Tác giả: David Vergun
Dịch giả: Trúc Lam
3-4-2019
WASHINGTON – “Mối quan hệ quốc phòng của chúng ta [với Việt Nam] mạnh mẽ và tiêu biểu cho một trong những trụ cột mạnh mẽ nhất trong mối quan hệ song phương nhiều mặt của chúng ta”, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, phụ trách các vấn đề an ninh Ấn Độ-Thái Bình Dương cho biết hôm nay.
Ông Randall G. Schriver phát biểu trước các khan giả tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, rằng mối quan hệ quốc phòng với Việt Nam đã được củng cố hơn nữa trong hai năm qua, và hai nước có kế hoạch tăng cường hơn nữa mối quan hệ này, dựa trên nền tảng lợi ích chung của hai nước.
Quan hệ quân sự mạnh mẽ
Hoa Kỳ muốn tìm kiếm mối quan hệ quân sự mạnh mẽ hơn với Việt Nam, ông Schriver nói. Chẳng hạn như tàu sân bay USS Carl Vinson đến thăm Đà Nẵng hồi năm ngoái, trong chuyến thăm đầu tiên kể từ khi Chiến tranh Việt Nam [kết thúc], với các cuộc thảo luận về một chuyến thăm khác trong năm nay.
Năm 2017, Hoa Kỳ đã chuyển giao phần lớn các thiết bị quốc phòng cho Việt Nam – như tàu khu trục USCGC Morgenthau lớp Hamilton cho Cảnh sát biển. Chiếc tàu này hiện đang hoạt động rất tích cực, trong nhiệm vụ an ninh hàng hải cho Việt Nam, ông Schriver nói. “Chúng tôi hy vọng sẽ chuyển giao chiếc tàu khu truc thứ hai tương tự, khi sẵn sàng”.
Ông nói rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục giúp tăng cường khả năng quân sự cho Việt Nam và theo đuổi các cơ hội hợp tác và huấn luyện quân sự, tập trung vào các lĩnh vực như sau:
– An ninh và ổn định trong khu vực cho Việt Nam
– An ninh hàng hải và nhận thức về hàng hải
– Hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai
– Giáo dục quân sự chuyên nghiệp, gồm đào tạo tiếng Anh
– Quân y
– Tìm kiếm và giải cứu
– Các hoạt động gìn giữ hòa bình
Về lĩnh vực gìn giữ hòa bình, ông Schriver lưu ý rằng, Việt Nam đã triển khai một đơn vị gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan, với một số hỗ trợ từ Hoa Kỳ và các đối tác khác.
Ngoài những điều vừa kể, ông Schriver còn cho biết thêm: “Chúng tôi đã nâng cấp mức độ các cuộc đối thoại quốc phòng hàng năm và chúng tôi có một mức độ tham gia cao cấp chưa từng có, không chỉ hai chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ tới Việt Nam kể từ khi ông ta nhậm chức, mà chỉ riêng trong năm qua, [cựu] Bộ trưởng Quốc phòng [James] Mattis cũng đã đến thăm Việt Nam hai lần”.
Trong lĩnh vực hợp tác khác, ông Schriver nói, ông đánh giá cao sự sẵn lòng hợp tác của Việt Nam qua việc cho phép nhóm nghiên cứu và điều tra của Cơ quan Quốc phòng về tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích/ Tù nhân chiến tranh (POW/MIA), thực hiện các hoạt động khai quật, tìm kiếm những người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam.
Lý do tăng cường mối quan hệ mạnh mẽ
Ông Schriver nói, Hoa Kỳ và Việt Nam có cùng lợi ích chung “trong việc thúc đẩy trật tự dựa trên các quy tắc, bảo vệ chủ quyền, quyền lợi riêng của các quốc gia, bất kể nước lớn hay nhỏ và mối quan tâm chung của chúng tôi rằng có sự lo ngại về một sự xói mòn tiềm ẩn về trật tự dựa trên quy tắc, cho phép tất cả các nước ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương vươn lên và thịnh vượng”.
Ông nói tiếp: “Chúng tôi chia sẻ quan điểm rằng để khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương tiếp tục phát triển, mỗi nước trong khu vực phải được tự do xác định hướng đi riêng cho họ, trong một hệ thống mà các giá trị bảo đảm cơ hội cho cả những nước nhỏ nhất phát triển và thoát khỏi sự ức hiếp của các nước mạnh. Tóm lại, đối với Việt Nam, điều chúng tôi muốn là một nước Việt Nam mạnh mẽ, thịnh vượng, độc lập, không gì ngoài những điểm đó”.
Sự ức hiếp mà ông Schriver nhắc đến ở đây là Trung Quốc.
“Khu vực này đang ngày càng phải đối mặt với một nước Trung Quốc hung hăng, quyết đoán hơn, sẵn sàng chấp nhận xích mích trong việc theo đuổi lợi ích của họ,” ông Schriver nói, nhắc đến việc Trung Quốc quân sự hóa các đảo trên Biển Đông là một ví dụ.