20-4-2020
Trong cuốn Hồi ký của ông Lý Quang Diệu, khi nói đến mối quan hệ Trung Quốc và Việt Nam, ông nói một đại ý rằng, các lãnh đạo Trung Quốc sẽ luôn kiềm chế Việt Nam.
Kiềm chế ở đây không phải là ở sự hung hăng bạo lực gây hấn mà là kiềm chế sự phát triển và kiểm soát vâng phục.
Từ lâu nay phía Trung Quốc đã thực hiện một chính sách đầy chủ ý và đạt được sự hợp tác từ phía Việt Nam kết giao về kinh tế, phía Việt Nam được cung cấp nguồn nguyên phụ liệu cho gia công xuất khẩu và nguồn hàng tiêu dùng đủ các thể loại.
Trung Quốc cũng là thị trường lớn tiêu thụ lớn các mặt hàng nông sản chưa qua chế biến và khoáng sản của Việt Nam.
Việt Nam được cho dự phần vào bữa tiệc kinh tế thịnh vượng mà Trung Quốc tạo ra được, một thị trường tiêu thụ lớn, một tầng lớp trung lưu chi nhiều tiền cho du lịch, qua đó một loạt doanh nghiệp cỡ lớn của Việt Nam cũng phát triển theo.
Nhưng khác với mối quan hệ giữa hai thị trường liền nhau như Mỹ và Mexico, một nền kinh tế bé được hưởng lợi bên cạnh một nền kinh tế lớn, phía Mỹ không có dã tâm về lãnh thổ và là người tạo lập luật chơi công bằng.
Còn mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam, bằng cách sử dụng mối liên kết kinh tế và dòng chảy thương mại vốn là sự tất yếu khách quan giữa hai nền kinh tế liền kề, lãnh đạo Trung Quốc nắm được trong tay cầu dao ngắt nhịp dòng chảy thương mại, tạo ra sự phát triển hoặc ngưng trệ cho phía Việt Nam.
Đó là cách để tạo ra sự phụ thuộc và vâng phục.
Nhưng điều đó vẫn còn chưa đủ.
Hiện Nay Trung Quốc đang có tham vọng thực hiện giấc mộng lớn.
Họ muốn VN trở thành một dạng như nguyên vật liệu để xây dựng công trình nước lớn của họ.
Điều đó không tránh khỏi khiến VN không còn nguyên trạng là mình, và lâm vào trình trạng bị nhào nặn bóp vỡ vụn để TQ xây dựng giấc mộng.
Hiện nay, có thể hình dung, TQ đang dang rộng hai bàn tay để lấy sức bóp vỡ vụn Việt Nam.
Việt Nam bị tác động cả mặt phía Đông hướng ra biển và mặt phía Nam.
Ở Biển Đông Trung Quốc coi đó là vùng biển lãnh thổ của họ, gần như đang thực hiện chính sách phong tỏa đối với Việt Nam, bắt tàu ngư dân, không cho khai thác dầu khí, các tàu hải quân của VN ra biển Đông rất có thể sẽ trở thành mục tiêu tấn công của hải quân Trung Quốc.
Trung Quốc cũng phát triển mạng lưới đập thủy điện dày đặc để thực hiện tham vọng kinh tế nông nghiệp, một cách tất yếu khiến các nước khác cũng làm theo để có được nước.
Điều này dẫn đến hệ quả người thụ hưởng cuối dòng là đồng bằng Sông Cửu Long của Việt Nam bị cạn trơ đáy, không còn nước, không còn phù sa bên lở bên bồi, không còn mùa nước nổi về với cá tôm cây trái, nhiều hình ảnh thơ ca nhạc họa về một vùng đất phì nhiêu trù phú sẽ chỉ còn trong quá khứ.
Việt Nam sẽ bị bóp vỡ vụn bởi hai gọng kìm tác động đó từ cả phía Đông và phía Nam.
Từ lâu nay nhiều người có quan điểm rằng lãnh đạo Trung Quốc sẽ không quá đáng để bị mất đi một nước cộng sản anh em cùng chung phe hiện còn ít ỏi thành viên.
Nhưng nhận thức này cần phải xem lại.
Cần phải xác định rằng phía Trung Quốc đặt mục tiêu phát triển vĩ đại của đất nước họ lên cao nhất.
Và nếu Việt Nam là một rào cản chướng ngại thì họ sẽ dẹp bỏ ngay.
Trong trường hợp Việt Nam bị vỡ thì chính lãnh đạo TQ sẽ nói với người dân nước họ rằng điều đó chẳng quan trọng, đó chính là hành động chủ động của TQ và là bằng chứng cho thấy lãnh đạo Trung Quốc đặt mục tiêu phát triển quốc gia cao hơn ý thức hệ.
Bằng cách đó khẳng định với dân chúng rằng đối với lãnh đạo TQ không có gì lớn hơn lợi ích dân tộc.
Cũng đừng quên rằng lâu nay TQ đã xây dựng một chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc riêng của TQ.
Theo đó, một nước VN chậm tiến lạc hậu chẳng có lợi gì về hình ảnh khi gắn với một Trung quốc thịnh vượng vĩ đại.
Bởi người ta sẽ đặt nghi ngờ về tính đúng đắn của chủ thuyết phát triển nếu hỏi VN cũng đường lối đó tại sao lại thế?
Cho nên những nhận thức chủ quan có khi sẽ phải trả giá đắt.
Cũng đừng ai nghĩ rằng nếu VN thay đổi thì TQ sẽ mất đi vai trò khả năng chi phối đối với VN.
Ngược lại cho dù tương lai VN ra sao, thì TQ vẫn tìm cách gây ảnh hưởng tác động tới VN, đó đã là đặc tính dân tộc của phía họ rồi.
Cho nên hiện nay, với những gì đang diễn ra, với những tập quán nhận thức từ lâu không có sự thay đổi, khi lãnh đạo Trung Quốc đang chịu áp lực lớn về sự suy thoái kinh tế, sụt giảm uy tín quốc tế và niềm tin dân chúng, không loại trừ khả năng họ sẽ coi VN là mục tiêu bóp vỡ, nhằm tạo ra một tình thế nhận thức có lợi cho lãnh đạo nước họ ở quốc nội.
Trích: “Từ lâu nay phía Trung Quốc đã thực hiện một chính sách đầy chủ ý và đạt được sự hợp tác từ phía Việt Nam kết giao về kinh tế, phía Việt Nam được cung cấp nguồn nguyên phụ liệu cho gia công xuất khẩu và nguồn hàng tiêu dùng đủ các thể loại.
Trung Quốc cũng là thị trường lớn tiêu thụ lớn các mặt hàng nông sản chưa qua chế biến và khoáng sản của Việt Nam.“.
Chế độ thực dân từ đầu thế kỷ 20 trở về trước cũng làm y hệt:
1) Mẫu quốc chi phối nền kinh tế thuộc địa. Nền kinh tế thuộc địa phải lệ thuộc vào mẫu quốc.
2) Thuộc địa là nơi mẫu quốc khai thác khoáng sản, nông sản thô, giá rẻ và môi trường bị tàn phá.
Những điều này phục vụ cho nếp sống cao hơn của mẫu quốc.
Cái liên hệ (relationship) kinh tế giữa TC và VN ngày nay xảy ra y hệt như vậy!