Sau Chiến Tranh Nha Phiến thất bại, Trung Quốc có ý định dựa vào Việt Nam (phần 1)

Hồ Bạch Thảo

19-12-2017

1. Vua Đạo Quang mưu tìm viện trợ từ Việt Nam

Sau khi nha phiến bị Tổng đốc Lâm Tắc Từ tịch thu và thiêu huỷ tại Quảng Châu [Quảng Đông], chính phủ Anh quyết định dùng vũ lực. Tháng 6/1840 quân Anh từ Hảo Vọng Giác [Cape of good hope], mang 16 chiếc quân hạm, 4 thuyền máy vũ trang, 28 thuyền vận tải, 4.000 quân thủy bộ đến vùng biển Quảng Ðông. Chiến lược của quân Anh là gây áp lực tại phương bắc, khiến cho Thanh đình mau bị khuất phục; cho nên không đánh Quảng Châu, chỉ phong tỏa mà thôi. Khi qua Hạ Môn [ Xiamen, Phúc Kiến] có sự xung đột, một số pháo đài phòng thủ bị hủy, quân lính thương vong trên 20 người, riêng quân Anh cũng bị tổn thất. Vào tháng 7, chiến hạm Anh đến Ðịnh Hải [Dinghai, Chiết Giang] phụ cận Ðan Sơn, hẹn cho quan địa phương trong 1 giờ phải giao nạp thành trì và pháo đài. Ngày thứ 2 đánh chiếm Ðịnh Hải. Quân Anh dùng Ðịnh Hải làm cơ sở, kế tục tiến về phía bắc, xuất hiện tại vùng cửa khẩu Bạch Hà [Ðại Cô, Thiên Tân] gần kinh đô, để làm áp lực với triều đình nhà Thanh.

Trong tình trạng tuyệt vọng, hết đường xoay xở; vua Đạo Quang và đám quần thần nghĩ đến việc cầu viện từ Việt Nam. Sở dĩ họ có ý nghĩ đó, vì trong sử sách Trung Quốc từng ghi chép việc quân Việt Nam đánh bại thuyền Anh; lại nhân một thương gia Việt Nam đi đòi nợ tại Quảng Đông, làm tờ trình rằng nước y thuyền súng lợi hại hơn quân Anh; nếu Thiên tử gửi văn thư sang yêu cầu, vua y sẽ sẵn sàng giúp. Trước khi thực hiện việc yêu cầu, vua Đạo Quang gửi chỉ dụ cho Tổng Đốc Quảng Đông Kỳ Cống (1) lệnh điều tra về thực lực Việt Nam; nguyên văn chỉ dụ và lời tâu của viên Tổng đốc như sau:

“Ngày 18 tháng 8 năm Đạo Quang thứ 21 [2/10/1841] phụng nhận chỉ dụ của Thiên tử rằng:

Trẫm nghe tin lúc Di Anh Cát Lợi tại Quảng Đông quấy nhiễu; bấy giờ một dân buôn Việt Nam có lời rằng Di Anh làm loạn thiên thường, mang binh xâm phạm; lại nói nước y giỏi chế thuyền pháo, công việc hoàn thành mau, các loại hoả khí (2) tinh xảo hơn Anh Cát Lợi chế, nếu có hịch văn ban cho, nước này sẽ thuận tình ra sức.

Di phản nghịch gần đây mấy lần hoành hành quấy phá, tất phải tìm cách trừng phạt mạnh; Việt Nam có hay không là nước làm cho bọn nghịch này sợ hãi; thuyền pháo hoả khí có khả năng chế ngự vận mệnh của Di Anh hay không? Lời nói rằng ra sức cung thuận phải chăng thốt ra từ lòng chí thành, hay có mưu đồ gì khác? Nay ra lệnh cho Kỳ Cống, Lương Chương Cự [Tuần phủ Quảng Đông] điều tra mật, do thám một cách đích xác. Lại sau khi tiếp nhận dụ, hãy thông tri mật cho Tuần phủ Quảng Tây, Chu Chi Kỳ, cùng thám thính điều tra, rồi cứ sự thực tâu đầy đủ. Sự việc trọng đại, không được hàm hồ; lại cẩn thận đừng để tiết lậu, đó là điều hết sức quan trọng. Nay ban mật dụ để hay biết.”

Bọn thần tuân lệnh điều tra việc này: Trước đây vào tháng 4 năm nay có người Việt Nam tên là Nguyễn Đắc Hồng [阮得烘], tại nha môn của thần, Kỳ Cống, thưa kiện chủ thuyền tại huyện Tân Hội [tỉnh Quảng Đông] bọn Lương Phiên Huy, về việc mấy năm trước thuyền bị gió bão phiêu dạt tới An Nam, chìm cả hàng hoá; bèn mượn Đắc Hồng tiền mua hàng; nay y đến Quảng Đông đòi lại số tiền chưa trả. Lời khẩn trình xin hoàn lại tiền, bèn sai huyện cật vấn; bọn Lương Phiên Huy công nhận tiền thiếu có thực, và lập tức giao trả.

Lúc Nguyễn Đắc Hồng tại tỉnh chờ để lấy nợ, tại nha môn ty Niết [ty Án sát] có trình một văn thư trong đó đề cập những lời rằng: y tại Quảng Đông thấy bọn Di Anh hoành hành, chúng tự thị thuyền chắc, súng lợi hại; nên chiến thuyền xứ này không thể địch. Nước y chế tạo thuyền tương đối chắc bền, dùng bọn quỉ Tây Dương Cam Lộ [甘露鬼子] (3) lái. Nếu như Trung Quốc cấp cho Quốc vương y văn thư, đáng sẽ chế tạo giúp, chỉ 400 lạng vàng có thể tạo được một chiếc. Lại bảo nước y và nước Anh gần đây không có hiềm khích; bởi vậy việc này cần bảo mật.

Bọn thần tra hỏi biết rằng Việt Nam tuy sản xuất được gỗ, nếu muốn chế tạo một thuyền lớn chắc bền, thì mấy trăm lạng vàng không thể đủ; huống nước đó lại không có người lái. Trước đây Tổng đốc Lâm Tắc Từ đã phỏng theo kiểu Việt Nam chế thành 4 chiếc Loát thuyền, nhưng không thể dùng được trong cảng, cũng như ngoài biển, đó là chứng minh rõ ràng. Lại tra Nguyễn Đắc Hồng, đi ra nước ngoài buôn bán không định kỳ, năm nay một mình đến Quảng Đông, y trú tại Việt Nam bất thường, sợ không phải là kẻ yên phận; xét tình hình, chỉ tìm cách lấy tiền thiếu gấp, chứ không có ý khác. Điều y bảo là Quốc vương nước y có thể chế tạo giúp thuyền, thì cũng không biết thực sự ý viên Quốc vương thế nào. Bọn thần cho rằng sự việc liên quan đến Di nước ngoài, không dám mạo muội, đợi tiếp tục tra hỏi liệu biện. Mới đây cứ huyện Tân Hội bẩm báo, sau khi số tiền thiếu trả xong, đã ra lệnh cho Nguyễn Đắc Hồng trở về nước. Nay phụng chỉ dụ cho điều tra, đáng lập tức báo tin cho Tuần phủ Quảng Tây Chu Chi Kỳ nhất thể tra khám xác thực. Một mặt bọn thần bí mật dò xét hạch hỏi, điều tra rõ những việc như Việt Nam đối với Thiên triều từ lâu tự cho là cung thuận; lại nghe rằng trước đây từng đánh bại quân Anh, đến nay hai nước không xâm phạm; sự việc thấy trong sách vào năm Gia Khánh thứ 13 [1808], đến nay đã trên 30 năm. Nay Di Anh ngày một mạnh và ngang ngược, lại không nghe tin tái giao chiến với Việt Nam; nên chưa nghe việc Di Anh sợ hãi Việt Nam. Còn việc thuyền pháo Việt Nam bền bỉ lợi hại hay không, Quảng Đông cách Việt Nam xa, nhất thời khó có bằng cứ đích xác. Xin để cho bọn thần thám thính dò hỏi một lần nữa xem nước này thuyền pháo hoả khí có chế tạo hơn Anh hay không, viên Quốc vương có lòng chí thành thuận thảo hay không, sẽ đặt kế hoạch điều tra mật, do thám một cách chính xác; cùng đợi Tuần phủ Quảng Tây ở gần tra hỏi được thực tình; khi đó nắm được tin tức sẽ tâu lên đầy đủ.”

[道光二十一年八月十八日,奉上諭,朕聞英吉利逆夷在粵滋擾,有越南國貿易人,聲言英夷悖亂天常,稱兵犯順,並雲彼國善製船炮,工且迅速,各項火器精於英吉利所為,若有文檄與之,彼國自能效順等語。逆夷近日疊肆猖獗,必應設法大加懲創,越南是否素為該逆所最畏,船炮火器,是否能製英夷之命,其願為效順之語,果否出於至誠,抑係別有所圖。著祁貢梁章钜確探密查,並於接奏後密行知廣西巡撫周之琦一體查探,據實具奏。事關重大,毋稍含混,亦慎勿泄漏,是為至要。將此密諭知之。臣等遵查此事,先於本年四月間有越南國人阮得烘,在臣祁貢衙門呈控新會縣船行梁潘輝等,於數年前,失風漂至越南,打沈船貨,向伊借銀買帶貨物,今來粵追討未償。呈懇追還等語,隨飭縣傳訊,梁潘輝等供認,欠銀屬實,即行措交。阮得烘在省守候追欠之時,復在臬司衙門呈遞一紙,內稱伊在粵見英夷如此猖獗,不過恃船堅炮利,本處戰船力不能敵。該國所造之船,頗為堅厚,皆係甘露鬼子駕駛。如中國給該國王文書,當可代造,不過四百金即造一隻。並稱該國與英夷近無嫌隙,事宜機密等語。臣等隨訪查越南雖素產木植,若造一堅厚大船,亦非數百金所能辦,即造成該船式樣,本地無人駕駛。前督臣林則徐仿照越南製成軋船四隻,內港外洋均不可用,是其明征。又查阮得烘不時外出貿易,本年隻身來粵,並不常住越南,恐非安分之徒,揆其情詞,不過冀懇速為追欠,似無別意。其所稱該國可代造船隻之語,該國王並不知曉。臣等以事關外夷,未敢冒昧,俟再訪查辦理,旋據新會縣稟報,欠項全數交清給領,即飭令阮得烘回國。茲奉諭旨飭查,當即一面飛行廣西撫臣周之琦,一體確實查探,臣等一面密為商核。查越南之於天朝,久稱恭順,聞昔曾戰敗英夷之師,至今兩不侵犯,此特見之前人說部,係嘉慶十三年之事,迄今已閱三十餘年。英夷日見強肆,且與越南未再交兵,故未聞有英夷畏懼越南之語。至其船炮之堅利與否,廣東距越南較遠,一時難得確據。容臣等再為探訪,該國船炮火器果否精於英夷所為,該國王有無至誠效順之意,逐一設法確探密查,並俟廣西撫臣就近查訪實情,是否可行,移知到日,另行具奏。] (4)

Sau khi nhận được tờ tâu của Tổng đốc Quảng Đông, vua Đạo Quang lại đốc thúc đìều tra rõ về tình hình binh thuyền tại Việt Nam. Viên Tổng đốc tuy không tin rằng Việt Nam có thực lực vượt trội Anh quốc, nhưng cũng không dám quyết đoán, chỉ dựa vào lời khai của một số nhân chứng như sau:

“Ngày 15 tháng 10 [27/11/1841] chiếu theo chữ ký của Quân cơ đại thần, phụng lời dụ của Thiên tử:

Bọn Kỳ Cống gửi tờ tâu nội dung: Tuân tra người Việt Nam tên là Nguyễn Đắc Hồng tại Quảng Đông chờ lấy tiền nợ; từng tại nha môn ty Niết trình bày rằng Di Anh Cát Lợi ngang ngược, tự thị thuyền chắc pháo súng lợi hại; lại nói nước y chế thuyền pháo cũng khá chắc bền, nếu như Trung Quốc cấp cho Quốc vương y văn thư, nước này sẽ thuận tình chế tạo. Xét về lời trình bày, bất quá nói cho vừa lòng để lấy tiền thiếu; hiện tại tiền nợ trả xong, đã ra lệnh trở về nước. Còn nước này thuyền pháo có kiên cố sắc bén hay không, thì đang còn tra khám; Quảng Đông cách Việt Nam xa xôi, nhất thời chưa có bằng cứ đích xác. Những lời này liên quan đến tình hình thực tại; lệnh Kỳ Cống, Lương Chương Cự đích xác điều tra dò hỏi thêm về việc thuyền pháo hoả khí nước này có tinh xảo hơn nghịch tặc Anh chế tạo hay không? Viên Quốc vương có lòng chí thành cung thuận không? Hãy tìm cách dò thăm xác thực, rồi lập tức tâu lên. Khâm thử!”

Bọn thần cho rằng việc này quan hệ trọng đại, cần phải điều tra rõ ràng, không dám tô vẽ hư cấu chút nào. Nhân nghĩ rằng viên Tri châu Khâm, Hoàng Đình Nghi, quê quán tại Long Châu [ biên giới Việt Hoa] Quảng Tây; lúc tại quê chắc có nghe biết. Hơn nữa địa phương châu Khâm tiếp giáp với Việt Nam, ở gần tra hỏi dễ biết được sự thực. Bèn lập tức đem những lời dân Di Việt Nam, Nguyễn Đắc Hồng, trình bẩm tại tỉnh thành; nghiêm mật sức viên Tri châu hỏi tra cho rõ. Một mặt bọn thần hội đồng tuỳ lúc mật hỏi những người như Chu Ngạn Tài người dân tại huyện Thuận Đức thường đến Việt Nam buôn bán; cùng người dân huyện Quỳnh Sơn họ Trần hiện ở tại tỉnh thành, để tra vấn cho rõ hơn.

Cứ Chu Ngạn Tài khai qua miệng vào tháng 8 năm nay y mới trở về nhà; cho biết Việt Nam hiện tại nghe tin Di Anh gây sự, cũng lo chuẩn bị, tạo thêm chiến thuyền khoảng 7, 8 chiếc. Mỗi thuyền có 3 cột buồm, hơn 40 mái chèo, dùng gỗ dài ván thẳng, thân thuyền làm bằng gỗ cứng, dày 6, 7 tấc [1 tấc=.032 mét] hoặc 7, 8 tấc không chừng; lại phỏng tạo hơn 10 chiếc, kiểu thuyền buôn Tân Châu? [Hạ Châu tức Singapore] (5) thuộc quốc nước Anh; cũng dùng gỗ cứng chế tạo, có dư chắc chắn, nhưng kém linh động. Nước này có ít pháo đồng, riêng pháo sắt cũng không nhiều; lấy nông dân làm binh, lúc cần thì điều động, đánh nhau phần nhiều dùng voi để tranh thắng; có khả năng về đánh trên bộ, không rành thuỷ chiến. Từ đô thành ra biển lớn hơn 30 lý [1 lý=.576 km]; các thuyền buôn ngoại quốc nếu đến nước này, hai bên thương nghị rõ ràng tại cảng khẩu, đem súng pháo các thuyền ngoại quốc để tại bờ giữ dùm, đợi lúc thuyền ra thì trả lại. Xem ra Việt Nam từ trước tới nay sợ các nước đến gây chuyện, chứ chưa nghe chuyện bọn phản nghịch Anh sợ Việt Nam. Hỏi người họ Trần, thì đại lược tương đồng.

Lại hỏi viên pháo thủ Lâm Cửu mới mộ vào hương dõng, viên này trước đây bị Trương Bảo (6) dụ theo, sau được chiêu hồi làm dân lương thiện, từng giúp Trương Bảo đánh nhau với Việt Nam, nên có thể biết được chi tiết. Bèn ra lệnh thân sĩ đáng tin cậy coi về hương dõng mật tra hỏi, y bảo rằng Việt Nam có chiến thuyền tên là Kim Giải, Ngân Giải, giống như thuyền buôn Thiên Tân [Bắc Kinh] thường đến Quảng Đông; chắc bền nhưng không sử dụng nhanh; ở trong sông thì có thuyền Nha Xoa nỗi tiếng, dài hơn 10 trượng [ 1 trượng=3.45 mét], rộng 2 trượng, 100 mái chèo, nhanh chậm tuỳ theo gió; từng bị Trương Bảo đánh chìm mấy chiếc, xem ra khó có thể đối địch với Di Anh.

Lại theo lời bẩm của Tri châu Khâm Hoàng Đình Nghi, quê y tại địa phương Long Châu, và địa phương trách nhiệm châu Khâm đều ở phía đông bắc, liền với Việt Nam; duy chỉ cách vùng Phú Xuân nơi viên Quốc vương trú đóng hơn 2.000 lý, việc phòng biển chế tạo thuyền chưa có thể hiểu kỹ. Thường ngày được nghe nước này đã chế 2 chiếc đại sư thuyền tuần dương, lệnh cư dân hợp lực chọn gỗ lớn cứng tốt tại miền phụ cận, chế tạo xong lấy đồng bao dưới đáy, nên gọi là đồng bì thuyền, ước có thể chở hơn 200 người đến 300 người. Loại thuyền này vật liệu tuy kiên cố, nhưng chậm chạp không linh động. Ngoài ra còn có binh thuyền nhỏ tuần dương, phần lớn dùng cây mây đan thành, tục gọi là đằng thuyền; chỉ có thể chở 2, 3 chục người, hoặc 4, 5 chục người. Thuyền này di chuyển tương đối tiện, nhưng gặp gió bão, đụng đá có thể bị phá tan. Trước đây viên Quốc vương sai quan chế tạo thuyền, chiếc lớn mất đến mấy tháng, chiếc nhỏ hơn 1 tháng mới xong; nguyên liệu gỗ tuy nhiều, nhưng thợ làm thì không nhanh được. Lại tra vào khoảng năm Đạo Quang thứ 20 [1840], binh thuyền của viên quan Di Nguyễn Đình Hào, gặp gió chìm tại Nhai Châu [đảo Hải Nam], kéo đến châu Khâm, đưa trở về nước; lặn lấy được 3 cỗ pháo đồng, 1 cỗ nặng hơn 80 cân [1 cân=.590 kg], 1 cỗ hơn 50 cân, 1 cỗ chỉ hơn 30 cân, thức dạng tương tự với súng Quá sơn điểu thương của nội địa. Lại nghe Việt Nam biết tin Di Anh gây chuyện, cũng lo bị quấy nhiễu biên giới nên chuẩn bị phòng thủ, từ mùa đông năm ngoái nước này tạo thêm chiến thuyền, đến nay vẫn chưa làm xong; thường sai người thám thính tin tức về nghịch Anh, cùng tìm xem tài liệu về việc này. Khoảng năm Đạo Quang thứ 12, 13 [1832, 1833] một tên gian dân nước này là Trần Gia Hải cấu kết với bọn phỉ nội địa Dương Tựu Phú tại núi Cẩu Đầu [tỉnh Quảng Ninh] thuộc biển Việt Nam tụ tập cướp phá. Nước này kêu rằng binh lực không đủ, nhờ thuyền nội địa đến giúp đánh bắt, mới có thể diệt được tên cừ khôi; có thể thấy thuyền tuần phòng của nước này cũng không đắc lực.

Bọn thần thấy rằng tỉnh Quảng Đông tuy cách Việt Nam tương đối xa, nhưng lần lượt tra hỏi tình hình nước này thì đại lược tương đồng; lại nghĩ nước này đời đời chịu ơn Thiên triều, vốn xưng cung thuận; hiện tại Quốc vương Nguyễn Phúc Toàn [vua Thiệu Trị] mới được nhận sắc phong, càng đáng cảm ơn và mong báo đáp. Nếu như nước này thuyền chắc súng pháo lợi hại, binh lực tinh cường, xét lý không thể không đưa hết lòng thành ra báo đáp; nhưng viên Quốc vương chưa có biểu văn trần tình, cũng không trình khẩn với Tổng đốc Tuần phủ để tâu lên, là do lực bất tòng tâm, có thể thấy được không đủ sức gây khó khăn cho Di Anh vậy. Ngoại trừ Tuần phủ Quảng Tây Chu Chi Kỳ ở gần tra hỏi một cách xác thực có lời tâu riêng; bọn thần hội đồng điều tra mật đầu đuôi, cùng tâu đầy đủ.”

[十月十五日承準軍機大臣字寄,奉上諭,祁貢等馳奏遵查越南國人阮得烘在粵守候追欠,曾於臬司衙門呈稱英夷猖獗,專恃船堅炮利,該國所造之船頗為堅厚,如中國給該國王文書,即可代造,揆其情詞,不過冀懇追欠。現在欠項全清,已經飭令回國。至該國之船炮果否堅利,尚須查探等語,廣東距越南較遠,一時難得確據,自係實在情形。著祁貢梁章钜確加查訪,該國船炮火器是否精於英逆所為,該國王有無至誠效順之意,逐一設法探詢確實,即行奏聞,欽此。臣等以此事所關重大,必須查探明確,不敢稍有虛飾,因思現在欽州知州黃定宜,籍隸廣西龍州,其在籍時應有所聞。而欽州地方,又與越南接壤,就近查訪亦易得實,當即據越南夷人阮得烘前在省城所稟之言,一面嚴密飭行該州詳加訪察,一面會同隨時密訪,有常往越南貿易之順德縣民人周彥才,及瓊山縣民人陳姓,現在省城,詳加詢問。據周彥才口稱,本年八月伊甫自越南起身回家,越南現因英夷滋事,亦隨時警備,約造有戰船七八隻,每船三桅,四十餘槳,船用長木直板,船身則以硬木為之,厚五六寸,或七八寸不等,又另有仿造英吉利之屬國新洲貨船約十餘號,亦用硬木製造,皆堅重有餘,而靈動不足。該國銅炮頗少,鐵炮亦不甚大,又該國寓兵於農,其打仗多以象力取勝。但能陸戰而不善水戰。該國由都城出港三十餘里,始為大海,各外國貨船如至該國,議明入港後,該國先將各國船中炮械搬至岸上,代為看守,俟出港時送還。看來越南向恐各國在其本國滋事,並未聞英逆有畏懼越南之說。訪之陳姓所言,亦大略相同。又訪聞現募鄉勇中有炮手林九,其人從前曾被張保招去,後經改過投回,復為良民,曾幫張保與越南打仗,必知底細,隨令管帶鄉勇之可靠紳士密向查詢。據稱越南戰船有金蟹銀蟹之名,如天津來粵貨船式樣,堅牢而不能快駛,其內河船有名牙釵者,長十餘丈,闊二丈,槳百枝亦看風勢為遲速。曾被張保打沉數隻,看來難與英夷對敵等語。又據欽州知州黃定宜稟稱,本籍龍州地方,與現任之欽州,均與越南之東北境毗連。惟距該國王駐紮之富春地方,尚有二千餘里,其海防船隻製作未能深悉。就平日傳聞該國向製巡洋大師船二隻,悉令附近居民合力探取堅巨大木,輸納成造以銅包底,故俗呼為銅皮船,約可載二百餘人至三百人不等。此項船隻,料件雖堅,滯笨不靈,此外復有巡洋小兵船,多用藤篾穿紥而成,俗名藤船,止可坐二三十人或四五十人。其船行駛較便,第遭風撞礁,即行破散,前此該國王令夷官修造巡船,大者幾及數月,小者亦幾一月始竣,是木料雖多,而工匠未見迅速。且查道光二十年間,該國夷目阮廷豪等兵船,在崖州洋面遭風沉船,遞至欽州,轉送回國有撈獲銅炮三位,一重八十餘斤,一五十餘斤,一止三十餘斤。式樣與內地過山鳥槍相似,又聞越南現聞英夷滋事,亦慮擾其邊地,修備防守,該國自去冬添造戰船,至今尚未畢工。時時托人探聽英逆消息等語,又檢閱檔案。道光十二三年間,該國奸民陳加海糾結內地遊匪楊就富等,在夷洋狗頭山嘯聚劫掠,曾經該國以兵力不足,請內地舟師前往幫捕,始能殲厥渠魁,可見該國巡船並不得力。臣等查廣東省雖距越南稍遠,然該國情形節次訪查,大略相同,伏思該國世受天恩,素稱恭順,現在國王阮福旋新受敕封,尤當感恩圖報。如果該國船堅炮利,兵力精強,斷無不竭誠報效之理,而該國王並未表文陳請,亦未呈懇督撫據情奏,其為力不從心,未能與英夷為難已可想見。除由廣西撫臣周之琦就近查訪確實另奏外,所有臣等會同密訪緣由,理合先行具奏] (7)

Tiến sĩ Nguỵ Nguyên, bạn củaTổng đốc Lâm Tắc Từ; Tổng đốc Lâm là nhà ái quốc đời Thanh, từng ra lệnh thiêu huỷ trên 20 ngàn rương nha phiến của thương gia Anh tại Hỗ Môn, Quảng Châu vào năm 1839. Viên Tổng đốc còn cho sưu tầm nhiều tài liệu liên quan đến các nước Tây Phương; sau đó giao cho Nguỵ Nguyên, để soạn nên bộ sách nỗi tiếng 100 quyển, nhan đề Hải Quốc Đồ Chí 海國圖志]. Trong sách này, Nguỵ Nguyên phê bình ý kiến của Chu Ngạn Tài khai trong đạo dụ của vua Đạo Quang với lập luận như sau:

Việt Nam 2 lần đánh bại Di Anh đều dụ thuyền chúng thâm nhập vào trong sông, rồi dùng thuyền nhỏ vây, đánh thắng. Loát thuyền Việt Nam phá địch, được ghi tại mục Tứ di môn trong Hoàng Thanh Thông Khảo, chứ không phải chỉ là chuyện tiểu thuyết. Lại thấy việc này trong Tứ Châu Chí (8) ghi những điều Di Anh soạn; đó là công luận trong lòng địch, tức có sự thực, không phải là lời khoa trương truyền thuyết. Bảo rằng Việt Nam không có sở trường trên đại dương, nhưng có sở trường trong sông thì đúng; còn bảo Việt Nam sở trường đánh trên bộ mà không sở trường thuỷ chiến thì không đúng.”

[按:越南兩次擊敗英夷,皆誘其深入內河,而後以小船環攻勝之,非以馳逐大洋角勝也。越南軋船破敵見於《皇清通考》,四夷門並非說部,又見於英夷所撰之《四洲志》。則敵國公論,必得其實,非誇張傳說之詞。謂越南不長於大洋而長於內河,則可謂越南長於陸戰而不長水不可 ] (9)

***

Qua sự kiện nêu trên, thấy rằng vua Đạo Quang không phải chỉ căn cứ lời nói ba hoa của anh chàng lái buôn đi đòi nợ, rồi hồ đồ ban 2 mật dụ tìm hiểu tình hình binh lực Việt Nam. Nước ta dưới thời nhà Nguyễn kể từ đời Minh Mệnh trở về trước, đã lập được võ công, được ghi chép trong sử sách nước ngoài; nên khi nhà Thanh bị thế lực Tây Phương khống chế, ngay trong buổi tuyệt vọng, đầu óc vị Hoàng đế Trung Quốc loé lên tia hy vọng mong nhận được sự giúp đỡ từ Việt Nam.

___

Chú thích:

1. Kì Cống [1777-1844]: người tỉnh Sơn Tây, năm 21 tuổi đậu Tiến sĩ. Sau khi chiến tranh nha phiến bạo phát, từng được phái đến Quảng Đông đốc biện lương hướng, sau đó giữ chức Tổng đốc Lưỡng Quảng.

2. Hoả khí: súng đạn.

3. Quỉ tử: tiếng kỳ thị dùng để gọi người Âu Châu lúc bấy giờ; riêng Cam Lộ thì không biết tên riêng gọi nước nào.

4. Nguỵ Nguyên, Hải Quốc Đồ Chí, quyển 7.

5. Tân Châu: đây có thể lầm với Hạ Châu tức Singapore, thuộc địa của Anh lúc bấy giờ. Riêng sử Trung Quốc gọi Tân Châu là Qui Nhơn, Việt Nam.

6. Trương Bảo: [1783-1822]: người huyện Tân Hội, Quảng Đông. Lúc đầu làm cướp biển, sau trở về làm quan cho nhà Thanh đến chức Thuỷ sư.

7. Nguỵ Nguyên, Hải Quốc Đồ Chí, quyển 7.

8. Tứ Châu Chí: Với chủ trương học Di phương Tây để đánh Di phương Tây, Tổng đốc Lâm Tắc Từ cho dịch các tư liệu Tây phương gộp lại vào quyển sách nhan đề “Tứ Châu Chí”; tứ châu tức châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ; bấy giờ chưa có tên châu Úc.

9. Nguỵ Nguyên, Hải Quốc Đồ Chí, quyển 7.

Bình Luận từ Facebook