THẰNG SÀI GÒN

Khuất Đẩu

Ảnh minh họa. Nguồn: triethocduongpho.com

Tố Hữu, nhờ những bài thơ siêu nịnh mà lên đến chức phó thủ tướng.

Nịnh Stalin, nịnh Bác.

Trong bài Ta đi tới, Sài Gòn được ông gọi là thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng. Gọi trong thơ cũng được thôi, nhưng sau 1975, người ta bắt cả nước, nhất là người miền Nam cũng phải gọi như thế. Từ đó, thành phố thay tên đổi họ, cũng như ông cụ đã bỏ tên Nguyễn Sinh Cung để lấy tên Hồ Chí  Minh. (Sao không lấy tên Nguyễn Ái Quốc?!)

Tên mới, dù không đẹp bằng “hòn ngọc viễn đông”, nhưng cũng óng ánh, lóng lánh. Khốn nỗi khi nói về thành phố này, người ta vẫn gọi là hang ổ của Mỹ ngụy. Và, tất cả những gì xấu xa dơ bẩn nhất đều đổ trút cho Sài Gòn. Như đĩ điếm, cướp giật, xì ke ma túy…Trong khi những gì sang trọng bề thế đều rực rỡ mang tên Bác.

Trong những cuộc họp đương nhiên là nghiêm trang, người ta trịnh trọng kính mời đại biểu thành phố Hồ Chí Minh lên phát biểu ý kiến. Và dù vị đại biểu nọ có nói đông nói tây, dông dài cà kê dê ngỗng đến chán ngấy, người ta vẫn chăm chú lắng nghe hay chép chép ghi ghi. Rõ là tiếng nói của thành phố mang tên Bác có sức nặng hơn các thành phố khác như Nha Trang, Cần Thơ…

Nhưng, khi tan họp, trong những lúc bù khú, bên bàn tiệc ê hề, khi những tiếng dô dô đồng loạt cất lên, thì người ta gọi nhau tuốt bằng …thằng. Thằng Biên Hòa, thằng Cà Mau, thằng Thừa thiên Huế …Và, thằng …Sài Gòn ( nguy hiểm à nghen, coi chừng quen trớn gọi là thằng H. thì bỏ mạng chứ không phải bỏ mẹ).

Thành phố lúc ấy hơn 5 triệu dân, nhưng chỉ những ai có công với cách mạng, nghĩa là những nữ biệt động thành từng ném lựu đạn ở nhà hàng này, khách sạn nọ, những văn nhân, thi sĩ chỉ điểm, những sinh viên ra bưng trở về và hàng đống hàng đàn những người miền Bắc ồ ạt chi viện cho miền Nam mới được vinh hạnh xưng là công dân thành phố Hồ Chí Minh. Còn tất cả, từ bác sĩ kỹ sư, từ thương gia đến buôn thúng bán mẹt đều là ngụy, cần phải cải tạo tại chỗ mới trở thành công dân hạng hai. Sự phân biệt rạch ròi ấy được Huy Đức gọi là bên Thắng cuộc và bên Thua cuộc. Hai bên cách xa một trời một vực như bài vè sau đây;

Tập tầm vông

Chị có chồng

Em ở góa (giá)

Chị ăn cá

Em mút xương

Chị nằm giường

Em nằm đất

Chị ăn mật

Em mút ve (de)

Chị ăn chè

Em liếm bát

Chị coi hát

Em vỗ tay

Chị ăn mày

Em xách bị

Chị làm đĩ

Em thu tiền!

Cùng một mẹ mà chị như bà chủ còn em như nô lệ. Có điều, đứa em tội nghiệp tuy phải mút xương, liếm bát để sống nhưng vẫn còn giữ được cái tiết trinh, trong khi bà chị bảnh chọe vênh vang là thế, sau cùng lại phải bán trôn nuôi miệng.

Một bài vè vẩn vơ có từ xưa sao nghe ra có điều gì báo trước cứ như sấm Trạng Trình vậy!

Khuất Đẩu

Bình Luận từ Facebook