, bế, ẵm bởi hệ kháng và hệ hành của các tù nhân lương tâm.

_________

Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc Anthropol-Asie *Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á *Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc *Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu việt nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN-trang thầy Khóa.

Bình Luận từ Facebook