Việt Nam-Trung Quốc: “Hai Quốc gia, Một trạm Kiểm soát Cửa khẩu”

VOA

6-2-2018

Hơn 100 người Việt tụ tập trước tượng đài Vua Lý Thái Tổ tại trung tâm Hà Nội hôm 17/02/16 để tưởng niệm kỷ niệm ngày nổ ra chiến tranh biên giới Việt-Trung. Những tấm biểu ngữ ghi hàng chữ “Ngày 17/2/1979, Nhân dân sẽ không quên”. AP Photo/ Tran Van Minh.

Bắc Kinh và Hà Nội đang thảo luận việc thành lập một hệ thống “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát cửa khẩu”. Dự kiến dự án này sẽ được đưa vào hoạt động vào tháng 5 năm nay.

Kế hoạch thành lập một trạm kiểm soát biên giới chung giữa hai nước đã được thảo luận từ nhiều năm nay, và trong quá khứ từng được hoan nghênh như một bước tích cực trên con đường hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh cuộc tranh giành chủ quyền trong khu vực, và tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc, khái niệm “Hai quốc gia, một trạm kiểm tra cửa khẩu” gây lo ngại, bởi vì theo một cách nào đó, nó gợi nhớ khái niệm “Một quốc gia, 2 thể chế” nối kết Trung Quốc với Hong Kong giữa lúc Bắc Kinh đang có những động thái đi ngược lại cam kết và đang siết dần gọng kềm tại đặc khu hành chánh lẽ ra còn được quyền tự trị. Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã ở thành phố HCM và Tiến sĩ Nguyễn Quang A ở Hà nội trao đổi ý kiến với VOA về đề tài này.

Việt Nam và Trung Quốc có đường biên giới đất liền dài tới 1,280 km và kế hoạch thành lập một trạm kiểm soát biên giới chung đã có từ lâu. Hôm 4/2, tờ South China Morning Post của Hong Kong dẫn lời một giới chức Trung Quốc nói rằng dự án này có thể sớm đi vào hoạt động, có lẽ từ tháng Năm năm nay. Ông Jian Xingchao, phó thị trưởng thành phố Phòng Thành Cảng, nơi được chọn làm địa điểm đặt 1 trong hai trạm kiểm soát cửa khẩu chung, nói: “Rất nhiều chi tiết còn đang dược thảo luận, nhưng cả hai bên đều có chung ước muốn đó.”

Trạm kiểm soát đầu tiên, ở Phòng Thành Cảng (Fanchenggang), sẽ được thiết lập trên cầu Dongxing-Móng Cái. Trạm thứ nhì có thể được đặt ở Cầu Hữu nghị, cửa khẩu ở Pingxiang.

Cả Phòng Thành Cảng lẫn Pingxiang đều thuộc Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây ở miền Nam Trung Quốc. Trạm đầu tiên sẽ kết nối với thành phố Móng Cái ở tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Quảng Ninh và trạm kiểm soát thứ hai kết nối với thị trấn Đông Đăng ở tỉnh Lạng Sơn.

Theo ông Jian, vấn đề chủ yếu xoay quanh vấn đề chủ quyền vì bên nào tiến hành kiểm tra ở biên giới thì trên thực tế bên đó có hiệu lực thực hiện chủ quyền đối với bên kia, do đó đây là một vấn đề “khó giải quyết bởi vì không bên nào muốn buông bỏ quyền lực đó”.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS và Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam – Hungary, nhận định:

“Cái đó có thể gây nhiều lo ngại trong dân chúng Việt Nam. Thực sự nếu trong một bối cảnh chung của sự hội nhập quốc tế mà chúng ta thấy ở ASEAN hay ở các nước thuộc khu vực Schengen chẳng hạn, thì việc đó có thể là một việc bình thường, thậm chí đáng hoan nghênh, nhưng với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam và Trung Quốc, thì tôi nghĩ cái chuyện đấy gây rất nhiều phản cảm.”

Ông nói thái độ hoài nghi và tinh thần phản kháng Trung Quốc nơi người dân Việt Nam còn rất cao, trong bối cảnh Trung Quốc đang tìm mọi cách để bành trướng và gây ảnh hưởng lớn tới Việt Nam “như đã gây ở Campuchia và Lào.”

Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng dự án này có lợi cho Trung Quốc để thực hiện cái gọi là chiến lược “tằm ăn dâu” lấn chiếm đất, bởi vì nó tạo điều kiện dễ dàng cho người Trung Quốc vào Việt Nam hơn là người Việt Nam vào Trung Quốc, kể cả dưới chiêu bài du lịch. Ông đơn cử trường hợp thành phố Phủ Lý, cách đây mấy chục năm chỉ có vài chục người Trung Quốc đi du lịch đến rồi ở lại, bây giờ có khoảng 40,000 người Trung Quốc làm ăn trong một thành phố chỉ có khoảng 100,000 dân. TS Quang A cho rằng đó là một “sự bành trướng rất hữu hiệu của Trung Quốc.”

“Trung Quốc là một nước đông dân nhất thế giới và có chủ trương nhất quán là như thế, thì đối với kinh nghiệm của VN lịch sử nhiều ngàn năm về việc giữ gìn độc lập thì chắc chắn là người dân và tôi tin rằng trong giới lãnh đạo cũng có người quan ngại về tiến triển đấy”.

Tiến sĩ Nguyễn Nhã, tác giả của nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhận định:

“Tôi đã từng đến Lạng Sơn thì tôi thấy cửa ngõ của Lạng Sơn, ở bên này là của VN, bên kia là của Trung Quốc, thì bây giờ nhập lại một thì tôi không hiểu là ý đồ thế nào. Như vậy là phải thống nhất với nhau, mà có khi bên này bên kia không đồng ý với nhau thì sao, thì tôi cũng không rõ.”

Báo South China Morning Post dẫn lời Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp của Viện nghiên cứu Yusof Ishak ở Singapore, tỏ ra lạc quan là Việt Nam và Trung Quốc có thể hợp tác với nhau, ông coi dự án này như một cách để 2 nước có thể làm việc với nhau và phục vụ các lợi ích chung, vượt lên trên cuộc tranh chấp ở Biển Đông để hướng tới phía trước.

Nhưng nhà sử học Nguyễn Nhã tiên đoán sẽ có những phức tạp khó khăn khi kế hoạch “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát cửa khẩu” đi vào hoạt động:

“Như vậy cái chủ quyền của hai nước nó không được xác định rõ ràng. Tôi không hiểu tại sao mà lại phải nhập làm một. Tôi là một người nghiên cứu lịch sử từ xưa đến nay, tôi cũng không hiểu.”

Tuy các nhà nghiên cứu đều cho rằng dự án này cũng có mặt tích cực của nó khi tạo thuận lợi cho hợp tác giao thương, giao lưu văn hóa, tăng sự hiểu biết lẫn nhau trong khu vực, nhưng cùng lúc, họ cảnh báo về mối nguy tiềm tàng trong bối cảnh Trung Quốc kiên trì tiến hành chiến dịch tằm ăn dâu để thực hiện tham vọng “Nam tiến”.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A:

“Nếu người ta hiểu biết lẫn nhau hơn, giao thương làm ăn với nhau hơn thì các sự căng thẳng sẽ giảm bớt, nhưng tôi nghĩ phải lưu ý đến luôn cả mặt kia nữa vì không khéo thì lợi bất cập hại cho nên làm cái gì cũng phải có một mức độ tính toán thiệt hơn.”

Liệu khái niệm “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát cửa khẩu”, có gợi lên cách hành xử của Trung Quốc khi thực hiện chính sách “Một quốc gia, hai thể chế” tại đặc khu Hong Kong?

Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng kế hoạch “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát” càng gây thêm nghi ngờ về hiệp định Thành Đô bí mật giữa lãnh đạo Đảng Cộng sản VN và Trung Quốc như tin đồn bấy lâu nay.

“Tôi nghĩ rằng cái đó nó càng gây nghi ngờ trong dân chúng về những cái gọi là hiệp định bí mật như hiệp ước Thành Đô mà rất tiếc là chính quyền Việt nam, Đảng Cộng sản VN không bác bỏ mà cũng không công nhận, và cái điều đấy nó càng làm cho sự lo ngại nó có cơ sở hơn. ”

Tiến sĩ Nguyễn Nhã không nhắc tới hiệp định Thành Đô, nhưng cũng nêu lên quan ngại của nhiều người và của cá nhân ông:

“Theo tôi, nếu không có chuyện Trung Quốc áp đặt bằng vũ lực ở Hoàng Sa đó thì có khi lại không đặt vấn đề ra, và các nước như Cộng đồng chung Châu Âu đó thì họ cũng có sự hợp tác rất là chặt chẽ, nhưng mà chủ quyền của nước nào, và văn hóa của nước nào họ vẫn tôn trọng. Hàng rào có thể bỏ đi nhưng tôi thấy là các nước từ nước Pháp qua nước Đức và các nước còn lại thì tôi thấy chủ quyền của mỗi nước vẫn được tôn trọng..”

Nhà sử học nói nhiều người lấy làm lo ngại, và bản thân ông cũng lo ngại nhưng “sau này thì lịch sử viết ra thì mới biết được”.

Bình Luận từ Facebook