Tương Lai
8-4-2018
Mênh mông thế sự để gió cuốn đi số 37
Nhấp chén trà tôi đưa mời, Giles tấm tắc “trà của ông lúc nào cũng rất ngon, vị trà này thơm lắm”. Tôi cười cám ơn lời khen chân tình của ông Đại sứ Vương quốc Anh “chỉ tiếc là e còn lâu lắm tôi lại mới được mời ông uống trà nếu trong một dịp tình cờ nào đó ông trở lại Việt Nam”. Giles Lever trả lời “Tháng 6 tôi mới kết thúc nhiệm kỳ và rời Hà Nội, hy vọng từ nay đến đó sẽ có dịp lại ngồi với nhau ở Hà Nôi uống trà hoặc uống cà phê trong bữa ăn sáng, bất cứ lúc nào ông ra Hà Nôi thì gọi cho tôi. Lần này có quá ít thì giờ, vào Sài Gòn là tôi đến thăm ông. Tháng trước đã định đến vì biết ông đã xuất viện, nhưng cô TH khuyên nên để dịp khác vì chắc ông đang mệt nên lần này tôi đến thăm để có thể ngồi trao đổi khi sức khỏe của ông đã hồi phục”.
Trong cải rủi đôi khi lại có cái may! Do sức khỏe không cho phép, tôi thường từ chối những lời mời của một số cơ quan ngoại giao tham dự những cuộc gặp gỡ, và cũng tránh luôn những cuộc tiếp xúc có mặt nhiều người. Thông cảm với sự trái khoáy của lão già cắc cớ, một số nhà báo nước ngoài, nhà ngoại giao, một vài đại diện của các tổ chức quốc tế lại chịu khó mất thì giờ quý báu của họ đến thăm tôi tại nhà hoặc đón đến gặp riêng tại một phòng trà trong khách sạn như Đại sứ Mỹ Ted Osius, hay cũng đi dự một tối ca nhạc Trinh Công Sơn như Đại sứ Canada David Devine. Nhờ thế, tuy phải ngồi một chỗ, tôi vẫn có dịp tiếp xúc với nhiều người bạn nước ngoài.
Có người đến một, hai lần để thực hiện một cuộc phỏng vấn như Bruno Philip của Le Monde, Thomas Fuller, phóng viên của The NewYork Times, Kyrstin Ha của Bloomberg News, Kazuo Nagata của The Yomiuri Shimbun, Inoue Ayumi của The Newspaper Akahata , tờ báo của đảng Cộng sản Nhât… Lại có những chuyên gia như Murray Hiebert, cố vấn cao cấp, Phó giám đốc Chương trình Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) tại Washington DC, Hoa Kỳ thì không chỉ để thực hiện một phỏng vấn, mà là một cuộc trao đổi về những vấn đề thời cuộc sâu và rộng hơn mà qua đó tôi hiểu biết được nhiều hơn. Chẳng hạn như môt buổi trao đổi với Murray mà nhớ lại tôi vẫn còn ngượng về sự nông cạn của mình. Cứ như là muốn hỏi ý kiến tôi, Murray đưa ra một câu hỏi khiến tôi giật mình. Tôi bộc lộ rõ chính kiến và phản ứng tức thì của mình. Ông im lặng không nói gì thêm rồi lái sang chuyện khác. Thế rồi quãng hơn tuần lễ sau, ông nhắn cho tôi biết rằng câu chuyện ông nói đã thu xếp xong và chắc rồi báo chí sẽ đưa tin. Cuộc trò chuyện với Murray để lại trong tôi những suy tư, dằn vặt về thế sự mà tôi không thể tự dấu mình mà không viết ra “để gió cuốn đi” trong những bài “mênh mông thế sự” sau đó. Những trao đổi như vậy không nhiều. Mà nhiều hơn là những cuộc gặp các phóng viên quen thuộc hoặc các quan chức của một vài Đại Sứ quán tại Hà Nôi hoặc Tổng Lãnh sự quán ở tp Hồ Chí Minh.
Gặp gỡ nhiều trở thành thân quen như Nobuhiro Okuma, trưởng đại diện của Kyodo Newsv, hay Rose McNonnell, David Skowronski, Nadia Krivets … những Bí thư chính trị, Tham tán phụ trách báo chí của Đại sứ quán Australia ở Hà Nội và Tổng Lãnh sự quán ở tpHCM, những người nhiều lần đến thăm tôi. Có lần họ đem tặng tôi một gói trà Thái Nguyên với một hộp bánh đậu xanh: “đây là quà Hà Nôi, chúng tôi còn nhớ ông đã mời chúng tôi uống trà và ăn bánh sen Huế, mà ông nói rằng đáng ra, phải bánh đậu xanh thì hợp hơn”. Chắc là các nữ quan chức này tế nhị đã “lại quả” chủ nhà! Vì trong một dịp trò chuyện, tôi đã tặng ba chị những bông sen ướp trà mà chị Phạm Chi Lan mang từ Hà Nôi vào tặng tôi trong dịp Chi Lan vào công tác tại Sài Gòn.
Để lại kỷ niệm đậm nét trong mối quan hệ bạn bè là hai ông Đại sứ Vương quốc Anh, ông Giles Lever vừa nói ở trên và người tiền nhiệm là Đại sứ Antony Stokes mà tôi đã nhiều dịp tiếp xúc. Khi mãn nhiệm, ông đến thăm và nói sẽ giới thiệu với Đại sứ kế nhiệm. Rồi đúng vậy, Giles trở thành người bạn quý đã nhiều lần đến thăm tôi trong những dịp ông vào Sài Gòn và mấy lần mời tôi đến tư dinh của ông ăn sáng nói chuyện khi tôi có dịp ra Hà Nội.
Tổng Lãnh sự Pháp ở tp HCM, ông Fabrice Mauriès, rồi người kế nhiệm, ông Emmanuel Ly-Batallan cũng vậy. Đến nhà tôi, Fabrice nói ngay “tôi đến thăm ông với tư cách bạn bè, tôi nhờ bà Xuân Phượng, bạn của ông, dẫn đến thăm để thoải mái trao đổi những vấn đề mà tôi biết rằng ông sẽ chia sẻ một cách thẳng thắn”. Rồi Emmanuell cũng với cách nói chân tình và thoải mái như vậy khi đến thăm tôi. Gần đây nhất có dịp trở lại Sài Gòn nhưng không sắp xếp được thời gian đến chơi, Fabrice nhờ bà Phượng chuyển lời thăm. Còn Emmanuell thì hai lần mời tôi đến dùng bữa sáng tại tư dinh, để quanh ly cà phê có thể nói nhiều chuyện hơn. Trước khi ngồi vào bàn, Emmanuell hào hứng giới thiệu mấy bức tranh sơn mài của một danh họa Việt Nam được trang trọng treo chính giữa gian phòng khách, báu vật mà ông tự hào được sở hữu, và yêu cầu chụp chung một tấm ảnh kỷ niệm. Sau cà phê sáng, ông dẫn tôi đi thăm khu vườn của Tổng lãnh sự quán Pháp mà ông thú vị nhắc đi nhắc lại “không có cơ quan ngoại giao nào ở Sài Gòn có được một khuôn viên rộng và đẹp như thế”. Ông lại yêu cầu chụp một tấm ảnh bên cây cổ thụ mà ông cho đây là “sư ưu ái của thiên nhiên dành cho sứ quán Pháp”.
Đương nhiên, không phải mọi quan điểm đều được đồng tình chia sẻ. Trao đổi thân mật song không phải tất cả đều được nhất trí. Tôi nhớ có một câu hỏi liên quan đến vấn đề mà Murray Hiebert trao đổi tôi vừa nói ở trên, sau đó mấy tháng tôi đưa ra một nhận định riêng từ góc độ của một người nghiên cứu cứ tạm gọi là “trong cuộc” để hỏi ý kiến của một vài nhà ngoại giao có quan hệ thân tình thì mỗi người có kiến giải riêng. Chẳng hạn như Giles thì phân vân và nói thẳng rắng ông không cho là như vậy, song Emanuelle thì lại khác. Ông đặt ly cà phê đang cầm trên tay xuống bàn và chìa sang bắt tay tôi ngồi đối diện “tôi tán thành 100% với cách lý giải của ông”, ánh mắt ông nhìn tôi rất hóm!
Từ những góc nhìn khác nhau ấy, là bè bạn nhưng những bạn đến thăm tôi là các nhà ngoại giao, họ phải giữ đúng những nguyên tắc phát ngôn trong những vấn đề được đề cập, mà tôi thì muốn nghe họ trình bày nhiều hơn là tôi nói, nên tôi đặt ra khá nhiều câu hỏi. Có nhiều câu hỏi của tôi, họ cũng chỉ tế nhị mỉm cười tránh né. Và tôi, đương nhiên cũng vậy thôi! Thắng thắn nói ra những suy nghĩ, những nhận định cá nhân và chịu trách nhiệm về những điều mình nói nhằm mục đích làm cho bạn hiểu thêm tình hình mà họ đã chứng kiến để có thể có những đóng góp tích cực hơn vào sự nghiệp phát triển đất nước mình, nhưng cũng không thể tùy tiện nói ra những điều chưa thể nói hoặc không nên nói. Tôi hiểu họ đến với tôi vì muốn nghe những nhận định có trách nhiệm của một người có chút ít hiểu biết và cũng đã có nhiều dịp tiếp xúc với các Trường Đại học, các Viện Nghiên cứu hoặc nhiều nhà nghiên cứu có tên tuổi của Pháp, của Mỹ, của Đức, của Australia, của Nga, của Tiệp v.v…
Có một chuyện vui vui cách đây cũng đã 20 năm mà mấy người bạn nước ngoài vừa cười vừa kể cho tôi nghe lời “nhắn nhủ” của Carl Thayer, một người Mỹ sống ở Australia, giáo sư của Học Viện Quốc phòng Ausralia, một chuyên gia am hiểu về Việt Nam: “Các anh đến Hà Nội muốn la cà đường phố để ăn món ngon lại rẻ thì cứ tìm Tương Lai”. Duyên do là quãng năm 1989 tôi sang dự Hội thảo khoa học ở ANU (Australian National University) tại Canbera, C. Thayer lúc đó là Chủ tịch Hội Úc-Việt Hữu nghị có mời tôi về nhà ăn cơm với vợ chồng ông ấy. Sau đó chúng tôi hay gặp nhau, khi ở Hà Nội, khi ở Sydney, khi ở Chicago trong những cuộc hội thảo. Mấy lần ông ấy đến Hà Nội tôi đều mời ông ấy “la cà đường phố Hà Nội” và ăn tối ở phố Tạ Hiền bên ngách Hàng Buồm rẽ vào. Tôi cũng dẫn ông ta đến ăn “chí mà phù”, món chè vừng đen đậu xanh, để giới thiệu với chủ quán là anh Phạm Bằng, một nghệ sĩ nổi tiếng của Hà Nội. Thật ra, câu chuyện của Carl Thayer khởi đầu từ tiến sĩ Terence H. Hull, giáo sư của ANU, một sáng chủ nhật dẫn tôi vào rừng để ngắm Kangaroo. Sống và làm việc tại Canbera, Terry là người Mỹ đầu tiên cộng tác với Viện Xã hội học trong một dự án nghiên cứu khoa học. Để “đáp lễ” việc Terry đã đưa tôi vào rừng xem Kangaroo trong một ngày chủ nhật của anh, khi anh sang Hà Nôi, tôi đã đưa Terry lên thăm chùa Tây Phương. Tại đây, chúng tôi đã hoàn thiện văn bản dự án Nghiên cứu khoa học với sự tài trợ của UNDP và ANU tại sân chùa, sau khi đã vãn cảnh chùa và giới thiệu với nhà khoa học Mỹ về những bức tượng gỗ rất đẹp tạc “các vị La hán”. Terry đặc biệt ấn tượng với bức tượng “sư tổ La Hầu Đa Đa”, được xem là bức tượng gỗ đẹp nhất trong 18 bức tượng ở đây, có “đôi tai rộng dài ngang gối, cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn” [Thơ Huy Cận].
Tôi muốn qua chuyến vãn cảnh chùa mà giới thiệu về đôi nét văn hóa Việt Nam, chắc Terry có kể lại với Thayer. Tôi rất biết ơn Terry vì anh là nhà khoa học về dân số học đã có công đào tạo nhiều chuyên gia về dân số học không chỉ của Ủy ban KHXHVN mà của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nôi, Ủy ban Dân số, Bộ Lao Động. v. v…của Việt Nam, chắc các anh Trần Tiến Đức, Nguyễn Đình Cử còn nhớ rõ. Tôi hết sức trân trọng phong cách làm việc, sự chu đáo nhiệt tình và rất hiệu quả trong việc huấn luyện, từ lý thuyết đến đi điền dã từ bắc vào nam với các cán bộ trẻ nay đã là những chuyên gia hàng đầu về dân số học, một bộ môn khoa học còn khá mới nhưng hết sức cần thiết với Việt Nam.
Nhưng đã nói về Terry, phải nói ngay đến giáo sư Charles Hirschman, người mở đường tiếp nhận và giúp đỡ đào tạo nhiều tiến sĩ Xã hội học cho ngành khoa học còn non trẻ này cho đến hôm nay vẫn còn tiếp tục. Tháng 6. 2017 hai ông bà Charly còn thân tình đến nhà thăm tôi và vui mừng kể rằng anh ấy rất ngạc nhiên và thú vị đã đọc bài “Vietnam’s Angry Feet” của tôi trên The NewYork Times ngày 6/6/2013. Charly xúc động khi nghe tôi gợi lại hình ảnh cụ thân sinh của anh đã dành cho tôi tình cảm nồng ấm ra sao trong dịp tôi đến nhà anh chị ở Seatle cách nay đã 20 năm. Tôi hỏi thăm và Charly nhắc đến nhiều nhà khoa học Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Australia, Đức, Indonesia, Thailan từng đến làm việc với Viện tôi và có nhắc đến tôi. Tôi hỏi Charly về Benedict Kerkvliet vì tôi nhiều lần nhận được email của ông ấy, Charly cười mà rằng ông đã quên hết tiếng Việt chứ không được như Ben. Và rồi anh tỏ ý tiếc do tôi thôi Viện trưởng mà kế hoạch thực hiện cuộc khảo sát XHH [panel survey] cùng tiến hành với anh ở mấy tỉnh Đồng bằng Sông Hồng dạo ấy bị bỏ dở vào năm 1998, một năm sau ngày tôi từ chức, “chứ nếu tiếp tục thì chắc tôi không quên tiếng Việt như bây giờ”. Tôi hiểu rằng ông bạn tôi chẳng ngụ ý trách móc gì nhưng cũng chỉ biết xin lỗi mà không thể nói gì khác về quyết định chẳng đặng đừng ấy được.
May thay, dạo tháng 3 vừa rôi tôi nhận được email của giáo sư Benedict Kerkvliet. Qua thư, tôi biết ông ấy đã biết, đã hiểu quyết định của tôi, điều ấy đem đến cho tôi một niềm vui lớn. Trước đó, tôi đã vui mừng đọc được bài viết của Ben trên REFORM and DEVELOPMENT [Đổi mới và Phát triển] về “Phong trào dân chủ hóa ở Việt Nam”. Đặc biệt thú vị là trong Hội thảo “Vietnam Update 2013: Góc nhìn học thuật về xã hội Việt Nam đương đại” tại Canbera, tôi thật mừng khi thấy trong tham luận của Benedict Kerkvliet những ý tưởng sâu sắc mà tôi rất quan tâm từ góc nhìn học thuật về xung đột quyền sở hữu đất đai ở Việt Nam để “giải thích vì sao người dân bị mất đất đứng dậy phản đối, khiếu kiện hàng loạt, dẫn đến những cuộc trấn áp có tính bạo lực thời gian qua” như tác giả viết. Bằng những trải nghiệm phong phú từ những nghiên cứu nghiêm túc tại nhiều nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, vị giáo sư xã hội học từng trải này đã xây dựng được một hệ thống khái niệm làm sáng tỏ những lực cản và những động lực thúc đẩy của nông thôn và nông dân trong quá trình phát triển xã hội. Đây là những vấn đề mà là người nghiên cứu, tôi đặc biệt quan tâm khi thực hiện những công trình về nông thôn và người nông dân Việt Nam trước đây, nhất là trong khảo sát xã hội học về sự kiện Thái Bình năm 1997, và trước đó là những nghiên cứu nông thôn đồng bằng sông Hồng với sự giúp đỡ của Charles Hirschman, rồi gần đây là những suy ngẫm về sự kiện Đồng Tâm , Mỹ Đức Hà Nôi, một bước ngoặt thật ngoạn mục của cuộc chiến đấu giữ đất, dẫn tới những xung đột, những khiếu kiện kéo dài của dân oan trên khắp cả nước trước bạo quyền.
Những công trình của Benedict Kerkvliet từng góp phần đặt nền móng cho ngành Việt Nam học ở Australia và các nước trong vùng đã có nhiều gợi ý bổ ích cho ngành xã hội học còn non trẻ của Việt Nam khi thực hiện những nghiên cứu về nông thôn. Thời điểm của những biến động xã hội mà tâm điểm là những xung đột xoáy quanh cuộc chiến đấu giữ đất, vấn đề sống còn của người nông dân trong trường kỳ lịch sử cũng chính là thời điểm mà những người nghiên cứu về khoa học xã hội, đặc biệt là các nhà xã hội học tâm huyết muốn góp phần vào sự phát triển xã hội phải biết vận dụng những tri thức khoa học đích thực vào thực tiễn sống động đang diễn ra, chứ không phải là những rao giảng lảm nhảm từ những giáo trình đã mốc meo với những giáo điều chắp vá từng làm mụ mị đầu óc bao người. Đáng tiếc là còn quá hiếm những nghiên cứu xã hội học như vậy nếu chưa muốn nói là chưa có và chưa dám có. Hay là có rồi mà tôi quá lạc hậu không tiếp cận được chăng, mong là được như thế! Cái gọi là “khoa học xã hội”, đặc biệt là “xã hội học” của ta còn tụt hậu quá xa so với khu vực và thế giới. Phải chăng đó là một trong những nguyên nhân khiến đất nước ta lâm vào tình thế đáng buồn như hiện nay?
Trong nỗi niềm day dứt đó, email của Benedict Kerkvliet giục giã trong tôi nhiều suy tư. Bức thư viết bằng tiếng Việt Ben gửi từ Honolulu ngày 19.2.2018 khiến tôi vừa ngạc nhiên vừa xúc động. Xin chép nguyên văn một đoạn: “Tôi hoàn toàn đồng ý là các bài của anh đã và đang đóng góp cho cuộc chiến đấu. Nếu anh có thời gian gửi đến tôi chuyên mục hàng tuần của anh thì rất quý. Xin anh cứ gửi đi nhé. Tôi nhìn thấy trên blog Dân Quyền bài bình luận “Mênh Mông Thế Sự” của anh. Bài này cũng có trên các blog khác không? Về cuốn sách tôi đang làm thì khi nào nó được sản xuất tôi sẽ gửi cho anh”. Thì ra, những suy tư của một người chỉ ngồi một chỗ đành phải viết ra “để gió cuốn đi” cũng có khi tình cờ rơi xuống rồi đậu lại một nơi nào đó để gợi tí chút lưu tâm thì cũng đã quá quý!
Để lại ấn tượng sâu đậm mà đến hôm nay viết lại, tôi vẫn còn bồi hồi về cuộc viếng thăm của Andrej Motyl, Đại sứ Thụy Sĩ. Đến bằng taxi từ sân bay, ông nói chuyện rất cởi mở, thoải mái tư nhiên như một người bạn thân quen từ lâu, mặc dầu đấy là lần đầu tiên tôi gặp Andrej. Nghe tôi nói cũng đã có mấy lần đến Thụy Sĩ, ông hỏi ngay cảm tưởng của tôi về hồ Genève mà tôi có đi thuyền trên đó, và rồi ông bắt ngay vào chuyện Hiệp định Genève, Việt Nam bị mấy nước lớn là bạn của mình, ép phải ký chấp nhận vĩ tuyến 17 mà thật ra còn phải hơn thế. Từ chuyện đất nước bị chia cắt và cái giá của sự nghiệp thống nhất mà Việt Nam phải trả bằng xương máu như thế nào, ông nói về nước Đức thống nhất ra sao.
Nhìn thẳng vào mắt tôi, ông trầm giọng: “Tôi hiểu nỗi đau và sự phẫn nộ trong anh, tôi chia sẻ với cuộc đấu tranh không mệt mỏi của anh chống lại kẻ thù cướp nước như hàng ngàn năm cha ông của anh đã phải làm”. Andrej hào hứng phát triển thêm ý tưởng mà một vài người bạn trí thức Việt Nam ở nước ngoài am hiểu thời cuộc từng gợi ra, nay tôi muốn biết ý kiến của ông. Ông trầm ngâm một lúc rồi thẳng thắn trình bày: “Do vị thế địa chính trị gắn với lịch sự hình thành của Liên bang Thụy Sĩ, nước chúng tôi có một vai trò nào đó có thể nói là “trung gian” mà chúng tôi tự hào vì nó trong một thế giới dữ dằn và đầy biến đông. Nhưng dân số Thụy Sĩ ít hơn Việt Nam đến mười mấy lần, lịch sử hình thành của đất nước các bạn lại hết sức độc đáo.Trong đó, truyền thống quật cường đã làm cho dân tộc của các bạn tồn tại và phát triển suốt mấy ngàn năm lịch sử trước nanh vuốt của kẻ thù. Chính vì thế, với vị trí địa-chính trị đặc biệt trong các nước Đông Nam Á nói riêng và khu vực Châu Á-Thái Bình Dương cũng như trong bối cảnh của thế giới hiện nay nói chung, có lẽ những người trí thức trong nước như các anh, chứ không chỉ người đang ở nước ngoài, phải nghĩ đến một vai trò của Việt Nam mà khó có nước nào trong ASEAN thuận lợi hơn….”.
Cuộc chuyện trò với vị Đại sứ Thụy Sĩ gợi lên trong tôi những khắc khoải suy tư về một tầm nhìn mới của những cái đầu biết vượt lên khỏi những luẩn quẩn, hạn hẹp trong toan tính thực dụng, không chỉ tìm cách tồn tại đợi thời, mà dám đưa ra những ý tưởng mới, cho dù biết cái giá phải trả. Để làm gì? Để chọc thủng lớp sương mù dày đặc nhằm mở ra một hướng đột phá không phải là không thể. Dù rằng, như ai đó đau đớn thốt ra, vận nước đang suy nên chỉ nảy nòi ra một lũ bất tài vô tướng chỉ biết “ăn không chừa một thứ gì” đang đẩy đất nước vào cái thế hiểm nghèo. Trong tai tôi như vẫn ong ong lời nói của chị H, giám đốc một Công ty có nhiều mối quan hệ với các nhà đầu tư nước ngoài “trong bữa cơm thân mật, một bạn Pháp nói vui :“đất nước của các vị đẹp tuyệt vời, cái gì cũng có, chỉ thiếu một cái đầu”, tôi nghẹn họng không nuốt được thìa xúp!”. Mấy anh em chúng tôi đến thăm anh N, chồng chị H đang nằm viện, mặt cứ thuỗng ra không nói được gì. Tôi cáo lỗi ra về trước, chị H sợ tôi mệt đứng dậy đưa tôi ra xe. Nặng nề nhấc từng bước trong khắc khoải những miên man dằn vặt về câu nói vô tình của người nước ngoài kia, tôi vừa giận vừa đau, mà thật ra họ nói đâu có sai!
Thoáng thấy tôi đột nhiên trở nên đăm chiêu, ông Đại sứ nhìn đồng hồ rồi đưa tay vỗ nhẹ vào vai tôi đứng dậy: “thôi, tôi phải đi không thì lỡ chuyến bay, mặc dầu trà của ông rất ngon, tôi còn muốn uống nữa”. Ông kín đáo cười, lại ngồi xuống uống tiếp chén trà, vỗ vỗ vào cái ghế: “nếu trễ máy bay thì tôi sẽ quay lại và ngủ trên cái ghế dài này, chắc ông không đuổi tôi chứ”. Ông cười hồn nhiên, khoáng đạt. Đúng là nụ cười bè bạn. Tiễn ông xuống đường, đã mở cửa taxi ông còn quay lại ôm chặt tôi “hy vọng còn có dịp gặp lại để nói chuyện được nhiều hơn”. Rồi tôi sẽ nói với ông những gì đây khi gặp lại sau những gợi ý chân thành của một nhà ngoại giao lịch lãm và thẳng thắn. Còn quá nhiều điều để mà suy nghĩ, để mà dằn vặt, để mà trĩu nặng suy tư về những gì đang phải chứng kiến “Giữa mùa phản phúc, Tối đen tù ngục, Suối đã đục dòng, Chỉ lệ còn trong”, để mà dồn hết sức tàn lực kiệt cho điều tôi ghi vào đầu trang như một đề từ cho cuốn sách “Mênh mông thế sự để gió cuốn đi 2017” của tôi gửi tặng bạn bè:
“Những gì ta yêu phải cứu thoát ra
Tự mình ta, tự mình ta”.
[Louis Aragon]
Sài Gòn ngày 7.4.2018
Chú thích ảnh từ trên xuống: 1. Với Đại sứ Anh đến thăm. 2. Với Bruno Philip, phóng viên của Le Monde. 3. Với Thomas Fuller, phóng viên của The New York Times. 4. Với Murray Hebiert, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) Washington. 5. Với các quan chức ĐSQ và TLSQ Australia. 6. Đại sứ Anh Anthony Stokes đến thăm. 7. Đại sứ Anh Giles Lever mời ăn sáng tại tư dinh ở Hà Nội. 8. Tổng Lãnh sự Pháp Fabrice Mauriès đến thăm. 9. Tổng Lãnh sự Pháp Emmanuell mời ăn sáng tại tư dinh ở Sài Gòn. 10. Với ông Nobuhiro Okuma, trưởng đại diện của Kyodo Newsv đến trao đổi. 11. Giáo sư Carl Thayer. 12. Với Terence H. Hull, giáo sư của ANU. 13. Ông bà Charles Hirschman đến thăm. 14. Giáo sư Benedict Kerkvliet. 15 và 16. Đại sứ Thụy Sĩ Andrej Motyl đến thăm.
____
Mời đọc lại: Mênh mông thế sự để gió cuốn đi số 10: Thật đáng xấu hổ! — Số 11: Tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng — Số 12: Thế Sự Du Du — Số 13: Chân lý là cụ thể — Số 14: Những bục vỡ khó tránh khỏi — Số 15: Đôi điều ngẫu hứng về “ngày Người Cao Tuổi” — Số 16: Những lời tâm huyết gửi cho ai — Số 17: Lan man về chuyện trích dẫn văn chương — Số 18: Thiên tài liền với thiên tai một vần — Số 19: Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng — Số 20: Giải khát bằng thuốc độc — Số 21: Chịu thua dân ư, chịu sao thấu! — Số 22: Hãy nghe và hãy nhìn vào người dân trên đường phố — Số 23: Giá lúc này có được tầm nhìn và bản lĩnh Sáu Dân — Số 24: Lịch sử sẽ phán xét bản án mà chúng đang quàng vào cổ dân ta, dìm chết tuổi trẻ chúng ta — Số 25: Chuyện cũ viết lại — Số 26: Chuyện cũ viết tiếp — Số 27: “Suối đã đục dòng, chỉ lệ còn trong” — Số 28: Thế sự cong queo — Số 29: “Họa phúc hữu môi phi nhất nhật” — Số 30: “Tiễn người đi mờ bóng cuối chân trời…” — Số 31: “Đừng xáo nước đục đau lòng cò con” — Số 32: Hết khôn dồn đến dại — Số 33: Liên khúc năm Gà — Số 35: Trên đồi cao giữa mây trời lộng gió — Số 36: Nhân một tọa đàm khoa học vừa bị giải tán