Đào Tăng Dực
27-11-2023
Trong một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên chân chính, hệ thống pháp luật vô cùng nghiêm minh. Các chánh án (thuộc ngành tư pháp) hoàn toàn độc lập đối với lập pháp (tức quốc hội) và hành pháp (tức chính phủ). Thêm vào đó, để bảo đảm tư cách độc lập, nhiệm kỳ của các thẩm phán sẽ trọn đời, đến khi muốn về hưu hoặc mất trí năng, hoặc mất khả năng thi hành trách nhiệm.
Hệ thống tòa án dưới pháp chế xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hoàn toàn trái ngược và hầu như chỉ là cánh tay nối dài của đảng CSVN và công an CSVN. Tòa án CSVN xử án rất nặng cho các tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị, dân oan mất đất; kết án tử hình các bị can hình luật rất qua loa, gây đau thương cho dân chúng và cướp đi mạng sống của nhiều nghi can vô tội.
Tuy các cơ quan NGO quốc tế như Human Rights Watch, Amnesty International hay cả Liên Hiệp Quốc đều lên tiếng và quan ngại, nhưng CSVN vẫn luôn biện minh hàm hồ, cả vú lập miệng em, rằng tất cả mọi nạn nhân đều vi phạm luật hình sự, đã qua một quá trình xét xử đúng quy trình, bị kết án. Theo họ, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền và hệ thống pháp luật riêng, quốc tế phải tôn trọng.
Hệ thống tòa án này bất công đến mức độ, lời chửi đổng của TNLT Nguyễn Văn Túc, trước tòa… “Đ*t mẹ tòa” trở thành một lời hiệu triệu của toàn dân hầu lật đổ độc tài CSVN và xây dựng một nền dân chủ pháp trị nghiêm chỉnh hơn.
Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao sự viên tịch của một bậc chân tu Phật Giáo là Hòa Thương Thích Tuệ Sỹ vào ngày 26-11-2023 lại là dịp để chúng ta đánh giá tư cách của Hòa thượng Tuệ Sỹ khi so sánh với Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình và qua đó, phẩm chất của toàn bộ hệ thống tư pháp xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
Câu trả lời là, Hòa thượng Tuệ Sỹ cũng từng bị tòa án CSVN kết án tử hình. Mạng sống con người trên bình diện tâm linh và mạng sống một công dân cá thể trên bình diện chính trị, đều là những thực thể đáng được trân quý, bất kể giai cấp xã hội, màu da, phái tính, tôn giáo, khuynh hướng chính trị hay tuổi tác.
Khi một tòa án gọi là “nhân dân” CSVN kết án tử hình tỳ kheo Tuệ Sỹ, Thiền sư, học giả Lê Mạnh Thát, hay những tử tù có dấu hiệu oan sai như Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng (chưa thi hành án), Lê Văn Mạnh (đã thi hành án), thì uy tín của hệ thống pháp lý xã hội chủ nghĩa của CSVN hoàn toàn bị hoài nghi.
Sự phi lý cười ra nước mắt của các bản án tử hình đối với hai nhà sư Phật Giáo trước cường quyền, nhất là quy cho họ tội “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” vớ vẩn, giúp toàn dân và thế giới càng có thêm cơ sở để hoài nghi tính nghiêm chỉnh của các bản án tử hình đối với Hồ Duy Hải, Lê Văn Mạnh và Nguyễn Văn Chưởng.
Tòa án ở các quốc gia dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên như Hoa Kỳ, các quốc gia Tây phương, Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan … thì xét xử dựa trên hai nền tảng trọng yếu: Đó là chứng cớ qua các sự kiện (facts) và yếu tố quy định luật pháp (law). Thông thường theo hệ thống Common Law của Anh quốc, như Hoa Kỳ, Úc, Tân Tây Lan và Canada thì vị chánh án quyết định về luật (Judge as tribunal of law) và bồi thẩm đoàn quyết định về sự kiện (Jury as tribunal of fact). Còn các quốc gia theo hê thống Civil Code của Pháp như ở lục địa Âu châu thì vị chánh án quyết định cả hai.
Trong cả hai hệ thống, không có hệ thống nào cho phép một tòa án quyết định theo ý chí của một cá nhân hay một chính đảng cá biệt nào cả. Chỉ có pháp chế xã hội chủ nghĩa mới kết án theo ý chí của các đảng CS liên hệ và ở Việt Nam thì theo ý chí của đảng CSVN mà thôi.
Tại sao trong bài viết này chúng tôi nhắc đến và so sánh hai nhân vật hoàn toàn khác nhau là Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, vị lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và ông Nguyễn Hòa Bình, đương kim chánh án lãnh đạo Tòa Án Nhân Dân Tối Cao Việt Nam?
Có hai lý do chính. Thứ nhất là cả hai đều liên hệ đến án tử hình. Hòa thượng Tuệ Sỹ thì bị hệ thống pháp lý xã hội chủ nghĩa kết án tử hình năm 1988. Ông Nguyễn Hòa Bình thì liên hệ mật thiết đến bản án tử hình của tù nhân Hồ Duy Hải, sẽ trình bày sau.
Thứ nhì là, chúng ta thử so sánh nhân phẩm và tư cách của hai nhân vật, một vị đại diện cho Phật Giáo Việt Nam, các tù nhân lương tâm nói chung và nhân vật kia đại diện cho hệ thống tư pháp của đảng CSVN.
Trước hết, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một học giả, thi sĩ và là một nhà nghiên cứu Phật Pháp khả kính. Tư cách và đạo đức của Hòa thượng mọi người kính ngưỡng. Hòa thượng chỉ hoạt động tôn giáo, không có tham vọng chính trị. Tuy nhiên, vì không chịu rời bỏ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam do đảng chủ trương, mà Hòa thượng bị tù cải tạo ba năm và bị kết án tử hình năm 1988. Dưới áp lực của công luận và quốc tế, CSVN buộc lòng phải phóng thích Hòa thượng.
Theo Wikipedia thì: “Ngày 1 tháng 9 năm 1998, ông được thả tự do từ trại Ba Sao – Nam Hà ở miền Bắc Việt Nam. Trước khi thả, nhà cầm quyền yêu cầu ông ký vào lá đơn xin khoan hồng để gửi lên Chủ tịch nước Trần Đức Lương. Ông trả lời: ‘Không ai có quyền xét xử tôi, không ai có quyền ân xá tôi!’. Công an nói không viết đơn thì không thả, ông không viết và tuyệt thực. Chính quyền đã phải phóng thích ông sau 10 ngày tuyệt thực. Một năm sau đó, vì tiếp tục hoạt động cho GHPGVNTN, ông cùng với Thích Quảng Độ lại bị đe dọa giam giữ và bị công an triệu tập tra hỏi”.
Khi nói về nhân vật Nguyễn Hòa Bình, ông ta là đương kim Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam, là chức vụ đứng đầu Tòa án nhân dân Tối cao, với nhiệm kỳ 5 năm. Ông còn là Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII.
Ông liên hệ mật thiết với án tử hình của Hồ Duy Hải, vì các lý do sau đây (theo Wikipedia):
1. Năm 2011, sau khi Hồ Duy Hải bị kết án tử hình, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình quyết định không kháng nghị vụ án, mặc dù có nhiều chứng cớ oan sai.
2. Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tân Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam Lê Minh Trí kháng nghị giám đốc thẩm vụ án, sau khi nhận được đề nghị xem xét giải quyết bảo đảm đúng pháp luật vụ án từ Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vào tháng 7 năm 2019.
3. Ngày 8 tháng 5 năm 2020, sau 3 ngày xét xử giám đốc thẩm vụ án, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua bỏ phiếu công khai, quyết định không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Thành viên Hội Đồng Thẩm Phán gồm 17 người và chủ tịch Hội Đồng là thẩm phán Nguyễn Hòa Bình, người mà năm 2011, trong chức vụ viện trưởng Viên kiểm sát Nhân dân Tối cao, đã quyết định không kháng cáo vụ án này.
(Mời xem lại bài viết cùng tác giả: Hồ Duy Hải và thân phận người dân Việt Nam dưới Pháp chế Xã hội chủ nghĩa).
So sánh hai nhân vật trên, có thể rút ra các kết luận sau đây:
Là một tu sĩ và người tranh đấu cho tự do tôn giáo, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ phẩm hạnh cao, giữ đúng vai trò của mình, bất khuất trước uy vũ, một đức tính không những cần thiết cho một lãnh đạo tôn giáo, mà càng cần thiết hơn cho một quan tòa.
Trong khi đó, là một nhân vật lãnh đạo ngành tư pháp của một quốc gia, Nguyễn Hòa Bình chỉ là một tay sai của đảng (tiếng Anh gọi một cách khinh bỉ là party hack), đảng chỉ đâu đánh đó, làm đồ tể cho đảng, hầu hưởng ơn mưa móc, hoàn toàn không có một chút tính bất khuất trước uy vũ nào.
Trên bình diện cơ chế, Nguyễn Hòa Bình hoàn toàn không xứng đáng “cầm cân nẩy mực” cho công lý, vì đứng đầu ngành tư pháp mà không hề độc lập đối với lập pháp (làm luôn cả dân biểu quốc hội và nhiệm kỳ chánh án cũng chỉ 5 năm), cũng không hề độc lập đối với hành pháp (là ủy viên Bộ Chính trị và Ban Chấp Hành Trung Ương (là một thứ siêu chính phủ điều hành chính phủ).
Thêm vào đó, Đoạn 1 Điều 8 Hiến pháp cũng hiến định hóa nguyên tắc Tập Trung Dân Chủ của Phong Trào Đệ Tam Quốc Tế như là nguyên tắc điều hành quốc gia. Quan điểm tập trung dân chủ vốn là một nguyên tắc của Lenin và một phần nội quy của các đảng cộng sản thuộc Đệ Tam Quốc Tế, buộc các cơ sở hạ tầng tuân phục các cấp trên tuyệt đối. Như vậy thì Nguyễn Hòa Bình, chánh án Tòa án Tối cao và ủy viên Bộ Chính Trị, khi xử án phải tuân theo chỉ thị của Bộ Chính Trị, các tòa án cấp dưới phải tuân theo chỉ thị của Nguyễn Hòa Bình và cứ như thế, đến chánh án đảng viên cấp thấp nhất.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa như thế chỉ là một tấn tuồng cười ra nước mắt cho cả dân tộc Việt Nam.
***
Sư viên tịch của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một mất mát lớn lao cho quốc gia, Phật giáo, nền thi thơ và văn chương của dân tộc. Tuy nhiên trên khía cạnh pháp lý, nhất là liên hệ đến án tử hình cho các nạn nhân như Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng và ngay cả cố tử tù oan Lê Văn Mạnh, sự ra đi của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, một nhân vật đã từng bị CSVN kết án tử hình, sẽ tập chiếu vào và góp phần đập tan tính ác của hệ thống pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Mong rằng cái chết của Lê Văn Mạnh sẽ không không hoàn toàn vô nghĩa, Hồ Duy Hải và Nguyễn Văn Chưởng có thể được tái xét công minh, người dân Việt chóng thoát ách độc tài và lời hiệu triệu “Đ*t mẹ tòa” của tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Túc năm 2018, sẽ không còn cần thiết trong một nước Việt Nam hậu cộng sản.
“…sự viên tịch của một bậc chân tu Phật Giáo là Hòa Thương Thích Tuệ Sỹ vào ngày 26-11-2023 lại là dịp để chúng ta đánh giá tư cách của Hòa thượng Tuệ Sỹ khi so sánh với Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình…”
Thưa Ô. Đào Tăng Dực, tôi nghĩ, ông viết gì cũng được, vì nó thể hiện phong cách nhận thức của cá nhân, nhưng ông lấy “tư cách của Hòa thượng Tuệ Sỹ” để so sánh với tên Nguyễn Hòa Bình, vô hình trung ông đặt một bậc chân tu, một nhà thơ tài hoa, một học giả … ngang hàng với một tên lưu manh?
Ngay cả cái tựa: “Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh án Nguyễn Hòa Bình và hệ thống tư pháp Việt Nam” tôi thấy đã không ổn rồi!!!
Rồng và cóc nhái