Cuộc gặp gỡ giữa Mỹ và Việt Nam (Phần 1)

Tác giả: Kenneth T. Young

Trúc Lam chuyển ngữ

13-9-2025

Lời giới thiệu: Tài liệu “The American Encounter with Vietnam” được cựu đại sứ Kenneth T. Young (1916 – 1972) viết hơn 60 năm trước, nói về giai đoạn đầu của sự hình thành mối quan hệ Việt – Mỹ, cũng như sự can dự phức tạp của người Mỹ vào Việt Nam, cùng các quyết định chính sách và tác động của chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam. Chúng tôi quyết định giới thiệu tài liệu này với bạn đọc Tiếng Dân, bởi nó quan trọng đối với các nhà nghiên cứu về lịch sử mối quan hệ của hai nước.

Ông Kenneth Todd Young chụp năm 1961, lúc ông làm đại sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan. Ảnh tư liệu gia đình của GS Stephen B. Young, gửi cho Tiếng Dân

Tác giả, ông Kenneth Todd Young từng là Đại sứ Mỹ tại Thái Lan, giai đoạn 1961-1963. Ông còn là cha của GS Stephen B. Young, hiện là giám đốc điều hành của tổ chức Caux Round Table for Moral Capitalism. Trong một bài viết gửi cho Tiếng Dân, GS Young viết về cha của mình như sau:

Cha tôi, Kenneth T. Young, là viên chức người Mỹ chủ chốt trong Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, phụ trách việc chỉ đạo sự ủng hộ chính thức của Mỹ đối với quốc gia mới thành lập là Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1958. Ông giữ chức Giám đốc Văn phòng Đông Nam Á, được bổ nhiệm vào vị trí đó bởi Ngoại trưởng John Foster Dulles.

Lần đầu tiên tôi nghe nói đến Việt Nam là vào năm 1954, khi tôi 9 tuổi. Tôi mới tập đọc và một ngày nọ đọc được dòng tít lớn trên tờ Washington Post với hàng chữ: “Chiến tranh của Pháp ở Đông Dương chấm dứt”. Tôi hỏi mẹ: “Ở Đông Dương có chiến tranh ạ?” Mẹ trả lời: “Đúng vậy, nó đã diễn ra từ khi con chào đời”.

Tôi vô cùng kinh ngạc. Tôi đã nghe nói về Thế chiến II và Chiến tranh Triều Tiên nhưng không biết có cuộc chiến nào khác. Tôi tự nhủ: “Thế giới chúng ta đang sống thật lạ lùng. Một cuộc chiến có thể kéo dài nhiều năm mà mình chẳng hề hay biết”.

Rồi mẹ nói với tôi: “Cha con đang ở Geneva để giúp chấm dứt cuộc chiến đó”. Tôi rất ngưỡng mộ ông vì điều đó, nghĩ rằng, thật tuyệt vời khi ông giúp kết thúc một cuộc chiến.

Tháng 10 năm đó, sau khi trở về từ Hội nghị Geneva, cha tôi đã soạn thảo bức thư mà Tổng thống Eisenhower gửi cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm vào ngày 23-10-1954, cam kết Hoa Kỳ sẽ bảo vệ một nước Việt Nam theo chủ nghĩa quốc gia. Trong bức thư đó, cha tôi đã đưa ra cho toàn thế giới, đặc biệt là cho tất cả người Việt Nam, biết hai điểm:

1. Cơ sở đạo đức cho sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam Cộng hòa, và

2. Chiến lược để bảo vệ miền Nam Việt Nam trước nguy cơ xâm lược của cộng sản.

Tính chính nghĩa của sự ủng hộ từ Mỹ và chiến lược để đánh bại chủ nghĩa quân phiệt cộng sản gắn bó chặt chẽ với nhau – cả hai cùng nâng cao một sức mạnh tinh thần chung: Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam.

Về mặt chiến lược, cha tôi nhận thấy rằng, cộng sản sẽ tấn công Chính phủ ở Sài Gòn bằng chiến tranh du kích – tổ chức nông dân thành những đơn vị vũ trang nhỏ để đánh đuổi các viên chức chính quyền ra khỏi làng xã, rồi dần dần từng bước, cộng sản sẽ chiếm lấy đất nước, mỗi lần một quận.

Cha tôi đã dự đoán – và ông đã dự đoán đúng – rằng Hà Nội sẽ rút kinh nghiệm từ chiến tranh Triều Tiên và sẽ không công khai xâm lược miền Nam Việt Nam. Thay vào đó, cộng sản Việt Nam sẽ cài cán bộ từ miền Bắc vào miền Nam qua Lào để tổ chức các đơn vị du kích ở cấp làng xã cùng với các cán bộ chính trị, và họ sẽ chiêu mộ nông dân ở những làng hẻo lánh bằng các khẩu hiệu và lý tưởng dân tộc, bởi vì rất ít người Việt ưa chuộng chủ nghĩa cộng sản. Cha tôi gọi chiến lược đó của cộng sản là “xâm lược thẩm thấu” – thẩm thấu từ miền Bắc bí mật vào miền Nam và từ làng này sang làng khác.

Để đánh bại kiểu xâm lược cấp thấp này, cần phải huy động dân làng Việt Nam bảo vệ gia đình, làng xóm và những giá trị đạo đức cốt lõi của họ. Chủ nghĩa dân tộc như thế phải là ưu tiên hàng đầu của bất kỳ chính phủ nào ở Sài Gòn, nếu miền Nam muốn đánh bại nỗ lực chiến tranh của cộng sản.

Tại Hội nghị Geneva, cha tôi đã lắng nghe kỹ lưỡng Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Đỗ, mô tả chiến thuật của cộng sản trong cuộc chiến chống Pháp, bao gồm cả những vụ ám sát vào năm 1946 – 1947 đối với các nhà dân tộc chủ nghĩa tận tụy và sáng suốt như Trương Tử Anh, Lý Đông A, Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Huỳnh Phú Sổ…

Cha tôi hiểu rằng, chủ nghĩa cộng sản là một hệ tư tưởng phương Tây, được đưa vào Việt Nam qua trung gian người Pháp, và nó không hề có gốc rễ trong các tư tưởng đạo đức hay truyền thống Việt Nam. Khi còn là sinh viên trao đổi tại Trung Quốc năm 1937, ông đã nghiên cứu kinh điển Trung Hoa và học một ít tiếng Trung. Khi trở về Mỹ, ông đã đi ngang qua Việt Nam và tận mắt chứng kiến ách cai trị thực dân của Pháp. Ông hoàn toàn không ủng hộ người Pháp.

Do đó, vào những năm 1954 và 1955, ông đã định hình chính sách của Mỹ theo hướng làm việc trực tiếp với những người dân tộc chủ nghĩa Việt Nam – để người Mỹ không áp đặt bất kỳ hệ tư tưởng ngoại lai nào lên người Việt, cũng không hành động như một thế lực thực dân kiểu mới thao túng người Việt, nhằm phục vụ lợi ích ích kỷ của ngoại bang, mà giúp họ đứng lên chống lại cả cộng sản lẫn thực dân Pháp.

Cha tôi nhận thấy rằng, một nước Việt Nam hiện đại phải được xây dựng trên nền tảng truyền thống Việt Nam, theo điều kiện của người Việt – chứ không phải của người Mỹ.

Quan niệm của cha tôi, được ghi trong bức thư của Tổng thống Eisenhower năm 1954, là một sự liên minh giữa các đối tác – mỗi bên có trách nhiệm riêng của mình và tin tưởng bên kia sẽ thực hiện với sự tận tâm và danh dự. Đây chính là chiến lược mà người Mỹ đã áp dụng trong Thế chiến II và trong Chiến tranh Triều Tiên.

Cha tôi từng là Giám đốc Văn phòng Đông Bắc Á trong thời kỳ Chiến tranh Triều Tiên và đã tham gia các cuộc đàm phán đình chiến với Trung Quốc và Bình Nhưỡng tại Bàn Môn Điếm (Panmunjeom).

Năm 1961, cha tôi giữ chức Đại sứ Mỹ tại Bangkok, thời chính quyền Tổng thống Kennedy, và sau đó trở thành Chủ tịch Hội Á Châu ở Thành phố New York.

Cha tôi còn là thành viên của khóa 1939 Đại học Harvard và từng theo học lịch sử, văn hóa châu Á khi còn là sinh viên đại học. Chức danh giáo sư phụ trách bộ môn Nghiên cứu Việt Nam tại Đại học Harvard được đặt theo tên ông (Kenneth T. Young Professorship) để vinh danh ông.

Sau đây là bản dịch tài liệu của cựu đại sứ Kenneth T. Young.

***

Đây là câu chuyện về lý do và cách thức Hoa Kỳ tự mình dấn thân vào Việt Nam. Đó là một vở kịch về hai dân tộc rất khác nhau lần đầu tiên tiếp xúc với nhau trong một cuộc gặp gỡ đầy ngẫu nhiên và trớ trêu, thành tựu xen lẫn bi kịch. Hai quốc gia – một bên nhỏ bé với 2000 năm lịch sử và một bên hùng mạnh nhưng chỉ mới có 200 năm, đến từ những nền tảng khác biệt và ở hai phía đối lập của trái đất – đã dành một phần rất nhỏ của thời gian, chỉ mười một năm, để xoay xở cùng nhau trong khi đối diện với sự va chạm văn hóa tại ngã tư của những cuộc chiến và biến cố lớn ở châu Á.

Vào mùa thu năm 1954, Hoa Kỳ bắt đầu cuộc hành trình đơn độc của mình tại Việt Nam và Đông Nam Á. Đó là một chuyến đi đầy mâu thuẫn giữa cái lớn và cái nhỏ, cái cũ và cái mới. Cuộc gặp gỡ này phản ánh cả những ý định tốt đẹp lẫn sự ngây thơ thiếu hiểu biết, những hành động đầy trách nhiệm cẩn trọng xen lẫn những sai lầm do hành động bốc đồng. Tuy nhiên, nhìn chung, câu chuyện về mối quan hệ hợp tác Mỹ – Việt cho thấy, người Việt Nam và người Mỹ đã hoạch định chính sách ở tầm vóc lớn, chứ không phải trên cơ sở cục bộ. Nó cũng cho thấy cả hai [đất nước] chúng ta cùng tiến bước một cách mù mờ trong điều mà William James từng gọi là “những đám mây mù của sự mù quáng tổ tiên”.

Một mặt, trong suốt một thập niên, chính sách của Mỹ gắn liền với các mục tiêu và hoạt động của mình ở Việt Nam qua bức tranh phức tạp về hòa bình và an ninh thế giới, hoặc ít nhất là với kế hoạch dễ dàng cho nền độc lập và hiện đại hóa quốc gia. Chúng tôi không hề đóng khung Việt Nam hay đối xử với Việt Nam một cách tùy tiện, tách biệt khỏi những vấn đề và sự kiện lớn của thời đại.

Mặt khác, những người hoạch định và những người thực thi chính sách của Mỹ đôi khi đã đưa ra quyết định và tiến hành các hoạt động liên quan đến Việt Nam trong sự thiếu hiểu biết hoặc không khoan dung đối với cách suy nghĩ và hành động của người Việt. Chúng ta thường xuyên khăng khăng áp dụng phân tích và khuôn mẫu của người Mỹ, dù thường với ý định tốt đẹp nhất. Ít ai trong chúng ta hiểu được lịch sử lâu dài của Việt Nam hay thấu hiểu nền văn hóa nhạy cảm của Việt Nam. Sự hợp tác đã là một thử thách đối với cả hai phía.

Vậy chúng ta đã làm gì? Thực tế là chúng ta đã cố gắng truyền cảm hứng và thúc đẩy sự thay đổi từ mô thức đời sống hàng thế kỷ sang một lối sống hiện đại. Hãy gọi đó là một cuộc cách mạng xã hội nếu muốn, bởi vì chính xác nó là như thế. Chính phủ Hoa Kỳ trong suốt mười một năm đã kiên quyết – dù không phải lúc nào cũng thành công hay rõ ràng – đứng về phía cách mạng ở Việt Nam, nhưng không có chủ nghĩa cộng sản. Chúng ta đã bảo trợ và ủng hộ công cuộc cải cách dân tộc chủ nghĩa. Chủ đề giản dị trong chính sách ban đầu của Hoa Kỳ tại Việt Nam là chủ nghĩa dân tộc và cải cách.

Nguồn gốc của chính sách này cho thấy vở kịch về việc người Mỹ chúng ta đã hiểu và đã hiểu sai như thế nào về cách mạng và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam từ năm 1954. Chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng và đau đớn. Nhiều khi chúng ta cũng đúng. Những yếu tố lịch sử của ngẫu nhiên và lựa chọn đã đặt ra trước chúng ta vào năm 1954, cũng như ngày nay. Đối với chúng ta, vào năm 1954 cũng như hiện nay, thách thức thật sự là phải biết được câu hỏi cơ bản. Như Archibald MacLeish từng viết: “Chúng ta đã học được câu trả lời, tất cả các câu trả lời. Nhưng chính câu hỏi thì chúng ta lại không biết”. Vậy đâu là cốt lõi của vấn đề Việt Nam cách đây mười một năm?

Liệu người Việt Nam có thể xây dựng được một cuộc cách mạng dân tộc chủ nghĩa gắn với cải cách thật sự nhưng không có cộng sản hay không? Liệu họ có thể hoà nhập với thế kỷ 20? Liệu họ có duy trì được sức sống và năng lượng đã từng giúp họ độc lập trước Trung Quốc và làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia và nền văn hoá đặc thù trong ít nhất 1.000 năm? Hay họ sẽ rơi vào hỗn loạn hoặc cộng sản?

Còn đối với chúng ta ở Washington: Việt Nam có tầm quan trọng gì ở Đông Nam Á? Lợi ích của Hoa Kỳ ở đó là gì? Chúng ta phải bỏ ra bao nhiêu để đạt được mục tiêu của mình? Và liệu chúng có thể đạt được không?

Nghịch lý Genève

Chính sách của Hoa Kỳ bắt đầu từ hậu quả của các hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954. Hoa Kỳ đã không ký kết các hiệp định đó. Tuy nhiên, chính sách của Mỹ đã phải vận hành trong khuôn khổ của các hiệp định này, mặc dù Hoa Kỳ chưa bao giờ bị ràng buộc về mặt pháp lý bởi ba hiệp định đình chỉ chiến sự. Chính phủ Hoa Kỳ đã nêu rõ lập trường của mình ngay từ năm 1954. Chúng ta sẽ không sử dụng vũ lực và sẽ kiềm chế mọi đe doạ dùng vũ lực có thể phá vỡ các hiệp định đó. Tuy nhiên, Hoa Kỳ cũng thông báo với thế giới rằng, chúng ta sẽ coi bất kỳ sự tái diễn xâm lược nào ở Việt Nam là một mối quan ngại nghiêm trọng và sẽ hành động tương ứng, vì bất kỳ hành động xâm lược nào ở Đông Dương hay ở Việt Nam đều đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình và an ninh của Hoa Kỳ cũng như của toàn thế giới.

Chúng ta đã tuyên bố ý định của mình ngay từ năm 1954, chứ không phải mười năm sau đó. Hoa Kỳ cũng đã tìm cách thống nhất Việt Nam thông qua tổng tuyển cử tự do, dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc, để bảo đảm rằng các cuộc bầu cử được tiến hành công bằng. Chúng ta đã tìm cách đưa Liên Hiệp Quốc tham gia vào vấn đề Việt Nam ngay từ năm 1954, chứ không phải chỉ vào năm 1964 hay 1965. Những nỗ lực của chúng ta nhằm hướng tới một giải pháp dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc đã bị tất cả các bên từ chối.

Khuôn khổ Genève ít nhất đã tạo điều kiện cho một điều – chủ quyền của Nam Việt Nam. Pháp, Anh, Hoa Kỳ và nhiều chính phủ khác đã coi Nam Việt Nam là một quốc gia có chủ quyền trước khi các hiệp định Genève được ký kết. Kể từ đó, không có tranh cãi pháp lý hay ngoại giao nào về chủ quyền ấy. Ba chính phủ đã cùng nhau làm việc trong hội nghị Genève để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của điều mà Sir Anthony Eden gọi là “vùng được giữ lại”, tức là Nam Việt Nam. Vấn đề không chỉ là tính hợp pháp. Câu hỏi đặt ra sau Hội nghị Genève là: Có thể làm gì về mặt xã hội và kinh tế để duy trì sự tồn tại của quốc gia này?

Thật không may, các chính phủ tham gia Genève đã không bảo đảm thi hành các hiệp định. Việc không làm như vậy là một trong những sai lầm lớn mà Hoa Kỳ mắc phải ở châu Á. Các hiệp định này chưa bao giờ có thể được cưỡng chế bằng hành động quốc tế. Tuy vậy, chúng đã có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam và chính sách của Hoa Kỳ. Dĩ nhiên, các hiệp định đã tạm thời chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Đây là một phần của một thoả thuận bí mật được ký kết giữa các nhà đàm phán Hà Nội tại Genève và người Pháp. Điều này đã bị các đại diện của Nam Việt Nam kịch liệt phản đối.

Trong những ngày cuối cùng của hội nghị căng thẳng đó, nhiều người đã bị sốc. Thỏa thuận thực chất là một sự mặc cả. Có một cuộc ngừng bắn và Việt Nam bị chia cắt; nhưng các cuộc bầu cử dự kiến được tổ chức trong một hoặc hai năm chắc chắn sẽ bảo đảm một “chiến thắng” bầu cử của cộng sản trên toàn Việt Nam với cái giá rẻ nhất có thể. Hội nghị Genève đã tạo ra nghịch lý của cái gọi là “vùng được giữ lại”: Một mặt, phải trợ cấp để ngăn cộng sản thôn tính, nhưng mặt khác thì lại chuẩn bị để loại bỏ nó.

Hiệp định về Việt Nam đặt ra nhiều điều cấm về quân sự bên cạnh việc ngừng bắn. Nó thiết lập khu phi quân sự dọc theo vĩ tuyến 17. Nó được cho là sẽ ngăn chặn mọi loại trang bị và nhân sự quân sự mới được đưa vào cả hai miền Việt Nam. Nó cấm lập căn cứ quân sự và tái khởi động chiến sự từ phía Nam chống lại miền Bắc, hay từ phía Bắc chống lại miền Nam. Nó cấm cả hai bên tiến hành bất kỳ chính sách gây hấn nào chống lại “khu vực” kia.

Hoa Kỳ buộc phải tuân theo những điều khoản đó, mặc dù không bị ràng buộc về mặt pháp lý. Và chúng ta đã làm như vậy. Trong nhiều năm, chúng ta giữ số lượng phái bộ quân sự của mình ở Việt Nam chỉ ở mức 342 người. Chúng ta đã giúp giảm bớt quân đội Việt Nam. Chúng ta chỉ cung cấp vật thay thế cho những trang thiết bị và vũ khí đã hư hỏng. Với danh dự của những kẻ ngốc hoặc kẻ bị lừa, chúng ta đã chơi cuộc chơi theo đúng luật.

Thách thức thật sự vào năm 1954 là tình trạng hỗn loạn ở Việt Nam và sự suy sụp ở châu Á mà Hội nghị Genève cùng sự hiếu chiến của cộng sản đã tạo ra. Chính sách của Mỹ đòi hỏi một loạt quyết định trong những hoàn cảnh gần như tồi tệ nhất có thể có. Ở Nam Việt Nam không có lãnh đạo thật sự. Chính quyền hiệu quả và bộ máy hành chính nông thôn đã sụp đổ. Chủ nghĩa thực dân Pháp đã tan rã, và từ lâu lẽ ra phải chấm dứt. Người tị nạn Việt Nam bắt đầu ồ ạt rời miền Bắc. Tình trạng đổ vỡ xã hội và kinh tế ở Nam Việt Nam ngày càng gia tăng. Chúng ta thấy mình rơi vào làn đạn chéo của những âm mưu của thực dân Pháp tại Sài Gòn (khác với ở Paris) và của các đảng phái Việt Nam, đặc biệt là cộng sản. Đồng thời, một cuộc tăng cường lực lượng quân sự ngay lập tức bắt đầu ở miền Bắc, cũng như sự gia tăng những biểu hiện hiếu chiến từ phía Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Tất cả những điều đó – sự hỗn loạn do các hiệp định Genève gây ra, sự rối loạn ở Việt Nam, việc tăng cường quân sự – vào mùa hè và mùa thu năm 1954 dường như đang dẫn thẳng đến sự nhấn chìm của Việt Nam, sự tan rã của Đông Nam Á, và sự chia rẽ trong Thế Giới Tự Do. Ở Washington, các nhà báo và nghị sĩ quốc hội muốn gạt bỏ Việt Nam vì sự không còn hy vọng gì. Nhưng Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles, cùng Bộ trưởng Quốc phòng, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân và nhiều người khác đã nói: “Nếu bỏ Đông Nam Á, đồng nghĩa với bỏ Tây Thái Bình Dương, và bỏ tuyến phòng thủ trực tiếp của Hoa Kỳ từ quần đảo Aleutian đến Úc”.

Năm 1954, chúng ta cần nhớ rằng Nhật Bản vẫn còn mong manh. Nhật chỉ mới có hai năm chủ quyền kể từ sau chiến tranh và chiếm đóng. Tương lai trước mắt của họ vẫn còn đáng ngờ, nền kinh tế thì bấp bênh. Một cuộc đình chiến mong manh đang tồn tại ở Triều Tiên, chỉ hơn một năm sau những trận chiến khốc liệt với quân Cộng sản Trung Quốc, những kẻ không hề quan tâm đến một giải pháp chính trị nào ngoài các điều kiện của họ, và đang chuyển sự chú ý cũng như nguồn lực sang Đông Nam Á.

Tất cả những yếu tố này đã khiến Hoa Kỳ, Anh và Pháp cùng nhau thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO), được ký kết vào ngày 8 tháng 9 năm 1954. Với tám thành viên, tổ chức này nhằm cố gắng giữ vững phòng tuyến và tạo ra một số hình thức ổn định ở Đông Nam Á. Hiệp ước đã nêu rõ rằng Việt Nam nằm trong phạm vi được bảo vệ. Đây là một yếu tố then chốt khi chúng ta cân nhắc các lựa chọn ở Đông Nam Á lúc bấy giờ, cũng như khi đưa ra cam kết đối với Việt Nam.

(Còn tiếp)

Bình Luận từ Facebook

BÌNH LUẬN

Xin bình luận ở đây
Xin nhập tên của bạn ở đây