Nguyễn Thông
6-3-2025
Nghe “mới” ai mà chẳng thích. Họa chỉ có gỗ đá hoặc kẻ khư khư bám lấy cái cũ lỗi thời để vinh thân phì gia thì mới lạnh lùng, dửng dưng, không muốn “vào”. Vào kỷ nguyên mới không có nghĩa xóa bỏ hết thứ cũ, nhưng những gì đã quá vướng víu, cản trở, tai hại thì nên bỏ.
Tôi rất ghét câu dạy đời “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn anh bằng đại bác” bởi nó rất hồ đồ. Có những thứ quá khứ cần bị đào sâu chôn chặt mới vươn tới tương lai được, vào kỷ nguyên mới được.
Những nhà lãnh đạo, cầm quyền nước này đã không ít lần chủ trương “gác lại quá khứ, hướng đến tương lai”. Đó là nhận thức, tư duy cởi mở, nhất là ở một nước từng chiến tranh liên miên với nhiều kẻ thù. Chỉ có điều, chủ trương ấy bị “nhất bên trọng, nhất bên khinh”, không được thực thi tử tế. Điều đó ta có thể thấy rõ nhất trong quan hệ của nước này với Trung Quốc và Mỹ. Tôi không cần nhắc ra đây, bởi hầu như ai cũng rõ.
Từ đầu năm tới giờ, thậm chí từ năm ngoái, bộ máy từ trung ương tới địa phương nhắc nhỏm nhiều về việc tuyên truyền những “ngày lễ lớn” và sự kiện trọng đại trong năm 2025. Tất nhiên ở vị trí đầu của chuỗi việc trọng ấy là kỷ niệm “50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” – ngày 30.4. Cụm từ ấy qua nửa thế kỷ tồn tại đã tới lúc cần được xem xét lại, thậm chí khí muộn.
Phe chiến thắng trong cuộc chiến tranh Bắc – Nam 1954-1975 dĩ nhiên có quyền đặt ra bất cứ khẩu hiệu nào mà họ thích. Khi không khí chiến thắng sôi sùng sục, chả mấy ai để ý nó có đúng không, hợp lý, chính xác không, ví dụ “giải phóng miền Nam”. Ông Lưu Hữu Phước từng có hẳn bài hát “Giải phóng miền Nam” kêu gọi “đây Cửu Long hùng tráng, đây Trường Sơn vinh quang, thúc giục lòng ta xung phong đi giết thù”. Ông Hồ Bắc viết “Ta đang sống những ngày lịch sử, ta xốc tới bước trên đầu thù, ta phát cao lá cờ thắng lợi trên Sài Gòn”, ông Lư Nhất Vũ thì “Sài Gòn đó đang chờ ta tải đạn về”… Tất cả chỉ nhằm “giải phóng miền Nam rên xiết dưới ách Mỹ ngụy”.
Về sự nghiệp “giải phóng” ấy, có nhẽ ta chỉ cần nêu ý kiến của hai người từ hai phía, bên thắng cuộc và bên thua cuộc. Ông Võ Văn Kiệt trăn trở (trên báo Quốc tế, nay là báo Việt Nam và thế giới của Bộ Ngoại giao, số ra ngày 30.3.2005) “30 tháng 4 là chiến thắng vĩ đại nhưng chúng ta đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn” nên phải thực tâm khoan dung, hòa hợp. Nhà thơ Bùi Giáng thì chua chát “Đánh cho Mỹ cút ngụy nhào/Đánh cho chết mẹ đồng bào miền Nam”, câu này tôi được nghe từ cuối thập niên 1970, ai cũng bảo của Bùi Giáng.
Ông Sáu Dân – Võ Văn Kiệt khuyên phải thực tâm khoan dung, hòa hợp, chứ đừng nói một đằng làm một nẻo. Tôi sống ở miền Nam từ đầu năm 1977, cũng gần nửa thế kỷ rồi, đã gặp đủ dạng người miền Nam, từ người ít học, làm thuê làm mướn tới bậc nhân sĩ trí thức, kể cả những người bên thắng cuộc. Trò chuyện với họ, tôi hiểu rằng đại đa số người dân miền Nam không thích thú gì việc “giải phóng miền Nam”. Nhiều thầy giáo dạy cùng trường tôi, những trí thức được bên thắng cuộc “lưu dung” (tha cho, giữ lại để dùng) không ít lần nói “chúng tôi đang yên ổn, đâu cần các thầy vào giải phóng để rồi phải sống khổ sở thiếu thốn như thế này”. Đó là năm 1978, Sài Gòn đang nếm mùi cách mạng làm chủ tập thể, bao cấp.
Không tin lời trên, các vị cứ làm cuộc điều tra, kiểu như thăm dò dư luận, lấy ý kiến dân miền Nam, nhất là những người sống từ trước 30.4.1975 thì rõ ngay. Tất nhiên chính quyền chẳng dại gì làm thế.
Lịch sử là dòng chảy sự kiện theo thời gian. Có một lịch sử khách quan, như vốn có, tồn tại bên thứ lịch sử theo ý chí của nhà cai trị. Giờ làm gì còn người chép sử như Thái-sử Bá thời xưa kiên quyết chép “Thôi Trữ giết vua” dù biết ghi như thế là chết. Sử thời nay là sử của tuyên giáo, tuyên truyền, nhào nặn.
Với sự kiện 30.4 cũng vậy. Năm nào kỷ niệm ngày 30.4 cũng đình đám, bất kể chẵn hay lẻ. Năm nay 2025 tròn 50 năm. Tròn hay không cũng do ý chí con người định ra. Kỷ niệm là một chuyện, nhưng cần nghĩ đến tương lai, đến tiền đồ dân tộc, lòng dân. Cứ ăn mày quá khứ mãi, liệu có mài nó ra để sống, để phát triển được không, nhất là để thu phục nhân tâm, hòa hợp dân tộc, hợp với tình cảm và ý chí của đại đa số người Việt được không…
Vậy nên, tốt nhất chỉ nêu mệnh đề, mục đích kỷ niệm “ngày thống nhất đất nước”, bớt chuyện giải phóng, bắn giết, hung hăng, đau buồn, đụng chạm đến nỗi đau, sự buồn của “triệu người buồn” đi. Chỉ cần “kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước” là đủ, quá đủ. Vừa đủ, chính xác với lịch sử, vừa hợp lòng người. Đó mới là hòa hợp thực sự.
Trong bộ máy cai trị, người như ông Kiệt rất hiếm, vô cùng hiếm, nhưng hậu sinh, kế nối ông không phải không có. Ngày 26.2.25, tại cuộc họp với Ban Chỉ đạo trung ương về kỷ niệm các ngày lễ lớn, ông Nguyễn Văn Nên – Bí thư Thành ủy TP.HCM khẳng định “ngày hòa bình có người vui người buồn, nhưng đã 50 năm, nỗi buồn cá nhân cần được hòa vào niềm vui đất nước”. Cứ như ý ông Nên, niềm vui đất nước cần phải góp phần xóa đi những nỗi buồn cá nhân.
Một vài báo quốc doanh cũng vậy (tôi không nêu tên cụ thể bởi họ sẽ bị làm phiền, hoặc ngại mà không ghi vậy nữa), đã có sự tỉnh thức. Họ đã ý tứ chỉ đăng “kỷ niệm ngày thống nhất đất nước” mà “vô tình” quên mất vế đầu, “ngày giải phóng miền Nam”. Đừng theo kiểu ông Trọng bảo đó là sự suy thoái, mà chính là tỉnh thức.
Bước vào kỷ nguyên mới, cần phải có những cuộc cách mạng tư duy như vậy. Cứ vẫn đầu óc cũ, nhất là bộ máy tuyên giáo, thì kỷ nguyên mới muôn đời chỉ vô hình như khát khao, ước vọng.



1. Đặng Tiểu Bình thường được biết đến như một “kiến trúc sư chính của quá trình hiện đại hóa và phát triển kinh tế Trung Quốc”, nhưng ít người biết, những châm ngôn hành động nổi tiếng nhất như thuyết “mèo đen, mèo trắng” hay “mò đá qua sông” lại không hoàn toàn là “phát kiến” của ông. Nó được ông học hỏi từ Lưu Bá Thừa, một người cộng sự chiến trường thân thiết suốt 13 năm của Đặng Tiểu Bình.
Thuyết “mèo đen, mèo trắng” xuất phát từ câu “mèo vàng, mèo đen, chỉ cần bắt được chuột đều là mèo tốt” của Lưu Bá Thừa trong thời gian ông cùng sát cánh với Đặng Tiểu Bình những năm 1930-40 trong cuộc vạn lý trường chinh. “Mò đá qua sông” cũng là câu mà Lưu Bá Thừa đã nói. Thời kỳ lập nước Trung Quốc mới, tướng Lưu Ái Bình nhận lệnh xây dựng trường quân sự, trước khi đi đã đến thỉnh giáo Lưu Bá Thừa. Lưu Bá Thừa nói: “Tôi cho đồng chí sáu chữ và cần phải ghi nhớ. “Hãy mò đá để qua sông””. Đặng Tiểu Bình đã áp dụng chính châm ngôn này trong thời kỳ cải cách mở cửa, khi “mở một con đường máu” là các đặc khu kinh tế.
2. Nhưng chuyện các “ý tưởng lớn” này có phải là phát kiến của riêng ông hay không, đối với Đặng Tiểu Bình, dường như không quan trọng. Ông chưa bao giờ muốn làm nổi bật mình trước tập thể. Chưa từng chính thức giữ các chức vụ nguyên thủ của Trung Quốc, ông luôn “thực sự cầu thị”, không cần hư danh, luôn biết cách lùi lại phía sau, miễn làm sao “được việc là được”. Khi chết, ông được hỏa táng và rải tro cốt xuống biển. Ông có thể xem là một người Cộng sản thực dụng điển hình. Tiếp nhận chủ nghĩa Marx từ những năm 1920 ở tuổi 16-17 khi du học nghề ở Pháp, ông cũng từng được gửi đi học ở Liên Xô, nhưng với ông chủ nghĩa Marx-Lenin chưa bao giờ là một tín điều bất biến. Ông nói: “Học Marx-Lenin phải học cái tinh túy, phải biết áp dụng”, là sự liên hệ lý luận với thực tiễn, chính “thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý”. Với châm ngôn này, cùng với thuyết “mèo đen, mèo trắng”, chỉ những gì “có hiệu quả thực tiễn mới là tốt”, luận thuyết nọ, ý tưởng kia dù nghe có vẻ hay ho đến đâu, mà không áp dụng được trong thực tiễn thì phải ngay lập tức vứt bỏ, “không tranh luận” dài dòng. Ở điểm này có lẽ ông khá giống với Lý Quang Diệu của Singapore.
3. Không phải là một người ưa lý luận, giáo điều, nhưng Đặng Tiểu Bình chưa bao giờ xem nhẹ vấn đề tư tưởng. Trong bản nhận xét của tổ chức về Đặng Tiểu Bình khi ông được gửi sang Liên Xô học, cho rằng, ông có hai thế mạnh là khả năng “tuyên huấn và tổ chức”. Đây có vẻ là nhận xét xác đáng, bởi sau đó, ông đã phát huy đầy đủ cả hai thế mạnh này ở thời gian trong quân đội, với vị trí chính ủy. Một điểm được Đặng đặc biệt lưu ý và luôn đề cao trong quân ngũ đó là “tư tưởng phải thông suốt”. Trước khi bước vào mỗi trận đánh, ngoài tất cả mọi sự chuẩn bị thường quy khác, ông đều phải chuẩn bị làm sao để “tư tưởng phải thông suốt” từ trên xuống dưới. Điều này, cũng được ông áp dụng nghiêm ngặt cho công cuộc cải cách, mở cửa kinh tế ở Trung Quốc sau này.
4. Một điểm nữa không thể không nhắc đến ở Đặng Tiểu Bình đó là tầm nhìn “sáng suốt đến mức kinh ngạc” của ông về vai trò của “khoa học kỹ thuật và giáo dục”. Ông từng nói: “…khi ra nhận nhiệm vụ chúng ta có thể có hai thái độ, một là để làm quan, hai là để làm một chút gì đó”. Đến tháng 7/1977, sau khi được chính thức phục hồi lần ba, ở tuổi 73, Đặng Tiểu Bình đã quyết định “phải làm chút gì đó”, đó chính là “nắm khoa học và giáo dục”. Ngay sau khi được phục hồi lần ba, ông đích thân chủ trì quản lý công tác khoa học kỹ thuật của Trung Quốc. Lợi dụng tất cả các phương thức cũng như các học giả, chuyên gia trong và ngoài nước về mọi lĩnh vực để bàn bạc quy hoạch phát triển khoa học kỹ thuật cao của Trung Quốc.
Nửa tháng sau, ngày 4/8/1977 Đặng Tiểu Bình đã tham dự cuộc tọa đàm về công tác khoa học kỹ thuật và giáo dục do Trung ương tổ chức. Tham gia tọa đàm có 33 chuyên gia, giáo sư nổi tiếng. Trong ngày đầu tiên của cuộc tọa đàm, ông chỉ đọc một bài khai mạc ngắn gọn, sau đó ông chỉ lắng nghe. Hàng ngày, 8 giờ sáng bắt đầu buổi họp, buổi trưa nghỉ rất ít rồi tiếp tục cho đến chiều tối. Rất ít lãnh đạo cấp cao có thể kiên trì ngồi nghe hàng giờ liền như vậy, đặc biệt ở thời điểm đó tại Trung Quốc, các chuyên gia, giáo sư vẫn bị xem là “đối tượng của chuyên chính của cải tạo”.
Tháng 3/1986, một số nhà khoa học già nổi tiếng như Dương Đại Hoành, Vương Kiềm Xương, Dương Gia Tê, Trần Phương Doãn… đã đưa ra một “Kiến nghị về việc theo đuổi sự phát triển kỹ thuật cao của thế giới”. Đặng Tiểu Bình lập tức chỉ thị: “Kiến nghị này vô cùng quan trọng, trong việc này cần làm nhanh và quyết đoán, không thể kéo dài”. Sau chỉ thị của ông, Quốc vụ viện Trung Quốc đã xây dựng: “Kế hoạch phát triển nghiên cứu kỹ thuật cao của Trung Quốc” (gọi là “Kế hoạch 863” – nổi tiếng).
Thực tế, ông đã theo đuổi mối quan tâm thúc đẩy phát triển khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc đến tận những năm cuối đời. Năm 1992, khi đi thăm miền Nam, ông nói: “Tôi nói khoa học kỹ thuật là sức sản xuất số một. Gần hai chục năm nay, khoa học kỹ thuật thế giới phát triển nhanh biết bao? Một đột phá trong lĩnh vực kỹ thuật cao sẽ kéo theo sự phát triển của một loạt ngành nghề khác. Mấy năm gần đây, liệu xa rời khoa học kỹ thuật có thể làm nước ta tăng trưởng được nhanh như vậy không? Phải đề xướng khoa học, dựa vào khoa học mới có hy vọng được”.
Đặng Tiểu Bình rất ít khi nói mình thấy vui về vấn đề gì, thế nhưng, cũng trong chuyến đi thăm miền Nam năm 1992 ông đã bốn lần liên tục dùng từ “vui mừng” khi nói về khoa học kỹ thuật: “Làm khoa học kỹ thuật, càng cao càng tốt, càng mới càng tốt, càng cao càng mới, chúng tôi càng vui mừng. Không chỉ chúng tôi vui mừng mà nhân dân cũng vui mừng, nhà nước cũng vui mừng.”
(Mọi thông tin, trích dẫn trong bài, nếu không ghi chú gì thêm thì đều được lấy từ cuốn: “Đặng Tiểu Bình – Một trí tuệ siêu việt” của Lưu Cường Luân và Uông Đại Lý, NXB Lao Động, 2006.)
NĐK
Phải ngu, phải thất học, tối đa chỉ được tốt nghiệp tiểu học, biết ký tên thôi thì mới làm lãnh đạo cộng sản được.
Hoài hơi mà dạy khôn những cái đầu bã đậu ấy. Vạch đầu gối ra mà nói chuyện còn hơn.