1-11-2019
Tiếp theo phần 1
Hugo Chavez, Tổng thống Venezuela từ năm 1999, đã theo gương Mugabe. Ông đã quốc hữu hóa và chính trị hóa ngành công nghiệp dầu lửa một thời đầy tự hào của Venezuela, từng đứng thứ hai trên thế giới nửa thế kỷ trước đây. Mức độ duy tu các mỏ dầu thiết yếu bị giảm mạnh khi ông thay thế phần lớn số cán bộ kỹ thuật phi chính trị của công ty dầu lửa nhà nước bằng những người thân với chính phủ. Việc làm đó đã gây tổn thất cho sản lượng dầu lửa hàng trăm ngàn thùng mỗi ngày. Sản lượng dầu thô của Venezuela đã giảm từ 3,2 triệu thùng mỗi ngày năm 2000 xuống 2,4 triệu thùng mỗi ngày hồi mùa xuân năm 2007.
Nhưng vận may đã mỉm cười với Chavez. Chính sách của ông có thể gây ra tình trạng phá sản ở bất kỳ nước nào khác. Nhưng từ khi ông trở thành tổng thống, nhu cầu dầu lửa thế giới đã đẩy giá dầu lên gấp gần 4 lần và đã cứu thoát ông ít nhất là vào lúc này. Tính cả dầu thô nặng thì Venezuela có thể là một trong những nước có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới. Nhưng nếu như người ta không thể tạo nên một nền kinh tế để khai thác thì dầu dưới đất cũng không có giá trị gì hơn khi nó nằm yên hàng thiên niên kỷ [73] .
Có một tình huống khó khăn trong lập trường chính trị của Chavez. Hai phần ba thu nhập dầu lửa của Venezuela là từ xuất khẩu dầu lửa sang Mỹ. Dứt khỏi vị khách hàng lớn này sẽ là một tai họa đối với Venezuela, bởi vì phần lớn sản phẩm của họ là loại dầu chua nặng cần tới năng lực của các nhà máy lọc dầu của Mỹ. Chuyển dầu sang châu Á có thể là một sự lựa chọn, nhưng rất tốn kém. Tất nhiên giá dầu lửa lên cao có thể tạo điều kiện cho Chavez đối phó với các chi phí phát sinh. Nhưng để mua ảnh hưởng ở ngoài nước và sự ủng hộ chính trị ở trong nước, ông đang dần dần gắn tương lai chính trị của mình với giá dầu lửa, không thể ngừng lại được. Ông cần có giá dầu ngày càng cao để thắng thế. Vận may có thể không mỉm cười mãi với ông.
Thế giới không nên lo lắng, bởi vì không phải tất cả các nhà dân túy có sức hấp dẫn đều hành xử giống Chavez và Mugabe khi giành được chính quyền. Luiz Inácio Lula da Silva, một nhà dân túy Brazil được nhiều người ủng hộ, đã được bầu làm tổng thống năm 2002. Trước khả năng ông sẽ thắng cử, thị trường chứng khoán Brazil sụt giảm, lạm phát được dự báo là sẽ tăng và phần lớn kế hoạch đầu tư của nước ngoài bị gác lại. Nhưng thật kinh ngạc đối với nhiều người, kể cả tôi, ông đã theo đuổi phần lớn các chính sách hợp lý trong Plano Real mà Cardoso, người tiền nhiệm của ông, đã đưa ra để thuần phục con ngựa siêu lạm phát của Brazil hồi đầu thập niên 90.
Chủ nghĩa dân túy kinh tế đưa ra nhiều cam kết lớn mà không tính đến làm thế nào để tài trợ cho chúng. Thường là việc thực hiện các cam kết đó dẫn đến thâm hụt ngân sách và làm cho việc vay nợ từ khu vực tư nhân hoặc các nhà đầu tư nước ngoài trở nên khó khăn. Do đó mà thường phải dựa vào Ngân hàng trung ương làm người chủ chi. Yêu cầu Ngân hàng trung ương in tiền để tăng sức mua của chính phủ châm ngòi cho cơn bão lửa siêu lạm phát. Kết quả là, như lịch sử đã cho thấy, chính phủ bị lật đổ và ổn định xã hội bị đe dọa nghiêm trọng.
Điển hình cho khuôn mẫu này là tình trạng lạm phát ở các nước Brazil năm 1994, Argentina năm 1989, Mexico giữa thập niên 80 và Chile giữa thập niên 70. Các tác động xã hội của chúng thật tai hại. Các nhà kinh tế quốc tế có uy tín như Rudiger Dornbusch và Sebastian Edwards đã kết luận: “Đến cuối mọi cuộc thử nghiệm dân túy, mức lương thực tế đều thấp hơn lúc đầu”. Trên thực tế, một trong các xu thế đặc thù ở các nước đang phát triển là thỉnh thoảng lại xảy ra siêu lạm phát.
Mỹ Latinh có thể quay lưng lại với chủ nghĩa dân túy kinh tế không? Trong hai thập niên qua, có lẽ vì liên tiếp bị thất bại về chính sách kinh tế vĩ mô mà các nước lớn trong khu vực đã nuôi dưỡng một nhóm các nhà kỹ thuật kinh tế có thể lãnh đạo Mỹ Latinh đi theo một hướng mới, trong đó có các nhà hoạch định chính sách xuất chúng.
Tôi có may mắn được làm việc với nhiều người trong số đó, trong những thời kỳ rất khó khăn của các thập niên gần đây, như là Pedro Aspe, Guillermo Ortiz, José Ángel Gurría và Francisco Gil Díaz ở Mexico; Pedro Malan và Arminio Fraga Neto ở Brazil; Domingo Cavallo ở Argentina. Phần lớn có bằng cao học về kinh tế từ các trường đại học có uy tín của Mỹ. Thậm chí một số còn trở thành nguyên thủ quốc gia như Ernesto Zedillo ở Mexico và Fernando Henrique Cardoso ở Brazil. Phần lớn đã ban hành các chính sách cải cách và giải phóng thị trường có hiệu quả thúc đẩy kinh tế phát triển, bất chấp sự chống đối mạnh mẽ của những người theo chủ nghĩa dân túy.
Theo tôi, có lẽ Mỹ Latinh đã ở trong một hoàn cảnh tồi tệ hơn nhiều nếu không có các vị bác sỹ này. Nhưng sự chia rẽ sâu sắc về thế giới quan, giữa phần lớn các nhà hoạch định chính sách này với xã hội còn chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa dân túy kinh tế mà họ phục vụ, vẫn còn tồn tại dai dẳng.
Sự ổn định kinh tế mong manh của Mỹ Latinh được phản ánh rất rõ qua cuộc bầu cử tổng thống năm 2006 ở Mexico, nước có nền kinh tế lớn thứ hai ở khu vực và đã đạt được nhiều thành tựu kể từ cuộc khủng hoảng tiền tệ cuối năm 1994. Andrés Mannuel López Obrador, một nhà dân túy, đã suýt được bầu làm tổng thống. Tôi không thể đoán được khi lên cầm quyền ông sẽ giống Lula hay Chavez.
Không phải các nước phát triển, ví dụ như Mỹ, không chú ý gì đến chủ nghĩa dân túy kinh tế. Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi thì các nhà lãnh đạo dân túy khó có thể thay đổi được hiến pháp Mỹ hoặc văn hóa Mỹ để gây ra một sự tàn phá như Perón hay Mugabe đã từng làm. Tôi cho rằng Wiliam Jennings Bryan, với bài diễn văn “Cây thánh giá vàng” đầy kích động tại Đại hội Đảng dân chủ năm 1986, là tiếng nói có sức lôi cuốn nhất của chủ nghĩa dân túy kinh tế trong lịch sử Mỹ. Ông tuyên bố: “Không được áp đặt lên đầu người lao động chiếc vương miện đầy gai nhọn. Không được đóng đinh nhân loại lên cây thành giá vàng”. Nhưng tôi không tin là Mỹ sẽ thay đổi nhiều nếu ông trở thành tổng thống.
Huey Long ở Louisiana cũng vậy. Trong thập niên 30, ông đã giành được chính vị thống đốc và một ghế trong thượng viện Mỹ nhờ tài hùng biện trong bài diễn văn “Chia sẻ tài nguyên”. Năm 1935, ông bị ám sát khi đang chạy đua vào Nhà Trắng. Chủ nghĩa dân túy rõ ràng không có gen di truyền. Con trai ông, Russell, làm chủ tịch Ủy ban Tài chính Thượng viện trong một thời gian dài là người cương quyết ủng hộ chủ nghĩa tư bản và ủng hộ giảm thuế cho doanh nghiệp.
Tất nhiên trong lịch sử Mỹ cũng có các sự kiện dân túy như Phong trào tự do cuối thế kỷ 19 hay phần lớn nội dung của đạo luật New Deal, nhưng Mỹ đã không có một chính phủ dân túy nào. Sự kiện dân túy gần nhất là việc tổng thống Richard Nixon đóng băng giá và lương vào tháng 8/1971. Nhưng các sự kiện dân túy đó chỉ là những sai lầm trong tiến bộ kinh tế Mỹ. Còn ở Mỹ Latinh thì chính sách và chính phủ dân túy là căn bệnh phổ biến, do đó đã gây ra nhiều hậu quả.
Chủ nghĩa dân túy kinh tế được coi là sự mở rộng của dân chủ sang lĩnh vực kinh tế. Nhưng không phải vậy. Những người dân chủ, viết bằng chữ d thường (Không có ý nói tới những Đảng viên Đảng dân chủ – ND) , ủng hộ hình thức chính phủ trong đó đa số cai trị, nhưng không bao giờ vi phạm các quyền cá nhân cơ bản. Trong các xã hội như vậy, quyền của thiểu số được bảo vệ trước đa số. Chúng ta để cho đa số quyền quyết định mọi chính sách công nhưng không được vị phạm các quyền cá nhân [74] .
Dân chủ là một quá trình phức tạp và chắc chắn không phải luôn luôn là hình thức chính quyền hiệu quả nhất. Tuy nhiên, tôi tán thành nhận xét châm biếm của Wilston Churchill rằng: “Dân chủ là hình thức chính phủ tồi tệ nhất trừ tất cả các hình thức khác đã được thử nghiệm”. Bất kể như thế nào thì chúng ta cũng phải thừa nhận rằng nếu được tự do hành động thì chính người dân sẽ có những quyết định đúng đắn về việc nên cai trị như thế nào. Nếu đa số đưa ra những quyết định sai lầm thì hậu quả sẽ bất lợi, thậm chí đưa đến rối loạn.
Chủ nghĩa dân túy gắn với các quyền cá nhân được nhiều người gọi là dân chủ tự do. Tuy nhiên, thuật ngữ “chủ nghĩa dân túy kinh tế” mà nhiều nhà kinh tế sử dụng để chỉ một nền dân chủ trong đó không có nhiều “quyền cá nhân”. Một nền dân chủ trong đó 51% dân số có thể xóa bỏ một cách hợp pháp các quyền của 49% dân số còn lại là một nền dân chủ không thực chất và sẽ dẫn tới chuyên chế [75] . Sau này thuật ngữ chủ nghĩa dân túy kinh tế mang nghĩa xấu khi được sử dụng cho những người như Perón – người mà nhiều nhà sử học cho là phải chịu trách nhiệm lớn về sự suy giảm kinh tế lâu dài của Argentina sau Thế chiến thứ hai. Argentina hiện vẫn còn phải vật lộn với di sản này.
Trận chiến của chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ thắng lợi. Mỹ Latinh đã chứng tỏ điều này rõ ràng hơn bất kỳ khu vực nào khác. Sự tập trung về thu nhập và tầng lớp điền chủ có nguồn gốc từ thời kỳ xâm chiếm thuộc địa của người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong thế kỷ 16 vẫn là các nhân tố gây hằn thù sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản ở Mỹ Latinh vẫn còn phải vật lộn cật lực.
Mỹ luôn tìm cách đẩy mạnh kinh tế, khuyến khích tư bản đầu tư tạo việc làm cho người dân. Nhờ tư bản Mỹ mà người dân có cái “cần câu” thay vì cho “cá” như các nước XHCN tào lao, cộng sản hoang tưởng, điên khùng đã làm để rồi chết đói sau khi “cá hết”.
Chưa bàn đến dân đen chỉ được vài con “cá”, nhà quan cs thì được cả tấn
Phần 1 rồi sẽ có phần 2 , phần 3.
Dương Quốc Chính là trí thức xhcn ?
Tôi rất thích bài này. Hiểu ra nhiều điều