Tương lai của Đảng Cộng sản và Dân tộc Việt (Phần 2)

Nguyễn Đình Cống

18-1-2023

Tiếp theo phần 1

III. Một số đề xuất của tác giả

Xin trở lại với đầu đề bài này: Tương Lai của Đảng Cộng Sản và Dân Tộc Việt.

Tôi tự nhận là một trí thức của Dân, thuộc bên B, một người phản biện, từng vạch ra những sai lầm từ gốc của CNML và một vài chủ trương đường lối của Đảng CSVN. Khi tôi tách Đảng khỏi Dân tộc và vạch ra mâu thuẫn giữa hai bên, chắc sẽ bị nhiều người bên A phản đối và xỉ vả vì họ đã quen với việc đặt Đảng trùm lên Dân tộc, rằng mọi thứ trên đất nước này đều là của Đảng. Họ cho rằng câu hỏi Việt Nam sẽ phát triển theo con đường nào là quá ngớ ngẩn, vì đã có Nghị quyết của đại hội 13. Bên A cho rằng đó là con đường duy nhất đúng, nhưng tôi lại cho rằng có những nhầm lẫn.

Nghị quyết Đại hội 13 mới đọc qua thì thấy đúng, thấy hay, nhưng đọc kỹ với tinh thần phản biện mới phát hiện ra những bất cập và ngụy biện. Vừa đưa nó vào cuộc sống mới được hơn một năm mà xã hội đã gặp biết bao nhiêu bê bối, thảm họa, như Lê Thân đã viết ra một phần trong bài “Việt Nam chọn con đường nào”. Đành rằng không phải Nghị quyết Đại hội 13 trực tiếp gây ra những thảm họa đó, mà chỉ chứng tỏ NQ không có tác dụng gì trong việc phòng ngừa, ngăn chặn thảm họa và suy sụp.

Đầu tiên là việc đánh giá thực trạng của đất nước sau hơn ba chục năm đổi mới. Tuy rằng đề ra phương châm, khẩu hiệu “nhìn thẳng vào sự thật”, nhưng hình như chỉ nhìn bằng một con mắt chột, nên chỉ thấy được những nơi có ánh sáng phát ra, nghĩa là chỉ thấy một phần sự thật, mà một phần sự thật nhiều khi là dối trá, nếu vô tình dùng nó. Còn nếu cố ý chọn nó để dùng thì chắc chắn là dối trá.

Cách viết của NQ về các lĩnh vực thường theo mẫu như sau: Về lĩnh vực này chúng ta đã đạt các thành tích A, B, C, D, tuy vậy cũng còn phạm phải vài thiếu sót U, V, X, Y. Nguyên nhân của thành tích là sự sáng suốt của lãnh đạo, nguyên nhân của thiếu sót là H, K, L, mà chỉ là bên ngoài, dễ thấy, còn nguyên nhân cơ bản thì cố tình che giấu hoặc không tìm thấy.

Thực trạng đã không được đánh giá đúng, lại dựa vào nó mà vạch đường lối thì chủ yếu là lạc đường. Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội 13 thì trước mắt và cho đến năm 2050, Việt Nam vẫn tập trung phát triển kinh tế. Liệu có phát triển được nền kinh tế tri thức không, hay chỉ tiếp tục con đường hiện nay (gia công, bán sức lao động, phụ thuộc vào FDI, tàn phá môi trường…). Nếu vẫn như thế, thì theo tôi, đã phạm sai lầm về đường lối. Tại sao lại như vậy?

Mỗi người có cuộc sống vật chất liên quan đến kinh tế và cuộc sống tinh thần liên quan đến bản chất văn hóa. Bản chất này là hồn cốt của dân tộc, khác hoàn toàn với các hoạt động do Bộ Văn hóa quản lý.

Khi người ta rơi vào tình trạng đói khổ thì ưu tiên phát triển kinh tế là đúng và cấp thiết, nhưng khi đã tạm đủ ăn, đủ mặc, thì đồng thời với kinh tế cần xây dựng đời sống văn hóa tốt đẹp, và đến khi xã hội bước vào phát triển thì cần đề cao đời sống văn hóa và tinh thần.

Đời sống văn hóa được dẫn dắt bởi tầng lớp tinh hoa của xã hội. Một xã hội sẽ gần với bán khai khi thiếu vắng tầng lớp tinh hoa, thế mà ở VN tầng lớp đó đang lụi tàn, mà nguyên nhân chủ yếu là lãnh đạo đất nước mắc vào âm mưu thâm độc của Trung Cộng trong việc trừ bỏ tinh hoa của dân tộc Việt để dễ bề biến người Việt thành tay sai, dễ bề bành trướng, xâm lược. Thủ đoạn chính trong việc này là gán cho những phần tử tinh hoa tội “lợi dụng tự do dân chủ” chống đối chính quyền, rồi giam cầm họ, trừ khử họ.

Mác đã sai khi tôn sùng học thuyết duy vật, đề lên quá cao vai trò của vật chất, từ đó kéo theo việc tranh đoạt quyền lợi vất chất, dùng chỉ tiêu kinh tế để đánh giá thứ hạng của đất nước. Ông Nguyễn Phú Trọng mơ ước, đến năm 2045, Việt Nam sẽ đạt được mức này mức kia thì cũng đều thuộc cuộc sống vất chất.

Để tỏ ra cũng quan tâm đến văn hóa, vào tháng 11 năm 2021, Đảng tổ chức Hội nghị Diên Hồng về văn hóa khá rầm rộ, nhưng nhiều người, kể cả lãnh đạo cấp cao đã nhầm mà trộn lẫn Bản chất văn hóa là hồn cốt của dân tộc với các hoạt động do Bộ Văn hóa quản lý như xuất bản, biểu diễn, triển lãm, hội hè v.v… Trong lúc làm các hoạt động văn hóa thì lại để cho bản chất văn hóa bị thoái hóa, đời sống tinh thần bị đẩy vào các tai họa, đạo đức bị xuống cấp. Sau một hồi trống rền vang ở Hội nghị Diên Hồng về văn hóa, đã xảy ra tình trạng “đánh trống bỏ dùi”. Bản chất văn hóa bị nhấn chìm, bị quên lãng trong các hoạt động kinh tế thăng trầm và náo loạn, trong những lo toan đến thắt ruột về việc làm trong sạch tổ chức và hệ thống chính trị, về việc củng cố độc quyền.

Quan trọng nhất trong bản chất văn hóa nằm trong tình yêu thương, tôn trọng, con người, là lòng tin vào con người, là bảo vệ nhân quyền, mà quan trọng nhất là quyền tự do, bình đẳng, là chống áp đặt, là lòng bao dung và trắc ẩn. Những điều này đã bị cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản làm cho xộc xệch, méo mó, cho rằng đó là văn hóa tư sản cần loại bỏ để xây dựng nền văn hóa cộng sản với việc vạch rõ ranh giới giai cấp, khắc sâu hận thù giữa những người không cùng ý thức hệ, là trấn áp xu hướng đòi nhân quyền, là tiêu diệt những người bất đồng chính kiến, là sự thống nhất tư tưởng để bắt mọi người phải suy nghĩ theo một người v.v… và gọi đó là đạo đức cách mạng.

Một vài nhà tư tưởng cộng sản cực đoan lại đem đạo đức cách mạng đối lại với đạo đức nhân bản, đem văn hóa vô sản do công nông thực thi đối lại với văn hóa truyền thống do tầng lớp tinh hoa (hoặc thượng lưu) chủ trương. Quốc tế ca có lời rằng: Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành.

Văn hóa vô sản là: “Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu/ Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp” (thơ Tố Hữu), là “Tước đoạt của kẻ tước đoạt” và nhiều cách nghĩ, cách làm trái Đạo Trời khác. Nó được thể hiện rất rõ trong cải cách ruộng đất, trong cải tạo công thương nghiệp tư nhân, trong hợp tác xã nông nghiệp và Luật Đất Đai, trong một nền giáo dục đào tạo con người thành công cụ, trong xã hội mà tham nhũng của quan chức và dối trá của mọi người trở nên phổ biến.

Mặc dầu người ta thỉnh thoảng có nhắc đến “phát triển bền vững”, nhưng chỉ nói cho có chuyện. Thực tế sự phát triển của VN gây ra nhiều hủy hoại môi trường vật chất (đất, nước, không khí) và môi trường tinh thần.

Mỗi lần đại hội Đảng, người ta lại đề ra chỉ tiêu này nọ để thảo luận rồi biểu quyết. Đó là cách làm hình thức còn rơi rớt lại từ nền kinh tế và chính trị kế hoạch hóa. Hãy hỏi những người bấm nút đồng ý với chỉ tiêu này nọ, xem họ có hiểu tại sao, ở đâu ra chỉ tiêu đó mà không thể tăng hay giảm. Có khả năng trên 98% người không hiểu, họ bấm nút trong trạng thái vô ý thức, bấm theo một sự chỉ đạo từ trên mà chính người chỉ đạo cũng không hiểu.

Đảng, nhà nước đặt chỉ tiêu phát triển cho các ngành kinh tế là việc đã lỗi thời, gây ra những trạng thái tâm lý giả tạo, lợi bất cập hại.

Một mong ước của người Việt, nghe qua thì rất hay, là động lực, nhưng mong ước quá lại thành ảo tưởng, đó là mong ước được xếp ngang hàng, được sánh vai cùng các cường quốc. Ý này lần đầu tiên được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường năm 1945. Và bây giờ có nhiều người Việt mong ước được như vậy, thể hiện ra ở nhiều việc chạy theo hình thức, tạo thành tích dỏm, mang nặng dối trá, không thực chất. Riêng những lãnh đạo của ĐCSVN còn có mong ước, đảng của họ thành ngọn cờ trong phong trào giải phóng dân tộc, thành tấm gương trung thành bảo vệ CNML. Trong di chúc, lãnh tụ Hồ Chí Minh còn thể hiện lòng mong ước Đảng ta làm được việc đoàn kết các đảng của Nga Xô và Trung Cộng. Ông Nguyễn Văn Linh còn đề nghị với Gorbachev cùng cứu vớt các ĐCS Đông Âu, bảo vệ phe XHCN vào năm 1990. Mong ước của Hồ Chí Minh và đề nghị của ông Linh phải chăng có ẩn ý rằng ĐCSVN có vị thế cao trong hệ thống CS của thế giới?

Thế thì có nên mong ước như vậy không? Theo tôi thì vừa nên, vừa không nên. Rất nên mong ước đến cháy bỏng việc phát triển đất nước cả kinh tế và văn hóa, đặc biệt là phát triển kinh tế bền vững, kinh tế tri thức trên nền tảng văn hóa nhân bản thật sự tốt đẹp, chứ không phát triển kinh tế một cách vội vàng, chụp giựt trên một nền tảng văn hóa vô sản, phản Đạo Trời như đã kể. Mục tiêu chính của phát triển là vì Tự do và Hạnh phúc của toàn dân và của mỗi người. Hãy khôn ngoan, thông minh và cố gắng hết sức có thể. Thế rồi được xếp hạng nào, thứ bậc bao nhiêu là việc của người khác, có thành hổ thành rồng đến đâu là do người ngoài đánh giá.

Không nên quan tâm việc được xếp thứ bậc bao nhiêu, vượt được ai hay không, vì khi mình phát triển thì người ta có dừng lại đâu, mà còn có thể phát triển nhanh hơn. Chỉ có thể đặt mức phấn đấu, sau bao năm nữa đạt đến mức tương đương như A hoặc B bây giờ.

Một số người nêu thí dụ về Singapore và Nam Hàn để nói rằng, VN cũng có khả năng như họ. Tôi tìm hiểu thì trước đây họ không hề đặt mục tiêu thành hổ, thành rồng, không mong ước xếp hạng cao hoặc sánh vai với ai cả. Lãnh đạo dạy dân họ và tạo thể chế để dân phát huy năng lực sáng tạo, rồi được đến đâu hay đến đó. Mà như Nam Hàn và Singapore phát triển kinh tế dựa trên nền tảng văn hóa nhân bản, tránh được những việc làm trái Đạo Trời của cách mạng vô sản theo CNML.

Singapore và Israel là những nước mới thành lập, ban đầu họ đã thảo luận, cân nhắc rất kỹ, thậm chí đấu tranh kịch liệt trong việc chọn đường đi theo Thế Giới Tự Do hay theo Xã Hội Chủ Nghĩa. Kết quả sự lựa chọn của những nhà lãnh đạo của họ là chính xác. Nhân dân không lựa chọn con đường, không lựa chọn thể chế, mà chỉ đi theo một cách tự giác hay bị bắt buộc. Trong nền dân chủ thực sự thì dân chỉ lựa chọn đảng chính trị khi bầu cử. Ai đó nói rằng, nhân dân đã lựa chọn chế độ chính trị là không đúng, mang tính bịa đặt.

Trong sách Một Đời Quản Trị, GS Phan Văn Trường chỉ ra rằng, sự thành đạt của các tập đoàn kinh tế, công nghiệp dù lớn hay bé trên toàn thế giới (hoặc các Công ty) phụ thuộc chủ yếu vào Văn Hóa của tập đoàn (hoặc Công ty) mà văn hóa đó do tầng lớp tinh hoa gây dựng theo phẩm chất cao thượng của người đứng đầu.

Sách “Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại” chỉ ra rằng, thành hay bại là do thể chế. Có thể chế chính trị và thể chế kinh tế với bốn kết hợp:

1) Khi cả hai thể chế đều tốt, hợp Đạo Trời, thuận Lòng Người thì xã hội phát triển, phồn vinh.

2) Khi cả hai đều xấu, trái Đạo Trời, ngược Lòng Người thì tầng lớp thống trị giàu to, quyền lớn, còn nhân dân sẽ chịu thống khổ, xã hội suy tàn.

3) Khi chính trị tốt mà kinh tế xấu thì đời sống tinh thần, văn hóa của xã hội được thuận hòa, vui vẻ, còn đời sống vật chất gặp nhiều khó khăn.

4) Khi chính trị xấu (độc tài, tàn bạo) mà kinh tế tốt thì tuy đời sống vật chất có khá nhưng sự phân hóa giàu nghèo là rất lớn, đời sống tinh thần ngột ngạt, nhân quyền và công lý bị chà đạp, người dân sống trong sợ hãi và bị áp bức, mà kinh tế cũng phát triển không bền vững.

Vào thập niên 70 và 80 Việt Nam rơi vào kết hợp 2. Nhờ hồng phúc của Tổ Tiên mà một số lãnh đạo lúc đó đã nhận ra sai lầm, sửa sai thể chế kinh tế (mà nói chệch thành đổi mới, mở cửa) cứu dân tộc khỏi tai nạn chết đói. Gọi đó là đổi mới lần một về kinh tế. Việc đổi mới này thực chất là làm ngược lại CNML. Dư luận rộng rãi cho rằng, rất cần đổi mới lần hai về chính trị.

Đã từng có những cán bộ cao cấp nghĩ và chuẩn bị cho việc này như Trần Xuân Bách, Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Võ Văn Kiệt, nhưng rồi những người đó chưa thành công mà CS còn bắt bỏ tù ông Chính, khai trừ ông Độ, ông Bách, phản đối ông Kiệt. Phải chăng các ông ấy chưa gặp thời, chưa tạo được thế, đành ôm hận ra đi, như Nguyễn Thái Học với an ủi “Không thành công, chỉ thành nhân”. Phải chăng con người có số mệnh, tác động trong khoảng trăm năm, và như Nguyễn Du nhận xét: “Có Trời mà cũng có Ta”. Có Trời là số mệnh, có Ta là sự nhận thức, tu dưỡng, hành động nhằm tạo phúc đức. Thành công hay thất bại của một con người là do kết hợp giữa số mệnh và sự tu dưỡng cùng hoạt động của người ấy. Và theo tổng kết đáng tin cậy là “Đức năng thắng số”.

Phải chăng Dân tộc cũng có số mệnh như con người, chỉ khác là số mệnh Dân tộc kéo dài rất lâu, đến hàng ngàn, hàng vạn năm. Sự thành bại của một dân tộc là do kết hợp số mệnh với nền văn hóa do dân tộc đó tạo ra, với những hoạt động thực tế tác động đến thiên nhiên và xã hội.

Sau một thời gian dài, gần thế kỷ tồn tại của ĐCSVN, dân tộc Việt đã có những thắng lợi và thất bại, có những cơ sở vật chất và tinh thần được xây dựng và bị hủy hoại. Cũng nên có nghiên cứu, tổng kết để đánh giá tương đối đúng thực trạng thì mới có thể dự báo tương lai, mới có thể vạch đường cho tương lai. Để làm việc này thì phải trung thực, khách quan, không do Đảng chỉ đạo, tránh xa CNML thì mới mong có được kết quả đáng tin cậy.

Diễn tiến lên hay xuống của sự việc có thể là từ từ, từng bước nhỏ kế tiếp hoặc là bước nhảy đột xuất. Cách mạng là một bước nhảy.

Về CS, tôi xem xét ba mức độ: Chủ thuyết, tổ chức đảng và đảng viên. Chủ thuyết CS do Mác đề xướng chứa đựng nhiều sai lầm từ cơ bản, chủ trương làm những việc trái Đạo Trời. Nó đã từng hoành hành, nhờ ngụy biện xảo trá mà lôi cuốn được một số người, nhưng càng ngày càng lộ rõ bản chất tàn bạo và dối trá. Nó không thể cải tạo mà cần đánh đổ, nó không có tương lai. Nó đã bị đa số nhân loại lên án, sớm hay muộn sẽ bị đào thải theo quy luật tự nhiên.

ĐCSVN là một tổ chức, trong điều lệ ghi là “Đội tiên phong của giai cấp”, nhưng đó chỉ là lời rập khuôn sáo vẹt của những người kém trí tuệ. Thực chất, ngay từ đầu ĐCSVN là tổ chức của những người yêu nước, những đảng viên đầu tiên là những con người có phẩm chất cao thượng. Đảng do Nguyễn Ái Quốc lập ra để đấu tranh giành độc lập. Năm 1946, thấy rằng nếu lập đảng khác sẽ tốt hơn nên Hồ Chí Minh đã có ý kiến giải tán ĐCS Đông Dương nhưng rồi lại rút vào bí mật và không hiểu vì sao đã phạm sai lầm khi tuyên bố tự giải tán. Sự dối trá ấy sớm bị phát hiện. Và rồi Đảng càng ngày càng suy thoái do đường lối tổ chức sai, kết nạp vào Đảng nhiều kẻ cơ hội, do vẫn kiên trì CNML có nhiều độc hại.

Tương lai của ĐCSVN có thể theo một trong ba hướng:

Hướng thứ nhất là diễn tiến từ từ với những biện pháp xây dựng đảng như các điều cấm, những nghị quyết về nêu gương, làm trong sạch, với những cái lồng nhốt quyền lực, những việc chống tự diễn biến, tự chuyển hóa, đốt lò, chống tham nhũng v.v… Theo hướng đó thì càng ngày Đảng càng thoái hóa, đi đến sụp đổ, đến cáo chung (như ông Đào Tăng Dực và nhiều người mong ước). Tương lai đen tối dù cho có được Trung Cộng hà hơi tiếp sức.

Kich bản A của hướng này là sự sụp đổ của Trung Cộng sẽ kéo theo sự sụp đổ của Việt Cộng. Trung Cộng thời Tập Cận Bình đang bành trướng mạnh, có thể vượt lên thao túng thế giới trong một thời gian ngắn rồi sụp đổ. Quy luật lịch sử là như vậy.

Kich bản B là bị đánh đổ, đã xảy ra ở vài nước ở Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Bungaria, Đông Đức. Tuy hiện nay ở VN, khả năng này ít có cơ hội vì Trung Cộng đã rút được những bài học đàn áp và huấn luyện cho Việt Cộng để đối phó. Nhưng trong tương lai thì chưa biết được như thế nào.

Hướng thứ hai là, với những đảng viên hiện có, đổi tên đảng (hoặc không đổi cũng được), từ bỏ CNML, thay điều lệ, làm một bước nhảy tiến lên, trở thành một đảng chính trị (xem rằng đã làm xong nhiệm vụ của một đảng cách mạng). Được như vậy thì sẽ có tương lai sáng sủa, có thể cầm quyền lâu dài, được nhân dân tín nhiệm, được lịch sử ghi nhận. Đây là mong ước cứu Đảng của ông Nguyễn Trung và nhiều người cả bên A và B.

Hướng thứ ba là chia đảng làm hai (giống đảng Xã hội Nga năm 1905, chia thành Bolshevik và Menshevik). Kịch bản như sau: Trong các cán bộ cấp cao của Đảng xuất hiện một số người muốn cứu Đảng, muốn cải cách. Họ bí mật trao đổi, vận động để tạo lực lượng ủng hộ trong BCH trung ương, đồng thời phải vận động được sự ủng hộ của một số lực lượng vũ trang và xã hội dân sự. Trong một lần họp BCH Trung ương, một người đề xuất việc đổi mới Đảng theo hướng từ bỏ CNML và đề nghị thảo luận. Có ba trường hợp có thể xảy ra.

Trường hợp 3.1: Hội nghị thảo luận, đấu tranh. Nếu bên cải cách thắng thế thì chuyển sang hướng thứ hai (đã viết ở đoạn trước). Được như thế là hồng phúc cho Đảng và Dân tộc. Đây là trường hợp đã xảy ra ở Mông Cổ, rất nhẹ nhàng, hiệu quả. Một biến thể của trường hợp này là xuất hiện một nhân vật như Gorbachev của Liên Xô.

Trường hợp 3.2: Nếu bên cải cách không thắng thế thì tuyên bố ly khai và lập đảng mới. Ai đồng ý thì đến họp ở một nơi khác để tiến hành. Trong lúc ở Hà Nội xảy ra việc trên thì tìm cách đưa thông tin ra ngoài. Các nơi tổ chức mitting, biểu tình được quần chúng ủng hộ. Đơn vị vũ trang ủng hộ nhanh chóng tiếp cận nơi họp để bảo vệ. Đây là đấu tranh nghị trường trong nội bộ Đảng nhưng phải chuẩn bị chống lại đàn áp, bảo vệ lực lượng.

Trường hợp 3.3: Vì không giữ được bí mật, kế hoạch đã bị lộ, phe bảo thủ đã có chuẩn bi, huy động lực lượng vũ trang trấn áp thì sẽ xảy ra xung đột. Chuyện như vậy cũng thường gặp.

Đảng viên cộng sản, ngoài một số kẻ cơ hội thì cũng còn nhiều người có phẩm chất tốt, hiểu rõ mặt trái của CNML. Một số đông hưu trí bỏ sinh hoạt, số khác lặng lẽ hoặc công khai tuyên bố từ bỏ Đảng. Những người còn ở lại trong Đảng mà dám nghi ngờ CNML thì bị buộc tội tự chuyển biến, tự chuyển hóa, bị ghép chung với bọn mất phẩm chất vì thoái hóa đạo đức, tham nhũng, phạm tội. Trong dân có câu “Người ấy tuy là đảng viên nhưng mà tốt”. Phẩm chất tốt của những đảng viên như vậy không phải nhờ giác ngộ CNML mà đó là nhờ đạo đức nhân bản vốn có của họ từ trước khi vào đảng.

Về tương lai của Dân tộc, phần lớn phụ thuộc vào sự diễn tiến của ĐCS. Nếu Đảng diễn tiến theo hướng bảo thủ, kiên trì CNML để đi tới sụp đổ thì rõ ràng tương lai của Dân tộc và của Đảng là khác nhau, mâu thuẫn nhau. Đảng có thể bị sụp, bị xóa, nhưng Dân tộc thì không thể.

Trong quá trình duy trì sự thống trị, Đảng quan tâm đến phát triển kinh tế và nói đến những điều tốt đẹp về tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân quyền. Người ta tưởng nhầm rằng Đảng rất chăm lo đến đời sống nhân dân. Bên ngoài thấy như thế, nhưng bên trong lại khác. Đảng chăm lo đến kinh tế để nhà nước thu được nhiều thuế, tăng ngân sách. Đó là nguồn sống của Đảng, cũng là nguồn để tham nhũng. Khi nghe nói về tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân quyền, một mặt nên biết đó chỉ là lời tuyên truyền mị dân, mặt khác cần bám vào nó để đấu tranh đòi thực hiện chứ không nói suông.

Khi nói quyền lợi của Dân tộc có lúc mâu thuẫn với quyền lợi của Đảng thì đó không phải là quyền lợi của các đảng viên thường mà là quyền lợi của các cán bộ cấp cao của Đảng. Khi đảng có bị sụp đổ thì các đảng viên thường lại trở về với Dân tộc.

Dưới thời đô hộ của thực dân Pháp, Dân tộc Việt không chỉ chịu cảnh lầm than, bị áp bức mà còn được khai hóa. Nhưng trong thời kỳ độc lập, tự chủ, Dân tộc Việt cũng nhiều lần chịu lầm than vì gặp phải hôn quân bạo chúa như thời Lê Ngọa Triều, thời mạt Lý, mạt Trần, một vài đời vua Lê chúa Trịnh và Trịnh Nguyễn phân tranh.

Nhưng rồi không thể biết vì lý do nào mà lại mắc vào tai họa mấy chục năm chiến tranh tàn phá, huynh đệ tương tàn, rồi tai họa cộng sản với hình tượng “Đuổi hổ cửa trước rước sói cửa sau”. Dẹp được sự áp bức của thực dân lên tầng lớp này thì lại tạo ra áp bức của chuyên chế lên tầng lớp khác, kiểu “Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa” (Áp bức vẫn còn, chỉ thay đối tượng và hình thức).

Suy nghĩ về khả năng tránh được chiến tranh và tai họa của CNML, tôi thấy VN đã bỏ qua một số cơ hội. Việc ĐCSVN chớp được thời cơ vào tháng 8-1945 để cướp chính quyền, đã làm cho Dân tộc Việt bỏ lỡ thời cơ giành độc lập trong hòa bình.

Khi trao đổi với bạn bè, chỉ có ít người đồng ý với tôi là VN có khả năng tránh được tai họa mà vẫn giành được độc lập như nhiều nước cùng cảnh ngộ. Nhưng số đông hơn không đồng ý, cho rằng cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp là không thể nào tránh khỏi và quy hết tội lỗi cho Chính phủ Pháp năm 1945-1946 mà đại diện là Decou và Bolaec.

Phải chăng số mệnh của Dân tộc nó xui ra như vậy. Qua thảo luận giữa nhà văn Nguyên Ngọc và bà Nguyễn Thị Bình (nguyên Phó Chủ tịch nước), thì mầm mống của tai họa bắt đầu từ năm 1920, khi Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu thành lập ĐCS Pháp.

Phải chăng ngoài lý do gần, do con người tạo ra, thì liệu có còn lý do nào thuộc tâm linh. Dân tộc Việt vốn tôn trọng tâm linh, chẳng qua trong thời gian ngắn vì bị tuyên truyền mà theo duy vật và cam chịu thống trị của chuyên chính vô sản, đến độ nền văn hóa truyền thống, nhân bản bị hủy hoại, tầng lớp tinh hoa bị làm cho thoái hóa. Nhưng Dân tộc Việt vốn có sức sống mãnh liệt, tầng lớp tinh hoa sẽ dần được khôi phục để hướng dẫn tạo lập nền văn hóa nhân bản, làm cơ sở cho phát triển mọi mặt.

Không nhanh được thì chậm một chút, cách gì rồi Dân tộc Việt cũng thoát ra được tai họa do CNML gây nên để tạo lập tương lai tươi sáng, đem Tự do, Hạnh phúc cho toàn dân và mỗi người chứ không cần sánh vai với ai, không cần xếp hạng trên nước này, nước nọ, với những con số GDP giả tạo, với những chỉ tiêu duy ý chí, không cần giương cao ngọn cờ dẫn đường cho ai cả, bỏ hết tính kiêu ngạo và sĩ diện muốn hơn người.

Tôi vẫn rất tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc và đang cố gắng đóng góp một phần sức lực và trí tuệ, tuy chỉ rất nhỏ bé, cho tương lai đó.

Bình Luận từ Facebook

7 BÌNH LUẬN

  1. Bổ túc (vô) văn hóa

    “Tôi tự nhận là một trí thức của Dân”

    Bài này có nhiều điểm khá, một trong những điều khá là cuối cùng ố Cống cũng phải thú nhận “Tôi tự nhận”. May quá là bác “tự nhận” (rất) nhiều điều, chứ nếu không, chả ai (dám) chứng nhận cho bác . “tiên thiên”, “tinh hoa”, “lề dân” và hàng tỷ thứ khác, bác tự nhận thì may ra có vài mống trong đám dân xã hội chủ nghĩa chúng chứng nhận cho bác . Gặp phải những kẻ vô học cực đoan như tớ, bác Cống rớt từ vòng gửi xe . Não tớ khá phẳng nên hổng phân biệt được những chi tiết quá nhỏ nhặt như vậy . Bên A & các bác sêm xít in my book.

  2. Để kết lại, tớ trích ố Cống 1 lần nữa

    “Tôi vẫn rất tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc và đang cố gắng đóng góp một phần sức lực và trí tuệ, tuy chỉ rất nhỏ bé, cho tương lai đó”

    Cho tớ ké hy vọng này của ô C. Nếu dân Ta -hổng phải dân Ngụy- nhận thức được -cho phép tớ tin như vậy- rằng chủ nghĩa Mác-Lê & tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là chìa khóa mở cửa vừa là con đường -the red brick road- dẫn tới “tương lai tương sáng của dân tộc”, tất nhiên, các bác, aka hổng phải Ngụy .

    Chỉ có đồng hành với đồng chí, anh em, trở thành 1 bộ phận không thể tách rời của bụi tre từ thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Đồng, Việt Nam mới có thể phát triển .

    Bên này có sayin “Aim fo the sky, anything less would be amazin”. Nguyện vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là phản ảnh tư duy này, chứng tỏ đã đi trước thời đại . Có 2 cách, tái lập lại công thức đã tạo nên “chiến thắng huy hoàng”, và 2, nhất thể hóa . Việt Nam trở thành 1 phần của 1 “cường quốc”. Judging từ những điều như thế này “THÓI QUEN TỰ HẠ THẤP MÌNH VÀ TỰ COI THƯỜNG MÌNH PHẢI BỊ XOÁ BỎ”, có vẻ cách II là thực tế nhất, vì cách I đòi hỏi các bác phải khiêm tốn, học hỏi, which is outta the equation.

    Coi như mình tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tự mình ên phát triển . Đàng nào cũng tới đó, tới sớm vẫn hơn tới muộn . Làm chánh cung vẫn hơn là sủng phi . Unless các bác có nhận định ngược lại .

    Tỷ Lương Dân đại diện cho 3 triệu dân Việt hải ngoại, tớ không dám lộng ngôn, chỉ dám đại diện cho 1 triệu, gồm những người như Trương Nhân Tuấn, Bùi Quang Vơm, Nguyễn Hữu Liêm, Tưởng Năng Tiến, Hoàng Duy Hùng & the likes, mong muốn Đảng Cộng Sản sẽ đưa đất nước đi đúng hướng, không phủ định cũng không phản bội những hy sinh mà dân tộc các bác phải chịu đựng trong công cuộc chống Mỹ & bè lũ tay sai, nền độc tài mà Cao Huy Thuần chống .

    Ngày thống nhất đất nước, nguyện ước duy nhất của tớ là được có mặt để chung vui . Its gonna be super quiet, vì tớ biết đóng góp của mình hoàn toàn không gì có thể so sánh nổi so với những giants như Nguyên Ngọc, Lữ Phương, Huỳnh Tấn Mẫm & the likes. But methink ive earned the rite 2b there, trong ngày hội lớn của hòa giải hòa hợp .

    Addenda. Tình yêu nước của TẤT CẢ những đảng viên đảng Cộng Sản từ xưa tới giờ là không thể phủ định . Yêu nước có nhiều cách, và yêu cách nào cũng đúng cả . Phái Xuyên Quyền Thế Muôn Năm . Chủ nghĩa Mác-Lê đã biến tình yêu nước của họ thành đặc biệt, không thể hiểu theo nghĩa thông thường, nhưng họ yêu nước nevertheless. Yêu nước là yêu Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa, Lê Học Lãnh Vân mong muốn như vậy . Cũng có nghĩa nền độc tài của tư bửn mà các bác đã đánh đổ aint yr cup of tea. Nên nhổ toẹt vào nó là tốt nhứt .

    Đúng, tớ tự nhận mình vô học . Cho tới bi giờ thì có lẽ by choice, nhưng initially, that wasnt the case. Tớ vô học vì học đ vô bô sách của Nhà giáo kiêm nhà văn Phạm Toàn . Just lettin ya know. So, các bác nên thấu cảm mà go easy on me

  3. Tiếp

    Trong bài này, ô C cũng xem văn hóa như là 1 thành tố quan trọng . Và để tạo ra được 1 cú hích thật sự, cần phải chú trọng về văn hóa . Rất hoan nghênh! Chỉ muốn chỉ ra, 1 trong những con én trong văn hóa chính là 1 nhân vật được những người có lương tri cả trong lẫn ngoài nước -Tưởng Năng Tiến- kính trọng & tự hào . The One & Only nhà văn hóa Nguyên Ngọc của chính tụi bay, lộn, các bác . Đúng, văn tài của ổng vẫn còn là chủ đề gây ra nhiều tranh cãi . Bọn vô học, cực đoan -c’est moi- thì xem những tác phẩm như Rừng Xà Lu của ổng là nhất cư, nhưng trí thức cả trong lẫn ngoài nước, Tưởng Năng Tiến, thì khen nức nở . WTF ya know, rite; Xít đv tớ lại là tuyệt cú mèo đv TNT. Nhưng những đóng góp của Nguyên Ngọc cho văn hóa, nhất là cho tuyên giáo, theo Gs Mạc Văn Trang, nếu quên sẽ là lỗi hệ thống . For once, i agreed whole-heartedly. Trích

    “Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh góp phần nâng cao nền tảng tri thức và canh tân văn hóa nước nhà để hòa nhập vào dòng chảy văn minh và tiến bộ của nhân loại”

    Với Nguyên Ngọc cầm chịch, Nguyễn Thị Bình làm influencer & Ts Nguyễn Quang A, chưởng môn phái Xuyên Quyền Thế, là người tài trợ chính, 3 cái tên đó có thể làm kinh hoàng dân Ngụy, nhưng với dân XHCN, là 1 bảo đảm chắc cú cho sự phát triển và vinh danh nền văn hóa cách mạng, văn hóa XHCN. Và Quỹ Văn Hóa Phan Chu Trinh đã không làm cho dân XHCN thất vọng . Đúng, dân Ngụy thì kinh hoàng, nhưng mẹ nó, sợ gì! Dân Ngụy í muh, biết thân biết phận thì im đi . Nhưng đv dân XHCN, Quỹ Văn Hóa Phan Chu Trinh đã trở thành 1 “tiếng thét từ trái tim người Cộng Sản” trong lãnh vực văn hóa .

    Chỉ riêng giải thưởng về giáo dục, đã có 2 gương mặt “đỉnh của đỉnh”. Hồ Ngọc Đại với tư cách là con rể của Lê Duẩn, ai quên sẽ không lớn nổi thành người, và tác giả của “Công Nghệ Giáo Dục” dựa trên chủ nghĩa Mác về giáo dục . Chính Ngô Nhân Dụng cũng khen nức nở cái này . Người kế là Nhà Giáo Nhân Dân Phạm Toàn, người được sự kính trọng từ cả Phạm Đoan Trang cho tới Nguyễn Đức Tùng . Nhà Giáo Phạm Toàn là chủ xị nhóm soạn bộ sách giáo khoa cho miền Nam được giải phóng, bộ sách nausea-inducing, đọc trang nào cũng không ghìm được cơn mửa với những kẻ cực đoan & vô học như tớ . Công lao của Nhà Giáo Phạm Toàn không dừng ở đó . Ông còn là người trực tiếp tham gia vào công trình viết sách cho “Công Nghệ Giáo Dục” của Hồ Ngọc Đại nữa, ghê chưa! Hơn thế nữa, qua lời kể của Phạm Đoan Trang, Phạm Toàn còn là 1 nhà văn được những người như Phạm Đoan Trang mến mộ . Và với tất cả sự mẫn cảm của 1 nhà văn được Phạm Đoan Trang mến mộ, Phạm Toàn đã nhận định rằng tất cả những gì Chủ tịch Hồ Chí Minh nói ra đều là chân lý . Và có lẽ, đv Gs Tương Lai, tất cả những chân lý đó đều cụ thể .

    “tiếng thét từ trái tim người Cộng Sản” Nguyên Ngọc trong lãnh vực văn hóa có lẽ Loud & Clear nhất ở giải văn hóa trao cho Lữ Phương, 1 trí thức Việt Cộng chánh hiệu . Nếu ô Lữ Phương không thích “Việt Cộng” thì có thể thay bằng “Cộng Sản”. Nửa giải văn hóa Phan Chu Trinh được trao là cho tác phẩm “Cuộc xâm lăng văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam VN, Lữ Phương, NXB Văn Hoá 1985” của Lữ Phương . Thử hỏi còn 1 “tiếng thét từ trái tim người Cộng Sản” nào có thể vang dội hơn cái tựa đề tác phẩm về văn hóa của Lữ Phương nữa không ? Cái tựa đề đó chính là hiệu kèn xung trận, với lưỡi lê tuốt trần trong mặt trận văn hóa . Chỉ nên nhớ, thua về văn hóa chính là cái thua toàn diện & đau đớn nhất .

    Để yểm trợ cho đội quân xung kích “Cuộc xâm lăng văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam VN, Lữ Phương, NXB Văn Hoá 1985”, nửa giải Phan Chu Trinh trao cho Lữ Phương là vì ông đã bỏ cả đời ra nghiên cứu chủ nghĩa Mác . i mean Phúc me till kingdom come. Lại Nguyên Ân tự hào về Nguyên Ngọc là quá đúng luôn . Nhà văn hóa Nguyên Ngọc, qua giải thưởng cho Lữ Phương, single-handedly mở hẳn 1 cuộc tổng tiến công & nổi dậy về văn hóa . Đã tạo ra 1 đội quân xung kích “Cuộc xâm lăng văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam VN, Lữ Phương, NXB Văn Hoá 1985”, ông cũng chú trọng vào xây dựng cả nền tảng & những đội quân dự bị trong mặt trận văn hóa . Ông nhận thức rõ chủ nghĩa Mác-Lê chính là nền tảng, và giải thưởng mang tên Phan Chu Trinh được trao cho Lữ Phương đã nêu bật nhận thức này, truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ đang đọc những bản dịch Hegel của Bùi Văn Nam Sơn .

    Nói về những cống hiến về văn hóa của Nguyên Ngọc, có lẽ tre trúc nước Nam cũng không đủ . Chính ông đã tạo nên hiện tượng Bảo Ninh, 1 người được bố thuộc hàng kễnh ký gửi . Dưới sự chăm lo tận tình cho “hạt giống đỏ” của Nguyên Ngọc, Bảo Ninh đã cho ra được 1 tác phẩm có tác dụng làm im mồm tất cả những ai có âm miu phủ định những hy sinh không gì đong đếm nổi, và theo Trần Tố Nga, có dựng bao nhiêu tượng cũng không đủ, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ & bè lũ tay sai .

    Lại Nguyên Ân & tất cả những người có lương tri trong & ngoài nước có (quá) đủ lý do để có thể tự hào về Nguyên Ngọc . Những gì Nguyên Ngọc đã làm được là tiếng chuông cảnh tỉnh, đòi hỏi Đảng phải nhìn lại thái độ của mình đv giới trí thức Việt Cộng -Cộng Sản, cho những ai dị ứng với 2 từ “Việt Cộng”. Đảng cần cởi trói giới văn nghệ sĩ do chính mình -Nguyên Ngọc là 1 phần- đào tạo ra . Tự do đv họ vẫn là tự do viết theo đường lối & chủ trương . Và cái “tự do” đó đã mang lại 1 số giải thưởng từ tư bửn, có nghĩa làm đẹp mặt Đảng, nêu bật chính nghĩa dân chủ trong công cuộc sát cánh với Trung Quốc để chống Mỹ & tay sai .

    Rất tốt đó chớ .

  4. Coi như đây là đóng góp cho 2 bài của ố Cống . Vì đúng như nhận xét, bài này có khá hơn (1 tẹo) so với những bài trước . Nhưng có vài vấn đề ô C nên coi chừng . Người sắp chết nói lời khôn ngoan, Giáo sư Tương Lai sống thọ tới giờ này nhờ thế . Một điều nữa, (rất) nhiều trí thức Việt Cộng, Hà Văn Thùy, Nguyễn Khắc Mai, Mạc Văn Trang … đã định nghĩa trạng thái “Vô Minh” là phủ định Chủ tịch Hồ Chí Minh . Gs VC Mạc Văn Trang cũng đã nhận định bao nhiêu người tử vong do Covid đều là do Vô Minh -phủ định Bác Hồ- hết cả . Ô C vẫn đang còn sống ở vùng đất Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn được xem là thiêng liêng, có kiêng có lành ông ạ, nhất là với những người lớn tuổi như ông .

    – Về chủ nghĩa Mác-Lê, ô C ê cô lại ý của Trương Nhân Tuấn, cho là chủ nghĩa M-L là ngoại lai, ngoại nhập, lai căng . Kudos cho cả 2 ông về việc xem “lai căng” là 1 điều xấu . Có điều “lai căng” ở đây không đúng, mà là chọn lọc những tinh hoa của nhân loại thì đúng hơn . Việt Nam hổng phải là 1 ốc đảo, hoàn toàn cô lập với thế giới bên ngoài . Những tinh hoa về tư tưởng của nhân loại cũng nên được chắt lọc để làm tăng tốc tư duy của người Việt, chủ nghĩa Mác-Lê là 1 điều như vậy . Dân Việt đã đĩnh đạc bước vô thời Hiện Đại bằng chủ nghĩa Mác-Lê đi cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh . Với chủ nghĩa Mác-Lê, cuối cùng dân Việt Xã hội chủ nghĩa đã song hành cùng thế giới, và -theo lời ô C- được bạn bè năm Trâu, lộn, châu ủng hộ . Chính nhờ chủ nghĩa Mác-Lê & những điều kèm theo (LS & TQ) đã là sự cuốn hút tầng lớp tinh hoa của Việt Nam tới với đảng Cộng Sản . Ô C đã khá là lanh mưu -cấm nói lái- khi không đề cập tới những tổ chức chính trị khác đã tồn tại song song với đảng Cộng Sản thời đó, và sau này Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đã tiễu trừ họ cho bằng hết . Và có cả 1 chính quyền Trần Trọng Kim . Chính nhờ chủ nghĩa Mác-Lê mà dân các bác đã xem chính quyền Trần Trọng Kim là phát-xít, muốn giật đổ, và xem điều này là chân lý khách quan & cụ thể, cần chốt lại lịch sử như vậy . Những người Việt phi XHCN có nghĩ được tới đó đâu, thậm chí họ còn kinh hoàng khi chứng kiến người Việt XHCN có thể nghĩ như thế nữa .

    – Một điều nữa cần chỉ ra . Đừng bao giờ trở thành 1 thứ Hoàng Tuấn Công với bố mình . Cả Nguyễn Lân Thắng & Nguyễn Đình Cống, họ Nguyễn quả có được những đứa con hiếu thảo, đã bất chấp mọi thứ, kể cả lý lẽ để bảo vệ danh dự cho bố & dòng họ . Họ Ngô không được như thế nên mới có chuyện Ngô Huy Cương tiếp nối truyền thống con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng .

    Tiếp về chủ nghĩa Mác-Lê . Đã nói chính chủ nghĩa Mác-Lê đã thu hút đa số -nói cho rõ- người dân, nhất là giới tinh hoa về phía đảng Cộng Sản . Chính VOA cũng đã phỏng vấn 1 số học giả nước ngoài chứng minh Cải Cách Ruộng Đất đã tạo nên niềm tin của dân với Đảng, sẵn sàng cho cuộc chiến chống Mỹ & bè lũ tay sai, ê cô lại ý của Tiến sĩ Nguyễn Quang A trong 1 phỏng vấn với RFA. Nhờ miền Bắc tiến hành những cuộc cách mạng dân chủ qua CCRĐ & cải tạo tư bổn mà 1 số dân miền Nam đã đứng lên chống Mỹ . Ông bà Nguyễn Thùy Dương, các “trí thức đấu tranh”, Đào Văn Tùng & những người vẫn thập thò trên viet-studies của đồng chí tiến sĩ Trần Hữu Dũng … Nếu không có CCRĐ & cải tạo tư bửn dưới thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Đồng, họ có đứng lên đấu tranh chống Mỹ không, methink NOT.

    Tất nhiên, ở đây phải là chủ nghĩa Mác-Lê ở dạng ô la zin, hổng phải dạng cẩu tạp chủng sau khi đã được -more like “bị”- hội lái lợn “bổ khùng, lộn, xung, phát chiển & hoàn thiện”. Còn nhớ ngày xưa hông, dân mềnh có câu “nghe Cộng Sản nói, kiến trong lỗ cũng phải bò ra”, nói gì tới trí thức . Đấy, tính thuyết phục của chủ nghĩa Mác-Lê đã trở thành 1 điểm sáng trong kho tàng trí tuệ của dân tộc rồi đấy . Còn bây giờ … Bao giờ cho tới ngày xưa đây ?

    Tuy không đồng ý với đánh giá chủ quan của ô C về chủ nghĩa Mác-Lê, tớ lại rất thích đánh giá của ô C về cái-gọi-là “Đổi Mới”. Trích ông

    “đánh giá thực trạng của đất nước sau hơn ba chục năm đổi mới. Tuy rằng đề ra phương châm, khẩu hiệu “nhìn thẳng vào sự thật”, nhưng hình như chỉ nhìn bằng một con mắt chột, nên chỉ thấy được những nơi có ánh sáng phát ra, nghĩa là chỉ thấy một phần sự thật, mà một phần sự thật nhiều khi là dối trá, -tớ thêm, ya said it, bruthah!- nếu vô tình dùng nó. Còn nếu cố ý chọn nó để dùng thì chắc chắn là dối trá”

    Quá chuẩn luôn! Tớ đoán, chắc chắn trong Đảng đã có người nhìn lại, và than thầm “Phúc, what have we done?”. Nhưng số người đó chắc chắn không đủ lớn . Và Finalfreakinly, 1 trong những người như vậy đang ở vị thế có thể làm được điều gì đó .

    Đã nhiều lần, tớ đã phát biểu cảm tưởng của mình . Đổi Mới là do thằng học trò lừa thầy phản bạn, dốt nát & lũ trí thức gia nô + tàn dư phản động của Mỹ-Ngụy họp lại mà thành . Chính ĐM là nguyên nhân của mọi thứ nhờ nhờ, nhàn nhạt, 1 thứ primordial soup, là thiên đường của lũ gian manh, bọn gian tà, cơ hội, chỉ có độc 1 thứ phát triển là chủ nghĩa cá nhân cực đoan hyper-individualism . Dối trá, lật lọng trở thành thứ currency chính thức của toàn xã hội .

    Nhưng, như tớ đã nói, đã có sự xuất hiện của những con chim én lẻ loi . Những người có lương tri trên thế giới cần ủng hộ những người này nếu vẫn còn hy vọng về 1 tương lai phải khá hơn hiện tại . Những con én đó, trong thời gian qua, đã tạo được 1 số tiếng vang mà không cần 1 HLV có nguồn gốc tư bổn . Và những thắng lợi, dù nhỏ nhoi & cơ bản, đã làm cho những kẻ đã & đang hưởng lợi từ tình trạng hỗn mang của xã hội tức tối . Chúng đang lồng lộn lên . Và càng thất bại, chúng sẽ càng lồng lộn mạnh hơn nữa . Hãy ủng hộ những con én để 1 mùa xuân đại thắng nữa sẽ trở về với dân tộc

  5. https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2023/01/1-2-324×235.jpg

    Vẹm vịt cộng đã và đang Dân Việt MÙA XUÂN BẤT TẬN đói khổ VÔ TẬN như thế này đây

    https://scontent-cdt1-1.xx.fbcdn.net/v/t39.30808-6/324937673_1785330781867387_4106133136243859503_n.jpg?_nc_cat=105&ccb=1-7&_nc_sid=973b4a&_nc_ohc=wSJreYjQOjgAX9jkgpX&_nc_ht=scontent-cdt1-1.xx&oh=00_AfAy13lG9CcfSelb3DVKiGJ8jRIkqkWoP-hheivkTTpdug&oe=63CE73E3

    Vẹm vịt cộng đã và đang Dân Việt MÙA XUÂN BẤT TẬN đói khổ VÔ TẬN như thế này đây

  6. Nói chung, tác giả viết bài này có nhiều luận điểm khá thuyết phục, nhât là tác giả
    dám viết thẳng viết thật một cách “danh chính ngôn thuận” là Việt Cộng ! Hai chữ
    này từng làm một ông đại tá “tuyên giáo” giãy nãy lên vì “nói xấu” VNDCCH. trời ạ ?

    • Đồng ý với bác này . Ố Cống xử dụng “VIỆT CỘNG” là 1 bước đại nhảy vọt trong tư duy của chính mình từ trước tới giờ . Tiến bộ trông thấy, khá khen!

      Đúng, những người vẫn thường xem mình là Cộng Sản chân chính thường xem “Việt Cộng” là 1 từ nhục mạ, và ông đại tá tuyên giáo ngày nào là 1 người như vậy . Nhưng khi “Việt Cộng” được dùng để chỉ những công dân Xã hội chủ nghĩa hay những người Cộng Sản (không may) sinh ra & lớn lên ở 1 nơi còn-bị/được-gọi-là Việt Nam, nhiều vấn đề trước nay vẫn bị lấp liếm bỗng rũ bùn đứng dậy sáng lòa . “VC” (Vi xi) chỉ rõ các “trí thức” trước giờ (rất) nhiều người vẫn tưởng là “Việt Nam”, hóa ra họ là trí thức Việt Cộng . Công dân Xã hội chủ nghĩa như Mai Quốc Ấn hay Lê Minh Dũng hóa ra cũng chỉ là dân Việt Cộng . and the list just goes on. Đặt Việt Cộng kế Trung Cộng … Tuyệt cú mèo! Làm nổi bật được bản chất của cuộc cọ sát vật lý 1979 là cuộc nồi da xáo thịt do tư bửn xúi dục . Phải chi Ts Phạm Quý Thọ biết được sự tồn tại của 2 chữ “Việt Cộng”, ông ta đã có thể nhìn thấy được quá khứ & hiện tại, để có được 1 đánh giá chính xác hơn về tương lai . Cũng để cho Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng & the likes nhận rõ Mỹ & Việt Cộng có rất nhiều kỷ niệm của tương lai, dont mean them all sweet & cherishable.

      So yeah, Kudos cho ố Cống xử dụng 2 từ “Việt Cộng”. Chỉ khuyên ông 1 điều . Trí thức nhà mềnh nhờ tránh bằng mọi giá xử dụng 2 từ đó mà tai qua nạn khỏi, sống (rất) thọ . Nói vậy ông đủ hiểu

Comments are closed.