COVID-19, tái khởi động hay bất động ngăn diệt chủng?

Blog VOA

Trân Văn

16-4-2020

Đại dịch COVID-19 nhắc người ta nhớ đến đại dịch Cúm Tây Ban Nha xảy ra đầu thế kỷ 20 (1918 – 1919), sau khi Thế chiến thứ nhất kết thúc. Thế chiến thứ nhất tước đoạt sinh mạng của 20 triệu người và Cúm Tây Ban Nha theo sau, bùng phát thành đại dịch, tước đoạt thêm khoảng từ 50 triệu đến 100 triệu sinh mạng nữa trên thế giới – tương đương 1/3 dân số toàn cầu vào thời điểm đó.

Giống như Cúm Tây Ban Nha, COVID-19 cũng có tính chất như một đợt diệt chủng, lộn ngược kinh tế – xã hội toàn cầu, đến giờ vẫn chưa có vaccine ngăn ngừa lây nhiễm, chưa có thuốc đặc trị. Phương thức duy nhất để kiềm chế lây lan là giữ khoảng cách với người khác, hạn chế tối đa đi lại, tiếp xúc (social distancing). Tuy giúp hạn chế thiệt hại nhân mạng nhưng social distancing gây ra nhiều hệ lụy cho kinh tế – xã hội.

Tiếp tục duy trì social distancing để ngăn chặn một đợt diệt chủng mới khi chưa có vũ khí hữu hiệu để chống đỡ, hay dỡ bỏ các qui định về social distancing để tái lập hoạt động kinh tế, xã hội, đang tạo ra những cuộc tranh luận giữa các cộng đồng, trong nội bộ các quốc gia. Giữa những cuộc tranh luận càng lúc càng gay gắt này, có vài câu chuyện liên quan đến Cúm Tây Ban Nha rất đáng để tham khảo, ngẫm nghĩ…

***

Chẳng còn bao nhiêu người Mỹ nhớ tới Camp Crane – căn cứ quân sự tọa lạc tại Allentown, hạt Lehigh, tiểu bang Pennsylvania, chuyên huấn luyện những người lái xe cứu thương của Lục quân để đáp ứng nhu cầu vận chuyển thương binh, tử sĩ ở chiến trường Pháp trong Thế chiến thứ nhất – vì căn cứ này đã bị dỡ bỏ, trả lại đất cho Allentown Fairgrounds, nơi chuyên tổ chức các hội chợ, đặc biệt là hội chợ nông nghiệp.

Gần đây, một số chuyên gia, cơ quan truyền thông của Mỹ nhắc tới Camp Crane hay hạt Lehigh vì từng được xem là rất thành công trong việc ngăn ngừa Cúm Tây Ban Nha (1). Camp Crane được xây dựng làm nơi cư trú và huấn luyện cho 2.500 người nhưng vào thời điểm Cúm Tây Ban Nha bùng phát, số người cư trú trong căn cứ này gấp khoảng ba lần thiết kế.

Khi đại dịch đạt đỉnh chết chóc, số người cư trú trong Camp Crane vẫn còn 2.100 người nhưng dù luôn luôn đông đúc, suốt đại dịch Cúm Tây Ban Nha, tại Camp Crane chỉ có 355 người bị nhiễm virus và 13 người trong số này thiệt mạng. Trung tâm Nghiên cứu lịch sử Y khoa của Đại học Y khoa Michigan đã từng tìm kiếm xem vì sao Camp Crane có thể đạt được thành quả ấy…

Năm 2006, trung tâm vừa kể từng cho biết, virus Cúm Tây Ban Nha là chủng mới, dễ lây lan và đó là lý do nó nhanh chóng trở thành đại dịch có tầm vóc toàn cầu khi những người lính tham gia Thế chiến thứ nhất di chuyển qua nhiều nơi. Những sĩ quan điều hành Camp Crane phát giác sự xuất hiện của Cúm Tây Ban Nha vào ngày 23 tháng 9 năm 1918. Từ bốn ca nhiễm cúm đầu tiên, ba ngày sau, số ca nhiễm bắt đầu tăng lên…

Khi nhận ra tất cả những ca nhiễm cúm đều từ những người mới đến trình diện, Chỉ huy trưởng Camp Crane ra lệnh cách ly tất cả những người đến căn cứ trong ba ngày. Những người đang cư trú trong căn cứ có dấu hiệu bị cúm cũng bị cưỡng bức cách ly tại một khu vực riêng biệt của Bệnh viện Allentown. Những người còn lại được sắp xếp để có không gian riêng khoảng 9 mét vuông/người. Giờ ăn, mọi người được yêu cầu ngồi hết về một phía, để trống phía đối diện.

Để hạn chế mầm bệnh xâm nhập từ bên ngoài, toàn bộ sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ bị cấm ra khỏi căn cứ, nếu phải ra ngoài thì được yêu cầu phải tránh tất cả những chỗ đông người. Hạn chế tối đa việc cho thường dân vào bên trong. Trung tá Richard Slee – Chỉ huy trưởng Camp Crane, còn ra lệnh cho bác sĩ và những người lính làm vệ sinh doanh trại phải mang khẩu trang.

Tuy nhiên những người nghiên cứu về thành quả mà Camp Crane đạt được trong ngăn ngừa Cúm Tây Ban Nha cũng phát giác, Trung tá Slee không… triệt để! Để giảm sự căng thẳng, thỉnh thoảng, Trung tá Slee nới lỏng các biện pháp nghiêm ngặt mà ông đề ra: Cho phép ban nhạc, đội football của căn cứ ra ngoài biểu diễn, thi đấu,… Cho phép lính tráng trong căn cứ tham dự một đại nhạc hội ở bên ngoài vào tối 31 tháng 10 năm 1918…

Bất kể thế nào thì thành quả mà Camp Crane đạt được cũng vẫn còn rất ấn tượng. Trong khi tỉ lệ lây nhiễm Cúm Tây Ban Nha nơi Lục quân Mỹ là 252/1000 (cứ 1000 quân nhân thì có 252 người bị nhiễm) thì tỉ lệ này ở Camp Crane chỉ là 35/1.000. Trung tá Slee đã từng nhấn mạnh về năm lý do giúp ông có thể hạn chế Cúm Tây Ban Nha lây lan ở khu vực thuộc phạm vi trách nhiệm của mình: Dự đoán về khả năng lây nhiễm và chuẩn bị để đối phó. Dọn dẹp, làm vệ sinh. Sắp xếp lại chỗ ở để bảo đảm mọi người có thể giữ khoảng cách cần thiết. Cách ly những người có dấu hiệu nhiễm bệnh. Chuyển những người nhiễm bệnh đển bệnh viện.

***

Giá phải trả cho việc duy trì social distancing chẳng rẻ chút nào nhưng với những đặc điểm của COVID-19 và trong bối cảnh chưa có vaccine, các chuyên gia vẫn còn loay hoay xác định phác đồ điều trị, tìm kiếm thuốc đặc trị, có bãi bỏ social distancing để sinh hoạt xã hội trở lại bình thường, tái khởi động các hoạt động sản xuất, thương mại hay không là câu hỏi không dễ trả lời. Diễn biến của đại dịch COVID-19 cho thấy, nếu thiếu cẩn thận, không đủ tỉnh táo, sẽ có những quyết định chẳng khác gì bỏ phiếu diệt chủng!

Chú thích

https://www.stripes.com/a-long-ago-pandemic-success-story-shows-the-value-of-social-distancing-1.625906

Bình Luận từ Facebook