Phạm Thị Hoài
5-7-2018
Tiếp theo phần 1
Toàn văn Hiến pháp Hoa Kỳ có được cài thẳng vào hay thay thế Hiến pháp Việt Nam tối hôm nay thì sáng mai Việt Nam vẫn không thành một quốc gia dân chủ. Văn bản luật pháp dĩ nhiên quan trọng, như đã trình bày trong phần 1, song đời sống thực của nó chứ không phải sự tồn tại trừu tượng của những con chữ lại hoàn toàn phụ thuộc vào thể chế và môi trường xã hội.
Một văn bản luật nhân bản và giàu sức sống nhất cũng chết trong một không gian pháp lý phi nhân tính và mịt mù tù túng. Chương II Hiến pháp Việt Nam đẹp như mơ, có thể sánh vai những hiến pháp tiến bộ nhất hành tinh. Song hiện thực của quyền con người và quyền công dân ở Việt Nam lại chôn chân ở một đẳng cấp hoàn toàn khác.
Các nhà quan sát dân chủ đã quá lạc quan khi luật pháp toàn trị ở Liên Xô và các nước Đông Âu cũ được thay thế gần như qua đêm. Song trong vòng chưa đầy ba mươi năm, cả Nga và nhiều nước Đông Âu lại lần lượt tiến từng bước vững chắc về hướng chuyên chế. Di sản của các xã hội toàn trị bền hơn hẳn những cải cách tư pháp.
Điều gì thì tốt hơn: một văn bản luật đen tối tương xứng, hay một văn bản luật sáng ngời tương phản hiện thực u ám? Sống trong địa ngục với luật địa ngục thì tốt hơn, hay với luật thiên đường? Tôi không trả lời được câu hỏi đó, nhưng tôi cho rằng nếu 36 điều rực rỡ của Chương II Hiến pháp không đủ sáng để đẩy lùi bóng tối của Luật ANM thì chúng ta không nên quá quan tâm đến văn bản.
Nhiều người phản đối Luật ANM hay một số điều nhất định của luật này đã phản ứng như thể nó là một công cụ mới toanh, được bổ sung để siết chặt tự do internet ở Việt Nam. Không đúng. Cách đây không lâu đã có Nghị định 72/2013/ND-CP “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng” tương tự. Nhưng dù không có cả Nghị định này lẫn Luật ANM, thậm chí dù các điều 79, 88, 258 Luật Hình sự cũ (tức các điều 109, 117, 331 Luật Hình sự Tu chính) không tồn tại thì những người sử dụng internet để bày tỏ tiếng nói bất đồng chính kiến của mình với chính quyền vẫn bị đàn áp, mức độ trừng phạt ngày càng cao. Chính quyền Việt Nam không cần và chưa bao giờ cần một công cụ pháp lý chính thức để làm việc này. Nó cũng không cần một sự hợp pháp hóa cho bất kỳ một chính sách nào. Tất cả chỉ là những thủ tục hình thức.
Một bộ luật mới như Luật ANM dĩ nhiên có thể nhất thời gây bức xúc, song nó không phải là một đột biến, mà là tiếp diễn tự nhiên của truyền thống thù địch tự do internet, nhưng có thể đạt tới một chất lượng kiểm duyệt và đàn áp mới, nếu nó dọn đường cho bước phát triển theo mô hình Trung Quốc, phong tỏa cộng đồng mạng Việt Nam bằng những thành tựu và sản phẩm công nghệ xuất sắc made in China. Chủ nghĩa cộng sản 0.4 là chuyên chính vô sản cộng với điện khí hóa toàn quốc, theo Lenin. Chủ nghĩa cộng sản 4.0 là chuyên chính tư bản nhà nước cộng với số hóa toàn quốc, theo Tập Cận Bình.
Nhưng cũng không ít người hoan nghênh việc kiểm soát và kiểm duyệt mạng theo tinh thần của Luật ANM. Họ lập luận rằng dân trí nước ta còn rất thấp, người Việt còn ngu dốt, chỉ thuần cảm tính, nhẹ dạ mù quáng, phát ngôn bừa bãi nóng nảy, đụng một tí là gí lồng văng cục, đã thế còn ngông cuồng manh động, ỉ đáy vào luật pháp, cào phím thay vì động não, tóm lại là ngu lâu hết đường chữa. Ở đó, trên mạng, hàng ngày những anh chị thầy đời với đội ngũ cổ động viên đông đảo sa sả mắng mỏ và giáo huấn đám dân Việt đầu óc hũ nút mà họ gọi là lừa, là mọi, là bần cố nông, là quần chùng, mít đặc. Rằng để lãnh đạo lũ lừa An Nam nhẹ không ưa này thì chỉ có cộng sản là đủ chiêu và đủ tầm.
Lập luận này có phần đi theo hướng các chủ thuyết thực dân và phát-xít về những chủng man di xứng đáng bị những tộc thượng đẳng chăn dắt cai trị. Song chủ nghĩa thực dân còn phải viện vào sứ mệnh khai hóa, chủ nghĩa phát-xít viện vào tính ưu việt của những chủng tộc đặc tuyển, trong khi chủ nghĩa lừa-ưa-nặng đương nhiên mặc định một số phận tăm tối không có lựa chọn nào khác của một dân tộc hay một cộng đồng.
Trong cái diễn ngôn tột đỉnh khinh miệt con người đó, các anh chị thầy đời ấy cũng ít nhiều thừa nhận sự độc đoán, tàn nhẫn, bất công, tha hóa và đểu giả của bộ máy cai trị tự mệnh danh cộng sản, song nếu không trực tiếp đồng tình thì họ cũng hăng hái thông cảm, rằng không như thế thì đám dân đã ngu còn tỏ ra nguy hiểm này làm loạn. Giải phóng thì quên đi, sứ mệnh giải phóng những người cùng khổ đã cảm ơn trả về cho Karl Marx. Khai phóng, khai sáng hay khai hóa đều bằng thừa. Thân lừa sinh ra là để bị xỏ mũi.
Các tệ nạn xã hội quả nhiên rất yêu vũng bùn lầy tù đọng của ngu dốt mông muội. Dân đen sinh ra trong đó và ngắc ngoải ở đó, song các đại diện ưu tú của tầng lớp thượng lưu kinh tế, truyền thông và chính trị mới chính là những kẻ hiểu rõ giá trị của vũng bùn đen ngòm ấy, mới biết cách khoắng nó lên, đổ thêm nhầy nhụa và dìm cổ dân chúng xuống đó mãi mãi.
Thật mỉa mai, khi các anh chị thầy đời bàn về việc người Việt không đủ văn minh để xứng đáng được phát ngôn tự do trên mạng rồi vui vẻ giao nhiệm vụ bịt những cái mồm thối của đám phá rối trật tự trên mạng cho công an thì chính những vị tướng công an cao cấp nhất quốc gia lại chống lưng cho các trùm tội phạm – toàn những anh chị đẹp đẽ trẻ trung, sáng láng, đầy học thức, ngoại ngữ, cương vị, quyền lực – lôi kéo hàng chục triệu con bạc khốn nạn lao vào cuộc đỏ đen trên không gian ảo.
Cư dân mạng Việt Nam đang đứng ở nấc thang nào của văn minh?
Nhiều năm trước, khi thường xuyên phải tiếp xúc với những phát ngôn chửi bới nhục mạ, tôi đã đinh ninh rằng chỉ cộng đồng mạng Việt Nam mới có thể sinh ra những sản phẩm hạ lưu như thế. Nhưng tôi đã rất nhầm. Đỉnh cao của nhân loại có thể phụ thuộc vào những chỉ dẫn địa lý, song vực sâu của cũng nhân loại ấy thì phi chủng tộc và biên cương.
Người Việt không hề là ngoại lệ. Ở Đức, trong chính những ngày này, khi đội tuyển quốc gia nếm thất bại chưa từng thấy trong cả lịch sử tham dự Giải Vô địch Bóng đá Thế giới, mạng xã hội sặc mùi cống rãnh kinh tởm. Người ta trút mọi ăn thua cay cú và nỗi nhục bại trận lên đầu dân nhập cư, người tị nạn và chính sách tị nạn còn ít nhiều tử tế của Thủ tướng đương nhiệm. Như thể mấy cầu thủ gốc Thổ và châu Phi trong đội tuyển đã vấy bẩn dòng máu bóng đá thanh khiết của dân tộc Đức, khiến huyền thoại bóng đá Đức sụp đổ, phép màu kinh tế Đức tan biến, lũ bựa Hồi giáo sẽ hãm hiếp đến phụ nữ tóc vàng cuối cùng và giang sơn của dòng giống German sẽ đi tong.
Toàn những giọng như vậy, ở nơi được mệnh danh là đất nước của thi hào và triết gia, của Goethe và Kant, của tinh thần duy lý. Ở Nga, đất nước của Pushkin và Tolstoy, cũng những ngày nóng bỏng này, thịt da phụ nữ Nga đang bị nướng trên truyền thông lá cải và mạng xã hội, chấm với món nước sốt dân tộc nhãn hiệu Gái-Nga-không-ngửa-lờ-cho-trai-ngoại.
Ở Ấn Độ, đất nước của Phật tổ và Gandhi, nạn nhân của những tin đồn thất thiệt về trẻ em bị bắt cóc lan truyền qua WhatsApp trong vòng ba tháng gần đây đã lên đến 9 người. Năm ngoái, tổng cộng 22 người vô tội bị những đám đông cuồng nộ phanh thây xé xác cũng vì WhatsApp. Nhưng con số đó quá khiêm tốn so với những bê bối khác của Facebook, tập đoàn doanh nghiệp đã mua ứng dụng này mấy năm trước với giá 19 tỉ dollar.
Ở Miến Điện, chiến dịch đàn áp gần 700,000 người Rohingya Hồi giáo cũng một phần bắt nguồn từ những mồi lửa kích động lây lan trên Facebook, theo báo cáo của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp Quốc. Ở Mỹ, điều gì xảy ra trên Twitter lúc 3 giờ sáng hàng ngày, giờ EST, chúng ta đã biết. Người Việt không xứng đáng bị bịt miệng trên mạng hơn người bất kỳ nước nào.
Song số đông người Việt hầu như mù tin học, kỹ năng internet duy nhất là trường kỳ bám phây, thậm chí không hề biết đến thao tác đăng xuất khỏi Facebook. Họ dễ thành nạn nhân hơn tội phạm trên mạng. Song thay vì bảo vệ họ hay giúp họ tự bảo vệ mình, chính quyền trước sau chỉ tập trung ngăn chặn những nội dung bị coi là “phản động, tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước, nói xấu, bôi nhọ chế độ.” Báo cáo minh bạch của Google nửa cuối năm 2017 cho thấy, 83% nội dung bị chính quyền Việt Nam yêu cầu gỡ bỏ là vì phê phán chính quyền. Để so sánh: tỷ lệ này ở các nước dân chủ Bắc Mỹ, châu Âu, Nhật và Hàn quốc là 0%, Nga: 2%, Trung Quốc: 8%. Thay vì lo ngăn chặn những tệ nạn thực sự trên mạng, chính quyền Việt Nam trước hết lo dập tắt những tiếng nói bất đồng chính kiến. Không khó đoán Luật ANM trước hết sẽ được dùng vào việc gì.
NetzDG, dù có những điểm đáng tranh cãi thế nào, chắc chắn không để dùng vào việc tương tự. Hơn nữa, ở Đức, dĩ nhiên bạn cứ việc công khai phê phán, đi biểu tình chống NetzDG và đâm đơn kiện luật này lên Tòa Bảo hiến, thẩm quyền pháp lý tối thượng của quốc gia. Để lấy một ví dụ: năm 2008, căn cứ vào Chỉ thị 2006/24/EC của EU (Data Retention Directive), Đức ra Luật Bảo quản Dữ liệu Dự phòng (Vorratsdatenspeicherung). Gần 35,000 đơn kiện ào ạt gửi đến Tòa Bảo hiến. Năm 2010, Tòa Bảo hiến Liên bang tuyên hủy luật này vì vi hiến. Năm 2014, Pháp viện Tối cao Châu Âu tước bỏ hiệu lực của Chỉ thị nói trên. Năm 2015, Đức ra một Luật Bảo quản Dữ liệu Dự phòng sửa đổi, và lại kéo theo hàng chục ngàn đơn kiện. Trước khi Tòa Bảo hiến ra quyết định cuối cùng, luật này bị hoãn thi hành dù đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực.
Việt Nam không cần Tòa Bảo hiến, thẩm quyền pháp lý tối thượng là Bộ Chính trị Đảng Cộng sản.
Phạm Thị Hoài đọc nhiều, biết nhiều, thông minh nhưng Điều 25 Hiến pháp về các quyền tự do: „Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.“ Có đẹp như mơ như Phạm Thị Hoài (PTH) nêu ra ở đây không thì tôi nghĩ PTH đã nhầm lẫn không nhỏ vì Hiến pháp các nước không hề có đuôi „do pháp luật quy định“. PTH tóm lại có năng lực chung, nhưng về Hiến pháp thì chưa đủ sâu để dẫn dắt dư luận. 1 ví dụ không hề như mơ như Phạm Thị Hoài nói là Điều 20 HP: „Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân“ mà trong thực tế công an toàn quyền bắt giữ mà việc phê chuẩn thông qua Viện kiểm sát ND hoàn toàn hình thức – điều ở nước ngoài chỉ có thẩm phán (hay Tòa) mới có quyền này. Nhân nói đến thẩm phán thì vài lời Hiến pháp VN nhắc phải cho thẩm phán „độc lập“ không đủ. Thẩm phán nước ngoài độc lập chung chung chứ không chỉ độc lập „khi xét xử“ như thẩm phán Việt Nam. Chính vì thế thẩm phán VN phải chịu sự chỉ đạo trước và sau khi xử án, chưa kể thẩm phán bổ nhiệm ngắn hạn (trước 5 năm nay lên 10 năm) nên có thể nói độc lập là chuyện về lý thuyết đã không tưởng chứ chưa nói về thực tế. Và còn sở hữu toàn dân tại Chương 1 thì quyền „có nơi ở hợp pháp“ theo Điều 22 có còn „như mơ“ không thì tôi nghĩ PHH phải nghĩ lại! PTH sống ở Đức cần chú ý Hiến pháp Đức không nói để dân đọc cho hay, mà nói hay xác định để thực hiện. Điều 19 HP Đức sau khi đã liệt kê các quyền Hiến pháp thừa nhận thì cũng khẳng định dù luật kiểu gì cũng không được phép xâm phạm vào bản chất của quyền đó „(2) In keinem Falle darf ein Grundrecht in seinem Wesensgehalt angetastet werden.“, thì như đã thấy quyền nêu ra ở Hiến pháp và bây giờ quyền vẫn phải chờ „luật“ (như luật biểu tình) cho thấy Hiến pháp Việt Nam khác Hiến pháp các nước như thế nào – chứ không chỉ như mơ như PTH đã nói!