Dân chủ – Di sản văn hóa quý giá của Nguyễn Mạnh Tường

Nguyễn Khắc Mai

16-9-2019

LS Nguyễn Mạnh Tường thời còn trẻ. Photo Courtesy

Kỷ Niệm 110 năm ngày sinh cố GS Nguyễn Mạnh Tường (16-9-1909—16-9-2019)

Năm nay, chúng ta kỷ niệm 110 năm ngày sinh của GS Nguyễn Mạnh Tường, đúng vào thời điểm mà giá trị văn hóa ấy lại là thứ mà xã hội ta, Đất Nước ta, rất cần cho một vận hội mới, một công cuộc “Đổi mới tử tế” hơn, một chấn hưng đúng nghĩa.

Trước hết, cần làm rõ dấu ấn của nhân cách Nguyễn Mạnh Tường, trong những tư tưởng của mình. Điều ấy giúp chúng ta, mỗi khi đọc một dòng tư tưởng của ông, chúng ta sẽ mường tượng ra dấu vết nhân cách một con người cụ thể và sẽ không lẫn được với tư tưởng của một con người khác. Vậy, ông là ai? Tôi mượn lại đúng cái câu hỏi, ông đã đặt ra với An Dương Vương, trong bài viết của mình.

Ông là một mẫu hình tiêu biểu của một lớp người sinh ra, lớn lên trong cuộc giao thoa văn hóa Việt – Đông phương và Pháp – Tây phương ở nửa đầu thế kỷ XX. Ông là sản phẩm của một thời đại, một đi không trở lại của Việt Nam hiện đại. Nhưng trong cái mô hình chung ấy, ông là ai, ông có nét chủ đạo nào riêng tư làm nên nhân cách của mình?

Vào thời buổi ấy, Quân tử đang vẫn là cái phẩm chất, cái tinh thần còn được đề cao, trọng thị, trong những gia đình tinh hoa, gia giáo ở nước ta. Tôi quan sát thấy bàng bạc trong ông cho đến cuối đời cái nét quân tử ấy. Tôi rất ấn tượng khi báo Le Monde Pháp hỏi ông một câu rất cắc ké, “Ngài nghĩ như thế nào về hai người cộng sản là Ceausescu của Romania và Hồ chí Minh của Việt Nam. Thông thường, người ta có ta có thể nhân dịp như thế, trả thù cái người miệng thì nói là bạn, nhưng đã hãm hại mình không thương tiếc.

Cả sứ quán Việt Nam ở Paris lúc đó đứng tim chờ nghe ông Hồ bị chửi mắng. Nhưng không. Cụ Tường chỉ trả lời: Tục ngữ Việt có câu: “Vật năm bảy loài, người năm bảy đấng”, không thể so sánh Ceausescu và Hồ chí Minh được. Về phẩm hạnh quân tử thì Cụ có rất nhiều thí dụ trong đời thường, cả trong đời sống chính trị và nghề nghiệp. Chúng ta cần học hỏi, nghiên cứu. Thật ra khi nghiên cứu hai tư tưởng Dân chủ và Giáo dục của Cụ mà bỏ qua cái phẩm chất này sẽ không hiểu gì về tư tưởng quan trọng ấy của Cụ.

Có một nét thứ hai trong nhân cách của Cụ, đó là phẩm chất “triết gia”. Triết gia theo Cụ là một mẫu hình nhân cách xuất hiện theo sự đòi hỏi của giai cấp Tư sản châu Âu đang định hình và bước vào “Thời đại mới”. Những ông khổng lồ mới trong triết học, khoa học, văn chương, nghệ thuật xuất hiện. Chính họ đã chiếu rọi những luồng sáng rực rỡ làm nên “Thế Kỷ Ánh Sáng” – Thế kỷ XVIII.

Nói về nhu cầu của sự xuất hiện con người triết gia và phẩm chất triết gia, Nguyễn Mạnh Tường nêu rõ: “Giai cấp tư sản Pháp, trái lại đang đấu tranh, cần có quần chúng ủng hộ. Do đó, thành hình dần dần một hình tượng con người chiến sĩ tư sản, đấu tranh chống phong kiến: Triết gia”. Trong thế kỷ này có rất nhiều định nghĩa, nhận định về triết gia. Encyclopedie khẳng định: “Còn triết gia của ta, thì biết phân chia thời gian giữa cuộc đời ẩn dật và cuộc giao du với người. Triết gia đầy lòng nhân đạo, thiết tha danh dự và tính trung thực… Vì vô cùng yêu mến xã hội, triết gia cần làm mọi điều đúng như mọi người đợi chờ… luôn luôn tràn đầy ý nghĩ về lợi chung của xã hội…

Voltaire thì nói rõ: “Xu hướng một triết gia không phải là thương xót khổ nạn, mà là phục vụ người khổ nạn ấy… Triết gia chính tông khai vỡ đất hoang thành ruộng, làm số lưỡi cày tăng lên, do đó dân số tăng lên, tìm việc làm ăn cho người nghèo, cho phép người ta làm giàu, khuyến khích cưới xin, xây dựng cho kẻ mồ côi, không ca thán về các thuế cần thiết, tạo điều kiện cho nông dân đóng thuế vui nhẹ… Triết gia không đợi chờ gì ở người khác, nhưng giúp ích cho họ đươc bao nhiêu càng hay bấy nhiêu… Người đó thù ghét tính giả dối, nhưng thương xót kẻ mê tín, quý trọng tình nghĩa bạn bè”.

Diderot còn đề cao hơn vai trò Triết gia: “Người thẩm phán xét xử, triết gia dạy cho thẩm phán thế nào là công bằng và bất công. Quân nhân bảo vệ Tổ quốc, triết gia dạy quân nhân thế nào là Tổ quốc. Nhà vua ra lệnh cho mọi người, triết gia dạy cho nhà vua biết nguồn gốc và giới hạn của quyền lực mình”…

Không khỏi còn những hạn chế, nhưng đó là hình tượng của một loại người mới, người trí thức hiện đại. Nguyễn Mạnh Tường may mắn đã cộng vào mẫu hình người quân tử cổ kính với phẩm chất triết gia hiện đại.

Vì thế, trong tư tưởng Dân chủ, cũng như về Giáo dục của ông, chúng ta vừa nhận ra nét thâm trầm cổ kính của phương Đông, lại thấy rõ phẩm chất của triết gia hiện đại, mà dấu ấn của tinh thần Việt cũng không hề mờ nhạt.

Bây giờ là lúc mà Việt Nam ta đang chứng kiến cả hai sự khủng hoảng: Dân chủ thì lệch pha, hình thức, nửa vời và đánh tráo khái niệm (nói theo ngôn ngữ của Marx là lừa bịp). Ví dụ lừa bịp rõ nhất là khi Marx nhận định: Chưa có hai tiền đề cơ bản và quan trọng nhất là kinh tế sản xuất hàng hóa vât phẩm dồi dào trên cơ sở kỹ thuật cao; và hai là chưa có con người phát triển toàn diện, thì pháp lý của cách mạng tư sản dân quyền là tất yếu, không thể vượt qua. Còn lãnh đạo Việt Nam hiện nay thì tuyên bố pháp lý XHCN! Cuộc khủng hoảng thứ hai là giáo dục. Giáo dục Việt Nam hiện nay đang lạc hậu mọi bề, đang rối loạn cấu trúc, đang mất phương hướng,

Tìm lại những kiến giải của Nuyễn Mạnh Tường về giá trị Dân chủ mà ông để lại, sẽ có ích rất nhiều.

Nguyễn Mạnh Tường là nhà luật học, đã hành nghề trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt. Những vấn đề ông đặt ra vừa thực tế vừa cơ bản. Chúng cung cấp cho ta những luận chứng để suy xét và để tìm giải pháp. Ông quan tâm đến mối quan hệ giữa Luật pháp và Chính trị. Ông nói: “Người cộng sản ghét pháp luật, có một lý do sâu xa hơn. Có nhiều quan điểm khác nhau, giữa những con người làm chính trị, và những người chăm lo Luật pháp, họ khác nhau về thói quen tâm lý và khác nhau cả về tư duy”. Lý do sâu xa, theo tôi đoán là ở như câu nói nổi tiếng của Lenin: Chuyên chính vô sản không cần luật pháp!

“Chính trị… Đây là nơi mà sự nhập nhằng là kẻ chiến thắng. Cái không chính xác về hành động và ngôn ngữ đã tạo cơ hội cho những diễn dịch khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn. Kẻ phải phiêu lưu vào đó phải tránh chuyện logic, sự sáng sủa và chính xác… phải gạt bỏ những chuẩn mực đạo đức hay tình cảm và trên hết thảy, phải hành xử với một thái độ cơ hội chủ nghĩa sắc bén và linh động”. “Trong khi nhà chính trị muốn khẳng định chủ nghĩa duy ý chí, thì nhà luật học lại chiếm ưu thế về sự hợp lý”.

Là nhà luật học, ông quan tâm đến cấu trúc của nền dân chủ. Nền dân chủ mà “Chính quyền là của dân, do dân và vì dân”, tự nó là tập trung trong tay ngành Lập pháp; nơi làm ra luật và ngành Hành pháp sẽ lo áp dụng luật. Sự nguy hiểm sẽ xảy ra khi cả hai đều cùng cho rằng mình có quyền, với những đặc quyền riêng, được đứng trên Luật pháp. Nguyên tắc cơ bản của một nền Dân chủ là mọi người đều bình đẳng trước Pháp Luật. Hệ quả là ba ngành cùng tồn tại trong một tương quan “cân bằng và kiểm soát lẫn nhau”. Ông đề cao vai trò Luật sư và Luật Sư Đoàn, và khẳng định: “Luật sư đoàn là một tiêu chuẩn của một nền Dân chủ, rằng ở nước nào tiêu chuẩn đó thắng thế và có một Luật sư đoàn chân chính hoạt đông, nơi đó nền Dân Chủ chiến thắng”.

Như thế, việc chia làm ba ngành (Lập Pháp, Tư Pháp, và Hành Pháp) đã ngăn chặn những kẻ độc tài có cơ hội tập trung mọi quyền lực trong tay một người. Nguy cơ tổn hại về kinh tế, xã hội từ những thảm họa gây nên bởi sư độc quyền về chính trị, nói một cách chính xác, bởi những tay chóp bu, có thể được tránh khỏi, hay có thể giảm đến mức tối thiểu”.

Với phẩm chất Triết gia, khi ông tọa đàm với giới Luật sư Xô-viết, ông tiên đoán số phận của môt chính quyền phi dân chủ, đã đánh mất niềm tin của nhân dân: “Khi họ trơ mình trước quần chúng như một người đàn bà đĩ thõa nghèo nàn và trần truồng, tôi ngại rằng họ còn có thể tiếp tục độc quyền chính trị. Cũng có thể lãnh đạo cấp cao không làm ác như những thuộc quyền, nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm đối với kẻ này, bởi những hành động của người thứ ba, làm tan rã Đảng vì uy tín của Đảng đã bị tan biến bởi những ngọn gió đầy cay đắng và khinh miệt thổi vào. Chừng nào mà con số phạm tội còn nhỏ, chừng ấy Đảng còn che đậy chúng dưới thảm dày để giữ được màu trắng của sự trong trắng! Nhưng một khi tai tiếng đã trở nên thái quá, không còn giấu giếm được nữa, thì Đảng sẽ làm kẻ điếc trước những than phiền chính trị. Đảng sẽ chọn sống xuống cấp trong im lặng thay vì bị nổ tung ra trước ánh sáng ban ngày với những vụ kiện mà uy tín của Đảng sẽ mãi mãi mất và thanh danh của Đảng sẽ bị hủy diệt, từ cấp cao đến cấp hạng bét…

Chính trị rồi đây sẽ nhường bước cho đạo đức, đạo đức rồi sẽ kéo theo sự can thiệp của Luật Pháp để chấm dứt một quá khứ đau khổ, mở đầu cho một kỹ nguyên mà áng sáng của lý lẽ và công bằng một lần nữa sẽ chiếu rọi với việc tái lập nền công lý và bảng tuyên ngôn về trách nhiệm của Nhà nước và những ai đại diện nó”.

Ông khẳng định: “Cái bí mật của dân chủ là nằm ở sự vận hành của nó, trong việc phán đoán những quyền tự nhiên và những tự do của con người, vì thế nó đòi hỏi phải có một sự hiểu biết tối thiểu về quyền công cộng và luật pháp quốc tế. Những điều kiện của dân chủ là có quan hệ đến kinh tế của nước liên hệ, mà sự thịnh vượng dù đã bị giới hạn là rất cần thiết cho sự thành công của nó, cho niềm vui hưởng những quyền tự do và những quyền của con người… Bản chất của dân chủ, trong ý nghĩa sâu sắc và cái tác dụng toàn diện của nó, dân chủ gồm hai nội hàm không thể phân ly, đó là nội hàm ‘Chính phủ do dân’ và nội hàm ‘Chính phủ vì dân’. Thật là xấu hổ nếu cứ mưu mẹo lập lờ trên chữ nghĩa và cho rằng ‘Chính phủ cho dân’ là đủ. Đó là điều bịp bợm!”

Và ông đặt ra hai câu hỏi gay gắt:

a/ Làm thế nào để những người cộng sản giải quyết tình trạng xung đột quyền lợi của Đảng và quyền lợi của Dân tộc và Tổ quốc?

b/ Chủ nghĩa anh hùng của các ông có làm cho các ông dám hy sinh Đảng của quý ông trên bàn thờ của Tổ quốc và Nhân Dân?

Hai câu hỏi này tựa như chiếc chìa khóa để mở ra nền Dân chủ cho Việt Nam hôm nay.

Đảng có tìm được không? Hay là buộc Dân phải rèn lấy chìa khóa mở cửa vào tương lai mới của mình. Thật là nan giải, thật là gay cấn. Nhưng, trong bài Suy Ngẫm Cổ Loa của ông mà tôi có may mắn được dịch lại, có câu cuối: “Dẫu sao, chúng ta cũng hy vọng rằng nhân dân sẽ đặt niềm tin với nhiều sáng suốt hơn là cứ bị lũ ba que chơi bài ba lá lừa đảo đường phố dẫn dắt”.

Ô Đồng Lầm Hà nội, giữa Tháng 9-2019 – Những ngày tàu chiến của Trung Cộng uy hiếp Bãi Tư Chính của Việt Nam.

_____

Những câu trích dẫn đều lấy từ mấy tác phẩm: “Người Bị Rút Phép Thông Công”, “Lý Luận Giáo Dục Châu Âu” và “Suy Ngẫm Cổ Loa”.

Bình Luận từ Facebook

9 BÌNH LUẬN

  1. TRích: “Tôi rất ấn tượng khi báo Le Monde Pháp hỏi ông một câu rất cắc ké, “Ngài nghĩ như thế nào về hai người cộng sản là Ceausescu của Romania và Hồ chí Minh của Việt Nam. Thông thường, người ta có ta có thể nhân dịp như thế, trả thù cái người miệng thì nói là bạn, nhưng đã hãm hại mình không thương tiếc.

    Cả sứ quán Việt Nam ở Paris lúc đó đứng tim chờ nghe ông Hồ bị chửi mắng. Nhưng không. Cụ Tường chỉ trả lời: Tục ngữ Việt có câu: “Vật năm bảy loài, người năm bảy đấng”, không thể so sánh Ceausescu và Hồ chí Minh được.

    Tại sao Nguyễn mạnh Tường phải “quân tử” như vậy?

    Người ta chưa quên, chính là NGUyễn Mạnh Tường đã nhận lệnh hồ chí minh tham dự một hội nghị “phi liên kết” ở Bruxxell (?) để quảng cáo, rao bán chủ trương bạo lưc chiến tranh của hồ chí minh, của tổ quốc xã hội chủ nghĩa tội ác & dân chủ cộng hòa bìm bịp, của bọn mao-ít “lao động” (con đẻ của Mao, sinh ra từ chuyến đi của Trần Ích tắc 1950, đội quân tiên phuông của Mao trên đường thay phiên giặc tàu nhà Thanh tiến vào VN mở ra một thời kỳ bắc thuoc mới), chủ trương dùng bạo lực chiến tranh phi pháp mà chúng bịp bợm gọi là “giải phóng & thống nhất & chống Mỹ” (= thực ra là bọn lính hồ chí minh & đạo quân viễn chinh cộng sản VNDCCH thảm sat hàng triệu, hàng triệu người nam), chiếm đoạt VNCH tự do, áp đặt chế độ cộng sản Mác lê Mao tàn ác lên VNCH tự do (phần còn lại của Quốc Gia VIệt Nam ở phía nam vỹ tuyến 17, sau khi phần miền bắc vỹ tuyến 17 bị Trung cộng & việt cộng chiếm đoạt từ 1955 sau trận đống đa ngược 1954, sau cuộc chiến tranh phản quốc, aka “kháng chiến thần thánh” qua đó việt cộng Minh mãi quốc cầu vinh, dựa vào Trung cộng chống lưng đỡ đầu, đánh phá nền Độc Lập & Thống Nhất của VIệt Nam, (lúc ấy mang quốc hiệu Quốc Gia VIệt Nam) (*), rước trung cộng vào Hà nội cắm cờ búa liềm, đặt cái “cờ tổ quốc” của trí thức hà nội đỏ & sĩ phu bắc hà xã nghĩa xuống dưới đít cờ búa liềm để hồ chí minh & bọn mao-ít “lao động” được trung cộng chống lưng đỡ đầu ly khai QGVN, dựng nên nhà nước tổ quốc xã hội chủ nghĩa tội ác, dân chủ cộng hòa bìm bịp, aka “VNDCCH”, mở ra một thời kỳ bắc thuộc mới trên miền bắc VN).

    Tuy nhiên món hàng bạo lực chiến tranh tội ác của Minh & tổ quốc xã hội chủ nghĩa tội ác & dân chủ cộng hìa bìm bịp và bọn mao-ít lao động, do Nguyễn Mạnh Tường mang đi bán tại hội nghị Bruxell, đã bị ế nhệ, chẳng ai thèm ngó ngàng tới!

    Vậy nếu lúc ở Paris ấy mà nói ra, cho đúng sự thật, phỉ nhổ Hồ chí minh ngang với Ceausescu, rồi lỡ mà cái nhà báo ấy lại cắc cớ (not “cắc ké”) hỏi về câu chuyện đi rao bán bạo lực chiến tranh tại Bruxell năm ấy, thì biết giả nhời ra răng?

    https://baotiengdan.com/2019/09/16/dan-chu-di-san-van-hoa-quy-gia-cua-nguyen-manh-tuong/

  2. Cũng vì một chữ “CỤ”

    Tôi nghĩ tác giả Nguyễn Khắc Mai dùng chữ “CỤ” trong đoạn:

    “Về phẩm hạnh quân tử thì Cụ có rất nhiều thí dụ trong đời thường, cả trong đời sống chính trị và nghề nghiệp. Chúng ta cần học hỏi, nghiên cứu. Thật ra khi nghiên cứu hai tư tưởng Dân chủ và Giáo dục của Cụ mà bỏ qua cái phẩm chất này sẽ không hiểu gì về tư tưởng quan trọng ấy của Cụ.”

    …..là để mô tả “cụ” Nguyễn Mạnh Tường, chứ không phải “cụ” Hồ Chí Minh.

    Có thể câu văn của tác giả có chút không mạch lạc vì sơ ý (?) nên đọc giả – nếu (cũng) sơ ý thì rất dễ bị ….sâp và nổi nóng, vì chính tôi – ban đầu cũng bực mình vì tưởng Nguyễn Khắc Mai ca tụng “cụ” Hồ Chí Minh là quân tử, nhưng khi đọc đến đoạn “Thông thường, người ta có thể nhân dịp như thế, trả thù cái người miệng thì nói là bạn, nhưng đã hãm hại mình không thương tiếc.” là câu mà tác giả nhận xét về thái độ của Nguyễn Mạnh Tường đối với Hồ Chí Minh….thì mới vỡ lẽ.

    Không lẽ đại danh “CỤ” (hay “bác”) là độc quyền của Hồ Chí Minh, nên hễ nghe ai gọi cụ mà (vô ý) không kèm tên thì liền bị liên tưởng đến một nhân vật vĩ đại từng có màn “bịt râu” để đi xem xử một “người có công với kach mệnh” và từng có ơn với chính mình cùng các “lồng chí” của mình?

    Ý kiến này chỉ là để tự thú nhận rằng – ban đầu – cũng bị “confused” vì cách viết của tác giả Nguyễn Khắc Mai….

    • Hay tôi bị lầm, vì đúng là Nguyễn Khắc đã dùng chữ “cụ” trong bài là để chỉ Hồ Chí Minh – một người “quân tử” ?

      Đọc tời, đọc lui….đọc tới ba lần mà vẫn bối rối.

      • Bác đúng! Tác giả bài chủ dùng chữ “ông” để gọi HCM, không gọi hcm bằng “cụ”, nếu thuận tiện, bác thử xem lại cái pót trên “Facebook” ở trên (nói về đại danh từ “Cụ” trong đoạn văn ấy, là đứng thay cho NMT), hy vọng cái “đoán chừng” ấy không có gì sai lắm

  3. Hmm, phải lói thía lào bi chừ . Hay là thui thì mặc kệ . Có vẻ Nguyễn Khắc Mai được nhiều người tin, đem Nguyễn Mạnh Tường ra múa lân … quite a show!

    “Chính trị… Đây là nơi mà sự nhập nhằng là kẻ chiến thắng”

    There is something called political sciences, khoa học chính trị, được dạy ở tất cả những trường đại học ở Mỹ . Good luck trong “nhập nhằng”, thày trò chúng nó đem ra mổ xẻ thì chỉ có chết .

    “Cái không chính xác về hành động và ngôn ngữ đã tạo cơ hội cho những diễn dịch khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn”

    Đamn. Nah, i aint say no mo. Cứ việc tin . Thêm 1 niềm tin vào những điều quái đản không (thể) làm Việt Nam tệ hơn .

    “cái người miệng thì nói là bạn, nhưng đã hãm hại mình không thương tiếc”

    Câu trả lời của Nguyễn Mạnh Tường đã có tiền đề “triết học” từ 1 công tước người Pháp, Francois de Sade.

    Nguyên đoạn này “Chừng nào mà con số phạm tội còn nhỏ … thanh danh của Đảng sẽ bị hủy diệt, từ cấp cao đến cấp hạng bét…”

    Nguyễn Mạnh Tường sai sặc sụa . Thật ra cách giải quyết của Đảng trong chuyện này đang được nghiên cứu ở 1 vài trường do my suggestions. Tớ suggest là chế độ phát xít của Hitler bị dập tắt quá sớm, nên người ta không biết rõ cách vận hành inner mechanism của những thể chế độc tài . Việt Nam là 1 trường hợp hiếm hoi như vậy . Chiện tội ác, Đảng chỉ cần đào tạo ra 1 số trí thức ô xin như cụ Nguyễn Khắc Mai . Họ biện hộ cho những tội ác của thể chế khá thành công . Không tin ? Đọc bác Nguyễn Khắc Mai tâng bốc cả Nguyễn Mạnh Tường & Hồ Chí Minh

    Về phẩm hạnh quân tử thì Cụ có rất nhiều thí dụ trong đời thường, cả trong đời sống chính trị và nghề nghiệp”

    Cứ thay Bác Hồ của Nguyễn Khắc Mai thành Bác Hồ Ít Le -not much of a difference- thì sẽ thấy cái “phẩm hạnh quân tử” này nó khốn nạn tới cỡ nào .

    Trí thức nhà mềnh cứ nghiền ngẫm bài này, rồi lãnh hội kiểu arse-kissin như Lê Học Lãnh Vân . Ai biết lão này -Lê Học Lãnh Vân- xem môi của lão lúc nào cũng chúm chím như lúc nào cũng sẵn sàng làm hô hấp nhân tạo ? Cá sặc bên này gọi là kissin gouramis, Lê Học Lãnh Vân là arse-kissin ngu ra phết .

  4. Nguyễn Mạnh Tường tiêu biểu cho một loạt những trí thức yêu nước nhưng nhẹ dạ, cả tin và nhất là lại ấu trĩ về chính trị – sở dĩ nói ông ấu trĩ về chính trị là vì – mặc dù sau ngày dự Hội Nghị Trù Bị tại Dalat, ông đã bị Hồ và đồng đảng nghi ngờ là “tay trong của Pháp, là phản quốc…”, thế mà ông vẫn một lòng tin tưởng Hồ Chí Minh, là một “người miệng thì nói là bạn, nhưng đã hãm hại mình không thương tiếc” (Nguyễn Khắc Mai)…..để đến nỗi phải sống âm thầm nhẫn nhịn đến cuối đời.

    Sở dĩ Nguyễn Mạnh Tường và nhiều nhà trí thức khác – dù một lòng yêu nước, dù quyết tâm phò Hồ Chí Minh, thế nhưng vẫn bị Hồ Chí Minh và đồng đảng hãm hại, trù dập chỉ vì Hồ luôn mang mặc cảm thất học, từ đó cực kỳ đố kỵ những người có học.

    Còn việc mà ông Tường nói “Vật năm bảy loài, người năm bảy đấng” (*), để tránh so sánh Ceausescu và Hồ chí Minh – theo như lời kể trong bài thì cũng dễ hiểu – vì lúc đó ông đang ở trong sứ quán của VC tại Paris, ông đang được VC cho hưởng một ân huệ cuối đời sau những năm tháng bị chính Hồ Chí Minh vùi dập, cái “ân huệ” đó chính là ông được phép sang Pháp, và lưu lại ở đó (trong sứ quán) 4 tháng và tại đây, ông cho xuất bản cuốn hồi ký bằng tiếng Pháp Un Excommunié (Một người bị rút phép thông công) để nói về những điều trải nghiệm trong những năm ông đã sống kể từ sau 1945.

    Thử hỏi, đang ở trong sứ quán, nếu ông trả lời thật lòng để so sanh giữa Ceausescu và Hồ, thì ông có thể yên ổn ở lại đó – dù như bị quản chế – để cuối cùng xuất bản được cuốn “người bị rút phép thông công”, cuốn sách diễn tả tình trạng bị cô lập tinh thần và vật chất trong xã hội CS suốt từ 1957 đến 1989 không?

    (*) Vật và người gồm Ceausescu cùng Hồ Chí Minh bị ông cho vào một …câu, chứng tỏ Nguyễn Mạnh Tường – sau cùng – cũng đã biết Hồ Chí Minh là loại gì.

    • Các nhà trí thức khoa bảng VN từ nước Pháp thời thuộc địa về vơi HCM đều bị gạt gẩm,sống trong kiềm tỏa suôt cả mấy thập kỷ mà ít ai tĩnh ngộ.Khi vở lẽ thì đã gần đất xa trời,phí cả một đời.Lẽ ra cũng chẳng nên đánh bóng quá mức.Cổ nhân từng bảo người nghĩa khí thì “bần tiện bất năng dâm,phú quí bất năng di,uy vũ bất năng khuất”…NMT,TĐT,…còn xếp dưới cụ Phan Khôi

  5. Sinh Diệt là quy luật tự nhiên
    Trong lúc đất nc dân tộc bị cái diệt đến cận kề. Nguyên nhân ra sao các vị không dám nhìn thẳng vào, cứ vòng vo để bảo toàn danh dự
    Đã tự xem mình là trí tuệ thì sá gì kiếp con lợn mà không sẵn sàng bị phanh thây

  6. Hỏi thật cụ Khắc Mai bỏ đảng từ lúc nào????
    Tên ” minh triết,lập quyền dân…” nó giống như lúc tôi còn bé đc xem phim trưởng Hong kong
    Cụ dùng từ không chính xác” dân chủ di sản văn hóa của…”
    Dân chủ là vận động tất yếu của nhân loại. Chẳng ai dám nhận mình là ng sáng tạo ra dân chủ cả.

Comments are closed.