Cứu Nguyễn văn Chưởng: Cần một quyết định từ Ba Đình chứ không phải pháp đình!

Đặng Đình Mạnh

10-8-2023

Mẹ của tử tù Lê Văn Mạnh (đã 19 năm ), Hồ Duy Hải (đã 15 năm) và Nguyễn Văn Chưởng (đã 16 năm) kêu oan cho Nguyễn Văn Chưởng hôm 10.8.2023. Ảnh: FB Nguyễn Trường Chinh

Thượng tuần tháng 08/2023, công chúng xôn xao trước thông tin ông Nguyễn Văn Chưởng sắp bị cơ quan chức năng đưa ra thi hành bản án tử hình về tội danh giết người. Dịp này, nhiều người chia sẻ ảnh chụp ý kiến của ông Nguyễn Văn Hiện thuộc Ủy Ban Tư Pháp Quốc Hội trên trang truyền thông chính thức trong nước từ năm 2015, với tựa đề “Vụ tử tù Nguyễn Văn Chưởng hết đường kháng nghị”.

Từ tựa báo, nhiều người đã nhầm tưởng rằng mọi thủ tục tố tụng đối với ông Nguyễn Văn Chưởng đã “hết đường”, không còn thủ tục nào cứu ông ấy cho dù ông ấy có bị kết án tử hình oan.

Ảnh: Báo TT

Trước khi nói về sự hiểu nhầm, rằng thủ tục đối với ông Nguyễn có thật “hết đường” hay không? Thì chúng ta trả lời trước cho câu hỏi: Ông Nguyễn Văn Chưởng có oan không?

ÔNG NGUYỄN VĂN CHƯỞNG CÓ OAN KHÔNG?

Thực tế, không ai trong chúng ta, kể cả thẩm phán, công tố tiên, điều tra viên thuộc các cơ quan tố tụng đã từng tham gia vụ án có thể trả lời đích xác câu hỏi ấy theo đúng sự thật vốn đã từng diễn ra. Đơn giản, vì chẳng có ai là người từng tận mắt chứng kiến trực tiếp sự việc để mà biết cả. Phán quyết của tòa án tuyên một người có tội chỉ là sự thật được xét đoán dựa trên quá trình điều tra, xét xử và tin rằng đó là sự thật mà thôi. Sự thật mà tòa án tin và sự thật vốn như nó đã từng diễn ra không phải lúc nào cũng trùng khớp với nhau.

Thậm chí, trong hồ sơ vụ án kết tội ông Nguyễn Văn Chưởng, đã từng có ít nhất đến 3 “sự thật”.

1. Sự thật mà công chúng muốn tin là ông Nguyễn Văn Chưởng vô tội. Họ căn cứ vào lời khai có chứng cứ ngoại phạm từ em trai ông ấy tên là Nguyễn Trọng Đoàn.

2. Sự thật mà tòa án các cấp đã tuyên xử ông Nguyễn Văn Chưởng có tội, phải chịu hình phạt tử hình.

3. Sự thật mà đoàn giám sát thuộc Ủy ban Thường Vụ Quốc hội cho rằng ông Nguyễn Văn Chưởng có tội, nhưng không phải là người chủ mưu, không có hành vi giết người nên không thể chịu hình phạt ở mức cao nhất là tử hình được.

Trong đó, điều đáng lưu ý khi mà trên cùng một hồ sơ vụ án, nhưng sự đánh giá của các cấp tòa và của đoàn giám sát thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có sự khác biệt nhau rất xa. Nhưng tựu trung, chính cơ quan chức năng thuộc Quốc hội cũng cho rằng hình phạt tử hình đối với ông Nguyễn Văn Chưởng là không có cơ sở, không chính đáng và không thuyết phục.

Thế nên, công chúng lên tiếng đòi hoãn việc tử hình đối với ông Nguyễn Văn Chưởng là hoàn toàn có lý do chính đáng.

ĐÃ “HẾT ĐƯỜNG” VỀ THỦ TỤC CỨU ÔNG NGUYỄN VĂN CHƯỞNG?

Trở lại với ý kiến của ông Nguyễn Văn Hiện đăng trên báo vào năm 2015. Thực tế, ông Nguyễn Văn Hiện đang nói về việc can thiệp vào vụ án bằng quyền “kháng nghị” của các cơ quan tư pháp mà thôi. Khi phát hiện có bản án xét xử sai sót hoặc sai lầm, thì hai cơ quan tư pháp gồm tòa án và viện kiểm sát có quyền kháng nghị yêu cầu tòa án cấp trên hủy bỏ hoặc sửa chữa bản án sai sót hoặc sai lầm ấy của tòa án cấp dưới. Chỉ khi đến giai đoạn có quyết định của Hội đồng thẩm phán về vụ án, thì quyền kháng nghị mới không còn nữa. Tuy quyền kháng nghị không còn nữa, nhưng một số thủ tục tố tụng vẫn có thể được kích hoạt để yêu cầu, kiến nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán.

Thật vậy, theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, hai cơ quan của quốc hội, gồm Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, Ủy ban Tư pháp và hai chức danh tư pháp gồm Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao có quyền kích hoạt điều 404 Bộ luật Tố tụng hình sự để yêu cầu hoặc kiến nghị Hội đồng Thẩm phán xem xét lại quyết định của mình. Chỉ khi nào Hội đồng Thẩm phán đã có quyết định giải quyết các yêu cầu hoặc kiến nghị đó, thì đó mới là dấu chấm hết sự việc.

Với Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khi yêu cầu kích hoạt điều 404, Hội đồng Thẩm phán TANDTC sẽ có thời hạn 04 tháng để mở phiên họp xem xét lại quyết định của chính mình. Trong phiên họp, thì Hội đồng Thẩm phán quyết định theo túc số 3/4.

Với Ủy ban Tư pháp Quốc hội, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao khi kiến nghị kích hoạt điều 404, Hội đồng Thẩm phán TANDTC sẽ có thời hạn 30 ngày để mở phiên họp thứ nhất xem xét, thảo luận về kiến nghị đó. Trong phiên họp, Hội đồng Thẩm phán quyết định theo túc số quá bán. Nếu nhất trí, họ sẽ có thời hạn 04 tháng để mở phiên họp thứ hai xem xét lại quyết định của chính mình. Và đương nhiên, trong phiên họp, thì Hội đồng Thẩm phán quyết định theo túc số 3/4.

Khi xem xét lại quyết định của chính mình, Hội đồng Thẩm phán TANDTC có quyền:

– Giữ nguyên quyết định của chính mình, bác các yêu cầu, kiến nghị;

– Hoặc, hủy quyết định của chính minh, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật và quyết định về nội dung vụ án, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật, điều tra lại hoặc xét xử lại.

Như đã biết, quyết định xử tử một người là đến từ chính con người, mà con người thì không hoàn hảo và có thể có sai lầm. Do đó, nếu một quốc gia tôn trọng sinh mạng người dân, thì luật pháp phải luôn luôn dự liệu sẵn quy định để sửa sai. Nếu luật pháp của một quốc gia không dự liệu sẵn quy định sửa sai, chứng tỏ quốc gia đó xem sinh mạng người dân như cỏ rác mà thôi.

Tuy vậy, tại Việt Nam, bên cạnh luật pháp, thì công chúng đã từng chứng kiến tiền lệ hoãn thi hành án tử hình trong vụ án Hồ Duy Hải bằng sự can thiệp của một chủ tịch nước. Điều đó có thể lập lại lần nữa với vụ án Nguyễn Văn Chưởng mà bất chấp có quy định luật pháp hay không. Điều cần là họ có quyết định thực hiện hay không mà thôi. Mà quyết định đó, chỉ có ở Ba Đình chứ không phải ở pháp đình.

Bình Luận từ Facebook

3 BÌNH LUẬN

  1. HỌC GIẢ BÙI CHÍ VỊNH

    Trong bộ đội khi tấn công một tên chỉ huy tham ô đàn áp lính
    Là đã bị chụp mũ “mưu sát cán bộ, cướp đoạt chính quyền”
    Năm 25 tuổi tôi đã từng nằm quân lao với tội danh như vậy
    Nên chuyện ngậm máu phun người vốn là chuyện tất nhiên

    Vì thế tôi không mơ hồ gì việc có người muốn Nguyễn Văn Chưởng quy tiên
    Với lý do duy nhất là phạm nhân nhận tội
    Xin lỗi, những thằng xử Nguyễn Văn Chưởng chỉ cần một ngày nằm ở nhà giam
    Hứng tra tấn là mẹ cha không nhìn nổi

    Quan tòa mà ở tù thì quan tòa cũng phải nói
    Không khai man cũng khai đại, miễn khỏi bị đòn
    Không giết người cũng sẵn sàng nhận dối
    Sẵn sàng nhận mình là hung thủ ác ôn

    Sẵn sàng nhận mình là hung thủ cho xong
    Bất chấp hệ thống tư pháp được lập đầu danh trạng
    Ở một xứ sở đầy ma quỷ cô hồn
    Ai đang sống cũng chờ ngày lãnh án

    Hỡi những kẻ nắm cán cân công lý mà tâm hồn chai sạn
    Làm ơn một lần trong năm thở hơi thở con người
    Làm ơn ngưng ngay việc tử hình Nguyễn Văn Chưởng
    Để bia miệng ngàn đời không nguyền rủa tanh hôi…

    NGUỒN MẠNG.

  2. Có một câu chuyện được luật sư Triệu Quốc Mạnh – Chỉ huy lực lượng cảnh sát Sài Gòn – Gia Định, kể lại như vầy: Ngày 29/4/1975, sau khi nhậm chức Chỉ huy lực lượng cảnh sát Sài Gòn – Gia Định, ông Mạnh đến Tòa Sài Gòn – Gia Định thì thấy lực lượng cảnh sát tư pháp ở đây vẫn tề tựu đầy đủ, quân trang gọn gàng đứng chào ông nghiêm cẩn. Ông mới vội vã hỏi: “Các anh còn làm gì ở đây mà chưa đi di tản?” Chỉ huy trưởng cảnh sát tư pháp mới nói: “Tại sao chúng tôi phải di tản? Chúng tôi đâu có liên quan gì đến chính quyền?”

    Chuyện này tôi được nghe chính một người cùng trong “lực lượng thứ ba” với ông Mạnh kể lại. (Vì sự riêng tư của ông, tôi sẽ không nói tên, nhưng tôi tin ông, và cũng không thấy ông có lý do để bịa đặt chuyện này).

    Bây giờ nghe chuyện này chúng ta có thể thấy vô lý, nhưng đó chính là nhận thức của những người thời đó, cụ thể là của những người trong ngành tư pháp Sài Gòn bấy giờ: “TƯ PHÁP ĐỘC LẬP”.

    Chính vì thế mới có chuyện, những “trùm sinh viên” của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn như Huỳnh Tấn Mẫn, Dương Văn Đầy… được thả ngay tại tòa, trước sự tức tối của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, trong vụ “10 tháng 3” nổi tiếng.

    Tư pháp độc lập không phải sự đảm bảo tuyệt đối cho công lý, nhưng nó là điều kiện tối cần thiết để có được công lý.

    Công lý cần cho tất cả chúng ta. Công lý cần cho mọi người dân, và cần cho cả chính quyền.
    Một chính quyền muốn thực sự vững mạnh, muốn giữ được xã hội thực sự ổn định bền vững thì phải đảm bảo công lý cho từng người dân và tất cả nhân dân.

    Hôm qua, đọc bức thư của Nguyễn Văn Chưởng trên trang FB của luật sư Lê Văn Hòa tôi chợt nhớ lại câu chuyện của luật sư Triệu Quốc Mạnh ở trên.

    Có lẽ cũng đã đến lúc nghiêm túc đặt ra vấn đề độc lập tư pháp và thành lập một lực lượng cảnh sát tư pháp độc lập, để hạn chế tối đa những oan sai do sự chồng chéo của hệ thống điều tra – xét xử hiện hành.

    FB NĐK

  3. Trong lịch sử tư pháp của Việt Nam mà tôi quan sát, hiếm khi có một vụ trọng án mà cơ quan điều tra chịu bó tay. Không ít vụ án được phá trong một thời gian kỷ lục. Nhưng, cũng hiếm khi tôi thấy những vụ án oan nghiêm trọng nhất được chủ động phát hiện bởi các cơ quan tố tụng.
    Năm 1983, cho dù mang “trái tim trong trắng” [kịch Lưu Quang Vũ], ông Nguyễn Sỹ Lý vẫn bị giam cầm 2.000 ngày. Và, ông Lý chỉ được minh oan khi một người bạn tù được tha trước, âm thầm giúp ông tìm ra thủ phạm. Ông Huỳnh Văn Nén cũng chỉ nhìn thấy ánh sáng sau 17 năm nhờ hung thủ, bị giữ tình cờ trong một vụ vi phạm luật giao thông, tự thú. Ông Nguyễn Thanh Chấn ở tù 10 năm cho đến khi hung thủ tự đến đồn công an.
    Chuyện không phải của thời mông muội. Chỉ mới cách đây 10 năm, 7 thanh niên ở Sóc Trăng cũng chỉ được minh oan sau 4 tháng tạm giam nhờ hai nữ hung thủ cướp của giết người ra đầu thú.
    Những người chịu “án oan thế kỷ”, trong phòng tạm giam, đều khai nhận “hành vì giết người” hoàn hảo. Trừ 7 thanh niên ở Sóc Trăng, tất cả, khi đứng trước tòa, đều phản cung và đều bị tòa căn cứ “án tại hồ sơ”, bác bỏ. Và, chỉ khi hung thủ thật bị lương tâm cắn rứt khai ra, những gì họ tố cáo bị bức cung mới được xác nhận hóa ra là đúng.
    Với hai tử tù Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải, nếu thực sự oan, không rõ, chúng ta có thể chờ đợi lương tâm của những người đã tiến hành tố tụng hay lại phải chờ lương tâm hung thủ.
    Khi nhậm chức, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng yêu cầu công tác xét xử “không được để xảy ra oan sai”. Đây là điều mà những người tiền nhiệm ông cũng đều nhấn mạnh.
    Không phải lúc nào thông điệp này cũng được diễn dịch giống nhau. Nó tùy thuộc vào một hệ thống tư pháp sợ OAN cho thường dân hay chỉ sợ cái SAI của mình bị phát hiện.
    Tôi không biết hiện nay, ngành tòa án có còn giữ tiêu chí “án bị cải sửa” làm căn cứ bình xét thi đua và căn cứ để tái bổ nhiệm thẩm phán nữa không. Sợ sai, sợ án bị cải sửa là lý do mà các cơ quan tố tụng rất khó từ bỏ một tiền lệ rất sai là họp án [“ba bộ đồng tình…”] và thỉnh thị án.
    Nếu một nền tư pháp vận hành theo hướng để dân không bị OAN, nền tư pháp đó phải luôn đặt ra khả năng tố tụng có thể SAI. Không phải tự nhiên mà ngay từ xa xưa loài người đã nghĩ đến việc tách bạch các cơ quan tố tụng và phân ra nhiều cấp xét xử.
    Một nền tư pháp mà hướng tới mục tiêu hoàn hảo, các cơ quan tố tụng không bao giờ sai thì chỗ của những người thực sự bị oan là ở trong tù chứ chưa chắc đã phải là những người được tuyên vô tội.
    Tôi đã từng phỏng vấn tử tù “Phước Tám Ngón” và có mặt tại pháp trường cái buổi sáng 3 bị án trong vụ Tamexco bị bắn. Trừ những loại giết người do bệnh lý, thích chơi trò cân não với cơ quan điều tra, phần lớn những hung thủ thật sự giết người rất ít khi kêu oan. Chúng chấp nhận đã vay [mạng người] thì trả.
    Chúng ta đang nghe những lời kêu oan từ hai bị án Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải. Chúng ta có thể vĩnh viễn không biết sự thật nằm ở đâu. Nhưng, tôi nghĩ những người tiến hành tố tụng trong hai vụ án này biết rõ.
    Chúng ta đã phải đợi cho đến khi hung thủ thật sự ra đầu thú mới biết là Nguyễn Sỹ Lý, Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn bị oan. Nhưng, những người tiến hành tố tụng chắc chắn đã biết điều đó khi họ bắt đầu sử dụng nhục hình và mớm cung bị cáo.
    Đã từng có khá nhiều hung thủ thật ra đầu thú để minh oan cho người gánh án thay mình; nhưng, trong nền tư pháp nước ta, ít khi có một cán bộ từng tiến hành tố tụng tự nhận là mình sai để minh oan cho nạn nhân của chính mình và cộng sự.
    Trong các vụ án oan như Nguyễn Sỹ Lý, Huỳnh Văn Nén, Nguyễn Thanh Chấn… đều có vi phạm tố tụng nghiêm trọng. Chúng ta chứng kiến, việc khăng khăng tuyên bố “sai phạm tố tụng” nhưng “không làm thay đổi bản chất vụ án” đáng sợ thế nào.
    Một nền tư pháp mà chỉ sợ lộ ra cái SAI sẽ không bao giờ tránh được OAN [khiên – cho dân].
    Cứ tống vào tù một dân oan là cấp phép tự do cho một tên tội phạm [hung thủ trong vụ án Huỳnh Văn Nén từng gây án đâm, chém trong thời gian ông Nén bị tù oan].
    Không có mô hình tư pháp nào hoàn hảo. Mô hình ưu việt hơn không phải là có khả năng lập thành tích “phá án 100%”, là không phải không có “án bị cải sửa” mà là có khả năng tự phát hiện sai sót.
    Mục tiêu của một nền tư pháp là công lý chứ không chỉ là phá án. Chính vì thế mà trong nhiều trường hợp, các cơ quan tố tụng phải chấp nhận thua; bởi, một khi các cơ quan tố tụng cứ khăng khăng thắng sẽ không có chỗ cho công lý.
    FB H.Đ

BÌNH LUẬN

Xin bình luận ở đây
Xin nhập tên của bạn ở đây