Tác giả: Marco Wenzel
Vũ Ngọc Chi, chuyển ngữ
2-1-2022
Vào ngày 19 tháng 7 năm 1947, sáu tháng trước khi Myanmar được trao trả độc lập, Aung San, phó chủ tịch hội đồng điều hành của thống đốc Anh và do đó trên thực tế là người đứng đầu chính phủ, đang chủ trì một cuộc họp tại Rangoon, thủ đô của Miến Điện. Lính nổi dậy xông vào phòng họp và bắn chết 9 thành viên nội các, trong đó có Aung San, chồng của Khin Kyi.
Ông đã để lại ba người con, bao gồm một ủy viên hội đồng nhà nước và là người đứng đầu chính phủ Myanmar sau này, Aung Suu Kyi, khi đó mới hai tuổi. Đảng viên đảng xã hội chủ nghĩa U Nu lên, thế Aung San làm thủ tướng. Thủ lĩnh của đội cảm tử đã bị bắt và bị treo cổ.
Trong thời kỳ hỗn loạn chiến tranh, Aung San đã tập hợp một nhóm nhỏ những người chống đối quyền lực thuộc địa Anh với mục đích đánh đuổi người Anh ra khỏi Miến Điện và thành lập một quốc gia độc lập. Nhóm người này đã trở thành huyền thoại với cái tên “Ba mươi đồng chí“. Ba mươi đồng chí đã trở thành cha đẻ của nền độc lập Miến Điện và những người thành lập quân đội, sau này biến thành quân đội Tatmadaw bất hạnh và thành lập một nhà nước riêng trong nước Miến Điện. Sẽ nói thêm về điều này bên dưới.
Đầu tiên, ba mươi đồng chí quay sang Nhật Bản, nước dùng khẩu hiệu “Châu Á của người châu Á”, dường như đang theo đuổi mục tiêu giống như những người yêu nước Miến Điện, đó là đánh đuổi thực dân Anh khỏi châu Á. Người Nhật nhìn thấy cơ hội của họ, huấn luyện đồng đội của họ ở Nhật Bản và hỗ trợ họ bằng vũ khí. Cùng với quân Nhật, ba mươi đồng đội dưới quyền của Aung San đã tiến vào Miến Điện với một đội quân nhỏ vào đầu năm 1942 và đánh đuổi quân Anh ra khỏi Miến Điện.
Nhưng khi phát hiện ra rằng Nhật Bản muốn thiết lập một chế độ bù nhìn phát xít ở Miến Điện và sau khi người Anh bị trục xuất, họ hoàn toàn không sẵn sàng để lại Miến Điện cho người Miến, Aung San và các đồng chí của ông đã quay về phía đồng minh, tuyên chiến với Nhật Bản và cùng nhau thành công đuổi Nhật Bản ra khỏi Miến Điện.
Vụ sát hại Aung San sáu tháng trước khi Miến Điện độc lập là một trở ngại lớn đối với Miến Điện vì Aung San là nhân vật quan trọng nhất trong quá trình hội nhập. Vào tháng 2 năm 1947, năm tháng trước khi ông qua đời, tại một hội nghị ở Panlong, thuộc bang Shan, nay là Myanmar, ông đã ký một thỏa thuận với các dân tộc thiểu số Shan, Kachin và Chin, nhằm đảm bảo quyền của họ trong một nhà nước liên bang tương lai. Một bước quan trọng đầu tiên cho sự hòa nhập của khoảng 135 nhóm sắc tộc khác nhau trong một nước Miến Điện liên bang sau này. Aung San là một trong số ít người, được những người thiểu số tin tưởng. Nhà nước liên bang chưa bao giờ trở thành hiện thực và các cuộc đụng độ vũ trang thường xảy ra giữa các nhóm sắc tộc và chính quyền trung ương do Bamar kiểm soát, nhóm dân tộc lớn nhất ở Miến Điện, bắt đầu vào cuối năm 1949 và tiếp tục cho đến ngày nay.
Vào ngày 4 tháng 1 năm 1948, Miến Điện được trao trả độc lập và tiếp theo là một giai đoạn dân chủ với các khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và Phật giáo cho đến cuộc đảo chính quân sự năm 1962, nhưng luôn nằm dưới sự cai trị của dân tộc Bamar, mà bà Aung Suu Kyi cũng thuộc về dân tộc này.
Chúng tôi bỏ qua 40 năm ở đây. Chúng tôi chỉ muốn đề cập rằng Aung San Suu Kyi, tên đầy đủ của bà, lớn lên ở Ấn Độ, nơi mẹ bà là đại sứ, và sau đó bà học ở Oxford. Từ năm 1969 đến năm 1971, bà làm việc trong Ban Thư ký Liên Hiệp quốc tại New York. Năm 1972, bà kết hôn với nhà nghiên cứu Tây Tạng người Anh, Michael Aris và cùng ông chuyển về Oxford. Hai người có hai con trai. Từ năm 1985 đến 1986 Aung Suu Kyi học ở Kyoto, Nhật Bản, và sau đó cùng chồng chuyển đến miền Bắc Ấn Độ, nơi Aris nhận được một công việc tại Đại học Simla. Michael Aris qua đời ở Anh năm 1999.
Miến Điện thập niên 1980
Đảng Cộng sản Miến Điện (CPB), cùng với “Đảng chống chủ nghĩa phát xít“ (AFPPL) của Aung San đã chiến đấu đầu tiên chống lại người Anh và sau đó chống lại người Nhật để giành độc lập, đã bị cấm vào năm 1948. Họ phải hoạt động ngầm và từ đó đã lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang chống lại chính phủ ở Rangoon.
Aung San từng là thành viên sáng lập của CPB. CPB chủ yếu thành lập ở đông bắc Miến Điện, nơi được đảng CSTQ hỗ trợ và cung cấp vũ khí. Theo chiến lược của Maoist, mục tiêu trước tiên là giành lấy đất nước và sau đó chinh phục các thành phố, một ngày nào đó sẽ tiến từ đó qua miền trung Miến Điện đến Rangoon, chiếm Rangoon và lật đổ chính phủ. Mãi đến năm 1989, CPB mới tan rã thành các nhóm riêng lẻ sau một cuộc đảo chính chống lại nhóm lãnh đạo của đảng.
Các nhóm dân tộc được cam kết cho tự trị, một lời hứa không được giữ sau cái chết của Aung San, cũng đã cầm vũ khí nổi dậy vào năm 1949. Các yêu cầu của họ, tùy từng trường hợp, hoặc là quyền tự chủ hoặc nền độc lập lớn hơn. Tùy thuộc vào tình hình hiện tại, họ thành lập liên minh với nhau hoặc chiến đấu chống lại nhau, một số cũng ký kết các thỏa thuận tạm thời với quân đội. Tuy nhiên, trên hết, họ mở rộng việc trồng cây thuốc phiện và sau đó là sản xuất heroin để tài trợ cho việc mua vũ khí và các chiến dịch du kích. Ranh giới giữa những người đấu tranh cho tự do và những ông trùm ma túy, những người chỉ kiếm tiền để bỏ vào túi riêng của mình và không liên quan gì đến cuộc đấu tranh tự do ngày càng trở nên không rõ rệt và CPB cũng kiếm được tiền từ việc buôn bán ma túy.
Miến Điện đã trở thành nước xuất khẩu heroin lớn nhất thế giới kể từ những năm 1960. Các nhà máy sản xuất heroin ở biên giới với Thái Lan và Trung Quốc được tổ chức chặt chẽ và được bảo vệ bởi quân đội của họ. Chẳng hạn, trùm ma túy Khun Sa đã có một đội quân hơn 20 ngàn binh sĩ để bảo vệ lãnh thổ và các nhà máy sản xuất heroin của hắn vào những năm 1980. Khun Sa không phải là người duy nhất, nhưng có lẽ là trùm ma túy nổi tiếng nhất với quân đội của riêng mình trong khu vực.
“Tam giác vàng” nằm trong khu biên giới 3 nước Lào, Thái Lan và Miến Điện đã trở thành huyền thoại, nơi có các xưởng sản xuất heroin trên đất Miến Điện, đường xuất khẩu qua Thái Lan sang Bangkok hoặc qua Lào, Trung Quốc đến Sài Gòn, Hồng Kông và từ đó hàng tấn ma túy lần lượt được vận chuyển khắp nơi trên thế giới. Bangkok, Hong Kong và Sài Gòn, tức thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, trở thành những điểm trung chuyển heroin lớn nhất thế giới; ma túy được vận chuyển theo đoàn xe, được bảo vệ bởi các quan chức tham nhũng, hàng tấn qua đường bộ đến các cảng.
Trong chiến tranh Việt Nam, người ta ước tính rằng, một phần tư tổng số lính Mỹ nghiện heroin, và heroin thậm chí còn được các thương nhân chuyển thẳng đến doanh trại. Ở quê nhà, cuộc chiến chống Cộng sản Việt Nam đã kết thúc, nhưng nạn nghiện heroin vẫn còn và heroin tiếp tục từ tam giác vàng đến New York và Chicago.
Ngày nay việc sản xuất ma túy ở Myanmar vẫn hoạt động mạnh, nhưng nó đã được chuyển sang sử dụng thuốc viên amphetamine (Ya Ba) và hiện chủ yếu cung cấp cho thị trường châu Á. Và số tiền thu được không còn chỉ được dùng để mua vũ khí giành độc lập, mà để tài trợ cho toàn bộ các công ty trong lĩnh vực bất động sản, khai thác mỏ, xây dựng dân dụng, v.v…
Các tổ chức xã hội đen đã chiếm lĩnh thị trường từ lâu. Và, làm thế nào nó có thể khác được, Tatmadaw cũng có phần trong đó. Nếu Tatmadaw không bị lật đổ và các nhóm sắc tộc hợp nhất thành một nước cộng hòa liên bang Myanmar, vấn đề ma túy ở tam giác vàng và trong các khu vực do quân nổi dậy kiểm soát sẽ không bao giờ được giải quyết. Tất cả các quốc gia trong khu vực ngày nay đều có vấn đề lớn về ma túy, và họ cũng sẽ có lợi nếu Myanmar thống nhất và có được một chính phủ dân sự.
Năm 1962, quân đội nắm quyền trong một cuộc đảo chính, và cho đến năm 2016 Miến Điện không có chính phủ dân sự. (Người ta có thể nói về một “chính phủ dân sự“ ở mức độ nào, sẽ tìm hiểu thêm về vấn đề này trong Phần 2 & 3). Quân đội đã cai trị Myanmar, trước đó là Miến Điện, không gián đoạn trong 60 năm. Quân đội giả vờ xây dựng một “nhà nước xã hội chủ nghĩa”, nhưng trên thực tế, quân đội theo đuổi lợi ích kinh tế của riêng mình và tăng cường quyền lực của mình. Nó phong tỏa đất nước với thế giới bên ngoài và biến nơi từng là quốc gia giàu có nhất Đông Nam Á thành một ngôi nhà nghèo.
Quân đội phát triển thành một quốc gia trong một quốc gia, giống như một đội quân chiếm đóng trên chính quốc gia của mình. Nó tách mình ra khỏi quần chúng và hiện đang sống trong một thế giới của riêng nó với những đặc quyền chỉ áp dụng cho họ. Một nền dân chủ ở Miến Điện có nghĩa là sự kết thúc của Tatmadaw và đế chế của họ mà người dân phải trả giá. Nội chiến đã bùng phát ở Miến Điện mà không bị gián đoạn kể từ năm 1949. Người dân Miến Điện phản đối chế độ quân sự vô số lần và liên tục bị đánh gục bằng bạo lực tàn bạo.
Trở lại Miến Điện
Sự nghiệp chính trị của Suu Kyi bắt đầu từ năm 1988 khi bà trở về Miến Điện vào tháng 4 để chăm sóc mẹ sau một cơn đột quỵ. Năm 1988, Miến Điện rơi vào một giai đoạn hỗn loạn. Sự phẫn nộ của người dân chống lại Tatmadaw đang sôi sục.
Vào tháng 9 năm 1987, chính quyền quân đội chỉ qua một đêm bằng sắc lệnh đã tuyên bố các loại tiền giấy 25, 35 và 75 kyat không còn có giá trị và thay thế chúng bằng các loại tiền mới 45 và 90 kyat. Không có quyền đổi tiền. Điều này có nghĩa là hơn một nửa số tiền giấy đang lưu hành trở thành vô giá trị trong một đêm. Những người nghèo bị ảnh hưởng nhiều nhất, bao gồm cả những sinh viên đang đóng học phí vào thời điểm đó và giờ có những khoản tiền không còn giá trị trong túi.
Ngay cả những tờ tiền 35 và 75 kyat khác thường cũng là kết quả của sự mê tín của Ne Win, nhà lãnh đạo cuộc đảo chính năm 1962, là người vẫn là chủ tịch của BSPP (Đảng Chương trình Xã hội Chủ nghĩa Miến Điện) cầm quyền và là người đã bãi bỏ tờ 100 kyat. Việc giới thiệu các tờ tiền bất thường 45 và 90 kyat đã được thực hiện, tin hay không, bởi vì thầy bói và “nhà chiêm tinh của triều đình“ đã nói với ông ta rằng chín là con số may mắn của cá nhân ông ta và rằng cả 45 và 90 đều chia chẵn cho chín.
Vào ngày 12 tháng 3 năm 1988, các sinh viên đã đụng độ với những vị khách say xỉn trong một cuộc ẩu đả tại một phòng trà ở Rangoon mà không có lý do. Một đơn tố cáo tội phạm đã được đệ trình và cảnh sát đã bắt giữ những kẻ côn đồ. Hóa ra một trong những nghi phạm gây ra vụ ẩu đả là con trai của chủ tịch “Hội đồng Nhân dân“ do chính phủ bổ nhiệm. Sau đó các sinh viên kéo đến trụ sở chính thức của Hội đồng Nhân dân. Quân đội được đưa đến và bắn vào sinh viên. Một số sinh viên bị thương và ít nhất một sinh viên thiệt mạng. Đó là giọt nước làm tràn ly. Vào ngày 18 tháng 3, hàng ngàn người đã phản đối chính quyền trên các đường phố ở Yangon.
Chính quyền đã đáp trả bằng bạo lực tàn khốc và đập tan cuộc biểu tình. Ít nhất 42 thanh niên thiệt mạng. Nhưng các cuộc biểu tình vẫn tiếp tục. Vào ngày 23 tháng 7, Ne Win tuyên bố từ chức lãnh đạo đảng BSPP. Ngày 1 tháng 8, sinh viên kêu gọi một cuộc tổng đình công, bắt đầu vào ngày 8 tháng 8 năm 1988 lúc 8 giờ sáng (8-8-88). Và một lần nữa hàng ngàn người xuống đường đòi khôi phục nền dân chủ từ trước năm 1962. Các cuộc biểu tình lan rộng khắp đất nước. Một lần nữa quân đội lại bắn vào đám đông và giết chết vô số người biểu tình. Vụ giết người không kết thúc cho đến ngày 13 tháng 8. Người dân đã không nhụt chí và kêu gọi một cuộc tổng đình công mới vào ngày 25 tháng 8. Lần này, hàng triệu người tham gia biểu tình.
Cuộc biểu tình lớn nhất được tổ chức vào ngày 26 tháng 8, và chính tại đây, bà Aung Suu Kyi đã có bài phát biểu đầu tiên. Bà phải đi bộ qua đám đông. Trên bục diễn giả có treo một bức chân dung lớn của cha bà, anh hùng dân tộc Aung San, hiện thân của mọi thứ mà Miến Điện có thể trở thành nếu không có cuộc đảo chính năm 1962. Cho đến lúc đó, không ai biết bà Suu Kyi, họ chỉ biết bà là con gái của ai đó. Suu Kyi bắt đầu phát biểu và chiếm được cảm tình của những người có mặt trong chớp mắt. Từ ngày đó, phong trào dân chủ ở Miến Điện đã có một cơ quan ngôn luận mạnh mẽ và một nhà lãnh đạo mới.
Phong trào đình công và phản đối bắt đầu vào ngày 8 tháng 8 đã kết thúc trong một cuộc tắm máu khác vào ngày 18 tháng 9. Chính quyền đã thay đổi một số người, tự gọi mình là SLORC (Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật Nhà nước) và tiếp tục cai trị theo chế độ thiết quân luật. Phần còn lại của thế giới phản ứng kinh hoàng, lên án vụ thảm sát và nhiều nước cắt đứt quan hệ với Miến Điện. Nhưng ngoài những lời nói suông, không có sự giúp đỡ cụ thể nào từ nước ngoài cho phong trào biểu tình non trẻ. Trung Quốc và Nga đã ngăn chặn việc lên án Miến Điện tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc.
Cả Đảng Cộng sản và các nhóm sắc tộc đều ít nghe nói về cuộc bạo loạn ở Rangoon và đã không can thiệp. Họ quá bận rộn với những cuộc đấu tranh giữa chính họ và với những giao dịch mua bán (ma túy) của họ. Họ hầu như không quan tâm đến những sự kiện ở Rangoon xa xôi. Ngay chính trong những tuần diễn ra các cuộc biểu tình ở Rangoon, họ đã ngừng chiến đấu với chính quyền, và sự can thiệp của họ có thể góp phần đáng kể vào việc lật đổ chính quyền. Năm 1988, chế độ phải đối mặt với thách thức lớn nhất kể từ khi đảo chính để nắm quyền vào năm 1962.
Ngay sau đó, ngày 24 tháng 9 năm 1988, NLD được thành lập và bà Suu Kyi trở thành Tổng Thư ký. Bà đã đi khắp Miến Điện từ tháng 10 năm 1988 đến tháng 7 năm 1989 và có những bài phát biểu trước đám đông nhiệt tình ở mọi thị trấn và làng mạc trên đường đi. Điều này khiến chính quyền lo lắng, vì vậy vào ngày 20 tháng 7 năm 1989, Suu Kyi bị bắt và quản thúc tại gia. Đồng thời, nhiều thủ lĩnh NLD cũng bị bắt và bị tống vào tù.
Sau chiến dịch đàn áp các cuộc biểu tình vào ngày 18 tháng 9, chế độ tuyên bố bầu cử tự do và hứa sẽ giao lại quyền hành cho đảng nào giành chiến thắng. Bây giờ, với việc NLD bị đánh bại và lãnh đạo của nó bị quản thúc tại gia, SLORC bắt đầu chuẩn bị cho cuộc bầu cử, mà nó hy vọng sẽ giành chiến thắng mà không có sự phản đối đáng kể.
Chính quyền thống trị các phương tiện truyền thông, báo chí, đài phát thanh và truyền hình. Cuộc bầu cử tự do đầu tiên kể từ năm 1962 diễn ra vào tháng 5/1990. Tuy nhiên, SLORC đã đánh giá thấp sự căm ghét của quân đội trong dân chúng và người dân đã bỏ phiếu áp đảo cho NLD và các đảng đồng minh khác trong các khu vực dân tộc thiểu số. Cuộc bầu cử là một cuộc trưng cầu dân ý chống lại chế độ độc tài quân phiệt.
Dĩ nhiên, SLORC không muốn chuyển giao quyền hành cho một chính phủ dân sự như họ đã hứa. Thay vào đó, họ tuyên bố rằng hiến pháp phải được soạn thảo trước và cho đến lúc đó SLORC sẽ tiếp tục điều hành chính phủ. Các ứng cử viên của NLD đã bị bỏ tù và kết quả bầu cử bị bỏ qua. Phản ứng của NLD đối với điều này tương đối yếu do chính sách phản đối bất bạo động của nó. Họ vừa thông qua một nghị quyết kêu gọi SLORC từ chức, tham gia đối thoại và giao lại quyền hành cho một chính phủ dân sự. Tuy nhiên, SLORC không nghĩ đến một cuộc đối thoại và khẳng định sức mạnh của mình theo cách đã được áp dụng thành công bằng nòng súng.
Vào ngày 8 tháng 8 [năm 1990], kỷ niệm hai năm của cuộc nổi dậy năm 1988, các nhà sư đã xuống đường. Quân đội đánh đập họ và các nhà sư từ chối nhận bố thí của thân nhân quân đội. Ở Miến Điện một nước sùng bái đạo Phật, điều này tương đương với việc bị vạ tuyệt thông. Bởi theo quan niệm của đạo Phật, không phải người nhận là người được bố thí mà là người cho có cơ hội làm việc thiện để cải thiện nghiệp chướng của mình và đến một lúc nào đó sẽ thoát khỏi vòng luân hồi và lên cõi niết bàn. Đó là lý do tại sao ở các quốc gia Phật giáo, các nhà sư đi bộ trên đường vào mỗi buổi sáng sớm với chiếc bát khất thực của họ. Các Phật tử thuần thành bỏ một thứ gì đó có thể ăn được, thường là vài thìa gạo, vào trong bát ăn xin và do đó cải thiện nghiệp của họ. Cho nên không phải người nhận, mà là người cho, được làm cho hạnh phúc. Một nhà sư không trừng phạt ai nặng hơn bằng cách từ chối nhận của bố thí.
Khó ai có thể tưởng tượng được rằng quân đội sẽ có hành động chống lại các nhà sư, nhưng vào tháng 10 năm 1990, quân đội đã ập vào tất cả các tu viện chống lại quân đội và bắt giữ các nhà sư. Nhiều người bị bỏ tù, những người khác bị sát hại. Các nghị sĩ NLD của Nghị viện, vốn không bao giờ có thể gặp nhau, cũng bị bắt và bỏ tù. Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc của phong trào dân chủ vào cuối tháng 10 năm 1990. Phải mãi đến năm 2007 các cuộc biểu tình hàng loạt xuất hiện trở lại [ở Miến Điện].
Ngày 18 tháng 6 năm 1989, Miến Điện được đổi tên thành Myanmar và thủ đô Rangoon được đổi tên thành Yangon. Suu Kyi bị quản thúc tại gia tổng cộng 15 năm, trong 21 năm, từ tháng 7 năm 1989 đến tháng 11 năm 2010. Cộng đồng quốc tế muốn ra dấu hiệu và năm 1991, bà Aung Suu Kyi đã được trao giải Nobel Hòa bình. Chính quyền quân phiệt bị phương Tây phản đối, xích lại gần Trung Quốc hơn, đất nước này vẫn bị cô lập dưới chế độ độc tài quân sự.