Chuyến đi nước Việt Đàng Trong năm 1792-1793 (Phần 6)

Tác giả: Sir John Barrow

Hồ Bạch Thảo biên dịch

22-3-2025

Tiếp theo phần 1phần 2phần 3phần 4phần 5

Chương 10: Phác thảo tổng quát về cách cư xử, tính cách và tình trạng của dân bản địa Đà Nẵng (Turon)

1. Ăn tối ở nước Việt Đàng Trong – Giao tiếp với vị vua trẻ Đàng Ngoài (Đông Kinh) – Vua trẻ tặng quà cho sứ thần – Chiêu đãi ở Đà Nẵng nhân ngày sinh nhật của vua nước Anh – Kịch và các trò tiêu khiển khác.

Trong chương cuối cho biết, khi sự ghen tị và báo động lắng xuống, và sự xuất hiện của hạm đội chúng tôi, cùng những lời bóng gió vô căn cứ do Manual Duomé (Thuyền trưởng Bồ Đào Nha) tung ra đã bay đi; thực tế chợ búa ở Đà Nẵng mỗi ngày cung cấp đồ ăn tốt hơn, các quan chức chính quyền cũng bớt chế tài. Hỗ tương tin cậy và tiếp xúc không ngừng thiết lập giữa người dân trên cảng và nhân viên của hạm đội. Các quan chức trên hạm đội và những người làm việc tại đại sứ quán do công vụ hoặc tò mò, đều muốn có ngày thưởng thức buổi ăn tối chung ở trên bờ.

Về phía họ, vài viên chỉ huy hàng ngày lên thăm tàu. Tại đây, họ tỏ ra có niềm thích thú nhỏ, dường như cảm nhận từ món ăn của chúng tôi mà họ thường dùng. Họ không thích rượu bia hoặc rượu vang; nhưng rất thích được uống rượu rum nguyên chất, brandy, hoặc bất cứ rượu mạnh nào; đến nỗi sau chuyến thăm đầu tiên, chúng tôi không dám để số lượng lớn cho họ tùy tiện dùng, vì sợ cả nhóm ra khỏi tàu trong tình trạng say xỉn.

Vì không có căn nhà nào trên phố đủ lớn để tổ chức một bữa tiệc đông người, nên viên Thống đốc ra lệnh cất một nhà rạp rộng rãi, dùng những cây tre có sẵn, hoàn thành trong vài giờ; vách và mái nhà lấy chiếu dày che kín. Trong rạp có một dãy bàn nhỏ, ghế xếp hai bên, với chỗ ngồi thuận tiện cho 20 hoặc 24 người.

Theo tập tục Trung Quốc, tô, chén, dĩa đựng đồ ăn phủ đầy chiếc bàn vuông nhỏ, nên không thấy mặt bàn. Nhưng ở nước Việt Đàng Trong có sự cải tiến với phong cách tự do của nước láng giềng, không những chén đồ ăn phủ kín bàn, mà còn sắp chồng lên nhau đến ba bốn tầng. Chúng tôi hiếm khi ngồi xuống nơi có số lượng chén ít hơn 200, chưa kể những chén cơm được trao cho khách để thay thế bánh mì. Cơm gạo đối với nước này, cũng như Trung Quốc và các nước châu Á khác, là thức ăn để sống.

Họ không dùng khăn trải bàn, dao, nĩa, chai, ly; nhưng trước mặt mỗi người đều được đặt một chiếc muỗng bằng đồ gốm, một cặp lông nhím hoặc một đôi đũa bằng tre, hoặc gỗ hồng, đàn hương, mũi bọc bạc; loại như vậy dùng trong trường hợp tiệc tùng sang trọng ở Trung Quốc, riêng người Anh gọi là chop-sticks. Thức ăn trong chén được nấu từ thịt bò, thịt heo, gà, vịt và cá, cắt nhỏ trộn với rau; chế biến thành súp hoặc thịt hầm, thêm các vật liệu khác nhau.

Chúng tôi không được ăn các loại thức ăn nướng hoặc khô. Trong lúc ăn không phục vụ rượu vang, rượu mạnh, chất lỏng men nồng, và ngay cả nước uống. Nhưng khi ăn xong, chúng tôi được trao cho nước seau-cho của Trung Quốc, đựng trong những cái chén sứ nhỏ.

Vì cả hai bên không biết ngôn ngữ của nhau nên không trao đổi đàm thoại, bởi vậy chúng tôi cảm thấy không muốn ngồi lâu trên bàn. Riêng viên Thống đốc hoặc chỉ huy tổng quản Đà Nẵng không chịu hạ mình ngồi chung với chúng tôi; thường trong dịp này ông ta nằm dài trên nệm đặt tại chiếu ở cuối phòng, hút thuốc, hoặc ăn trầu; trong khi đó, hai tên hầu cao lớn quạt suốt buổi, với chiếc quạt lớn làm bằng lông gà lôi.

Từ chiếc bàn, chúng tôi sửa thành rạp hát, cũng là một cái rạp bằng tre; ở đây cũng như ở Trung Quốc, chúng tôi thấy các diễn viên tham gia trình diễn hăng say suốt ngày, cả khi có hoặc không có khán giả. Do được thuê mướn suốt ngày, khán giả đông hay ít không ảnh hưởng nhiều đến người trình diễn; điều mà họ lưu ý là số tiền nhận lúc công việc làm xong.

Là một thành phần của nước Việt Đàng Trong, vịnh Đà Nẵng lúc này do Nguyễn Quang Toản (Quang-tung trẻ) nắm giữ. Y là con viên tướng đánh bại Phó vương Quảng Đông, sau đó thành công trong việc đánh lừa vua Trung Quốc, sự việc tôi đã kể trong chương trước. Y đóng đô tại thành phố Huế, khoảng 40 dặm về phía bắc Đà Nẵng.

Ngay sau khi nhận được thông tin tình báo, cho chúng tôi là bạn bè, hoặc theo nghĩa chặt chẽ nhất là phe trung lập đến nơi; thì một vị quan lại cao cấp được cử đến gặp đại sứ quán với lời mời của vua [Nguyễn Quang Toản], mời chúng tôi đến triều đình. Vị quan này đã tìm ra những lý do thích hợp để từ chối nhiều điều và đặc biệt một số việc chậm trễ đã xảy ra. Tuy nhiên, mong muốn cuộc hành trình đến một nơi có thể là thủ đô miền bắc của nước Việt Đàng Trong, cung cấp cơ hội thấy được nội địa nước này. Điều này có thể là sự mất mát đáng tiếc mà sự tò mò phải chịu đựng, vì không được chứng kiến nghi thức và lễ hội của triều đình Huế; đặc biệt chúng tôi sắp có mặt ở Bắc Kinh, dù cũng giống như vậy, nhưng chắc huy hoàng hơn nước Việt Đàng Trong trưng bày.

Điều hài lòng hơn là có cơ hội sống vài ngày ở phố nhỏ, làng và những thôn nhà tranh. Như Dr. Johnson (1) từng quan sát “ Tình trạng thật của mọi nước, là tình trạng chung của mọi người. Hạnh phúc chung không thể đánh giá bởi sự tụ hội của người đồng tính, hoặc tiệc tùng của người giàu. Số đông ở các quốc gia không phải là người giàu hoặc đồng tính”.

Đối với Đông phương thì nhận định này rất đúng, nơi này chia thành hai hạng người: Kẻ thống trị và người bị trị. Một cách giải trí chứng tỏ rất ưa thích mà nhà cầm quyền nước Việt Đàng Trong thường chiêu đãi sứ thần ngoại quốc, đó là dạo trong rừng đi săn voi, cọp, bò rừng. Trong dịp này họ thường tổ chức tiệc voi vương giả, do đó người ta bảo rằng người nước Việt Đàng Trong ăn thịt voi, nhưng độ lớn của vật thể này đánh dấu đa dạng của lễ hội, hơn là sự tinh tế của thức ăn, mà tôi tưởng chừng rất thô vụng. Trong rừng nước Việt Đàng Trong và những nước láng giềng, những con vật này có vẻ lớn hơn voi sống ở các vùng khác trên thế giới. Con đầu tiên tôi thấy ở Đà Nẵng, hình dạng nó gây ấn tượng lớn trong đầu tôi. Tôi có thể nói một cách chắc chắn rằng, con voi ở nước Việt Đàng Trong, đỉnh Teneriffe, và giông bão trên biển là 3 vật thể vượt ra ngoài sức tưởng tượng của tôi.

Lá thư của vị vua trẻ diễn tả đầy những lời đánh giá cao về sự lưu ý đến nước Anh; như được thấy bằng chứng về điều này, ông ta dùng một sĩ quan của triều đình đưa đến “một món quà nhỏ” như ông ta nói, cho những người trên các chiếc tàu dùng. Quà gồm có 10 con bò non, 50 con heo, khoảng 300 con gà, vịt; với trái cây, bầu, cà tím, hành và các thứ rau khác. Những đồ tươi này cung cấp theo mùa, được đưa đến bằng thuyền buồm; đi trước bởi các sĩ quan diễn hành bằng thuyền chèo, sơn hào nhoáng và có trang bị cờ. Sứ bộ đính kèm thư ông ta, phúc đáp với khẩu súng hai nòng đẹp mắt cùng đầy đủ phụ tùng, một cặp súng ngắn bằng đồng trang bị lưỡi lê lò xo, gươm chuôi thép, và một vài vải thêu và vải đỏ. Người mang thư mặc áo lụa dài, thêu hình voi và rồng, giống như những người ăn mặc ở Trung Quốc; nhưng khi lên trên tàu Lion thì họ cởi ra, mặc hai hoặc ba áo choàng bông trắng.

Giao hảo giữa chúng tôi và người bản xứ bị tạm thời ngăn trở, do phần lỗi của chúng tôi. Do muốn thu hoạch chính xác các yếu tố về vịnh và cảng tuyệt vời này, một buổi sáng nhóm chúng tôi dùng thuyền vào bờ để đo đường cơ sở của bãi cát, lấy góc độ cần thiết để quyết định vị trí của điểm quan trọng. Trong những giờ đầu tiên, nhóm đặc nhiệm đã hoàn thành công tác và trở về không bị cản trở. Nhưng rồi một sĩ quan của họ đã nhanh nhẹn theo lên tàu, chuyển lời viên Thống đốc, cho biết không hài lòng với việc làm của chúng tôi và yêu cầu không được đo nữa.

Một sự vụng về khác đã xảy ra, khẳng định sự nghi ngờ khác của họ, lớn hơn ta thừa nhận. Một sĩ quan trên tàu Lion với nhiệt tình muốn khám phá con sông ngược dòng Hội An (Fai-foo), gặp đối thủ cừ hơn sự thận trọng của viên này, nên bị bắt trong đêm, giam tại đồn nhỏ với thủy thủ và cả thuyền. Không nhận được tin tức về chiếc thuyền này, chúng tôi phỏng đoán nó bị đắm ở vũng lầy, và mọi người trên thuyền đều chết.

Tuy nhiên, cuối cùng tin tức đưa đến tàu Lion bởi các sĩ quan của nhà nước này, kèm với sự phàn nàn đau buồn rằng, chúng tôi cư xử bất công với họ. Sứ bộ đã từ chối bất cứ sự hiểu biết nào về vấn đề này xin thả ngay viên sĩ quan, đưa lên tàu để viên này trả lời về lỗi lầm không tuân mệnh lệnh của cấp chỉ huy; tội của viên này sẽ bị trừng trị xứng đáng. Trong khi đó, viên sĩ quan này rơi vào tay viên quan lại bản xứ, y gần như liên tục trong tình trạng say sưa, thường ra lệnh đưa viên sĩ quan đến trước mặt, đôi khi tự giải trí bằng cách vung một lưỡi hái lớn trên đầu, và đeo quanh cổ khung gỗ hoặc sắt nặng, giống như chiếc cùm của Trung Quốc.

Sự việc rồi cũng được giải quyết thỏa đáng và chúng tôi có mọi lý do tin rằng, dù có sự nghi ngờ [ban đầu] không thuận lợi, nhưng họ đã nhận chúng tôi làm khách vào vịnh Đà Nẵng và tin rằng chúng tôi không có ý định dính dấp vào các phe tranh chấp. Trong một lá thư thứ hai từ nhà vua, ông đã bỏ một số đề nghị gián tiếp để thiết lập buôn bán ở phần phía bắc nước Việt Đàng Trong. Quà kèm theo lá thư gồm một cặp ngà voi, 10 rổ ớt cho ông Đại sứ, và 3.000 rổ gạo (mỗi rổ 20 pounds, tức trên 100 tấn) cho thủy thủ.

Ông Đại sứ chưa từng lên bờ thành phố Đà Nẵng, các sĩ quan chính của nơi này muốn biểu lộ sự kính trọng bèn tổ chức một buổi chiêu đãi chung vào ngày 4 tháng 6 với người nước Việt Đàng Trong trên bờ, nhân kỷ niệm sinh nhật vua nước Anh (2). Có thể là sự tình cờ, hoặc do sự nghi ngờ trước đó, hoặc muốn phô trương trong buổi chiêu đãi; trong buổi chiều hôm trước, thấy cảnh nhộn nhịp khác thường, quân lính được tăng cường trong thành phố, ngoài ra còn có vài voi chiến. Vì thế, về phần chúng tôi cũng thận trọng, đưa 2 lữ đoàn võ trang lên con sông đối diện với thành phố, giữ an toàn khi rút lui, nếu cần. Tuy nhiên, ngày đó trôi qua vui vẻ và hòa hợp.

Chúng tôi tiến hành dựng một nhà tạm thời tại chỗ bến thuyền, với tầm mức lớn hơn những cái trước đó. Những hàng cột bằng tre chống đỡ hai mái nhà, chạy dài ở giữa, chia căn nhà thành hai phần. Vách và mái che bởi chiếu kép dày, và được lót bông vải Manchester thô với nhiều hoa văn khác nhau. Những hoa văn này tuy có vẻ mới, nhưng đã hư hỏng, và có lẽ bị thị trường Trung Quốc từ chối, nên thương nhân Bồ Đào Nha mang đến đây. Trong căn phòng thứ nhất, có một bàn dài phủ khăn bàn linen; trên để dĩa, dao, nĩa theo kiểu phương Tây.

Người bạn Bồ Đào Nha của chúng tôi dường như muốn chuộc lỗi cho vết thương mà anh ta đã suýt gây ra, mặc dù có lẽ không ác ý gây ra cho chúng tôi; đã chiếm ưu thế đối với người nước Việt Đàng Trong để anh ta coi quản bữa tiệc. Anh ta kết luận rằng, đối với chúng tôi, ăn uống là cách chiêu đãi tốt nhất; anh có thể làm phù hợp với khẩu vị chúng tôi hơn, so với người nước Việt Đàng Trong. Với ấn tượng này, cư xử công bằng, anh ta đã không tiếc phải nhọc công, cũng như chi phí để giúp cho bữa tối hoàn chỉnh như hoàn cảnh cho phép. Do sự nhiệt thành không đúng chỗ, một buổi chiêu đãi tốt ở nước Việt Đàng Trong bị hư hại bởi buổi ăn tối dở của người Bồ Đào Nha.

Lúc mới vào căn nhà, một tình huống nhỏ xảy ra, làm các quan chức nước Việt Đàng Trong hơi lúng túng. Những người này trong nhiều dịp như thế, thường khoác y phục Trung Quốc, mang một màn lụa màu vàng, ghi chữ lớn tên của nhà mạo hiểm trẻ tuổi ở Huế. Dù họ cho rằng việc này là điều hiển nhiên, hoặc theo lời của Manuel Duomé, người Anh cũng coi vấn đề thường lệ tất nhiên phủ phục trước đức vua; chúng tôi không hỏi, nhưng rõ ràng là họ mong đợi điều đó, vì khi tướng chỉ huy ở Đà Nẵng ngồi để chân vắt chéo trên chiếc ghế dài với tư cách là người đại diện cho chủ nhân của mình, quan sát thấy chúng tôi đã cúi chào, rồi đi ra và ngồi vào chỗ của mình, bất chấp màn hình màu vàng, thì ông ta có vẻ rất bối rối và khó giữ bình tĩnh trong suốt phần ngày còn lại. Ông thất vọng khi không thực hiện được nghi thức chín lần lạy, dường như đang diễn ra trong tâm trí rằng ông đã bị đánh giá rất thấp bởi các quan chức đồng nhiệm. Ông ta ít chú ý đến cấp bật được nêu lên, chỉ muốn biết làm việc gì cho sứ quán; cho đến khi viên thông dịch Trung Quốc giới thiệu Đại úy pháo binh Parish người chỉ huy tổng quát những khẩu súng lớn, thì sự lưu ý của ông dấy lên, suốt buổi, hình như ông ta cho rằng viên Đại úy là kẻ nguy hiểm đáng gờm.

Tại phần phía xa của căn nhà, khi chúng tôi đi vào đúng lúc diễn viên hài đang diễn vở tuồng lịch sử. Nhưng khi chúng tôi ngồi xuống, thì họ ngừng diễn, bước ra trước mặt chúng tôi, khom mình và phủ phục chín lần; việc này chúng tôi đã cố ý bỏ qua trước vị quan và bức màn lụa vẽ tên. Sau nghi thức này, họ trở lại với công việc diễn kịch, liên tục duy trì tiếng ồn và nhộn nhịp suốt cả thời gian chúng tôi ở lại đó. Nhiệt độ lúc này là 81 độ [F] dưới bóng mát ngoài trời, và tối thiểu cao hơn 10 độ so với trong nhà.

Đám đông tràn vào xem người lạ mặt; tiếng cồng, tiếng trống, tiếng kèn, sáo thổi âm thanh nhộn nhịp cấp bách; cũng không có gì đáng kể, ngoài sự mới lạ của cảnh tượng có thể khiến chúng ta dừng lại trong giây lát. Phần trình diễn ít ồn ào trên sân khấu là phụ diễn của 3 thiếu nữ trẻ; một người có vẻ là diễn viên chính, trang phục và tính cách như một nữ hoàng cổ đại; cùng với một hoạn quan già, ăn mặc rất kỳ quặc, diễn những trò hề dáng điệu như con bọ hung hoặc gã hề trong trò giải trí Harlequin (3). Đàm thoại trong phần này khác hoàn toàn với giọng than van và đơn điệu như đọc bài của Trung Quốc, nhẹ nhàng và hài hước, thỉnh thoảng ngắt bởi tiếng cười vui vẻ, thường kết luận bởi bài hát đồng thanh. Những giai điệu này thô lỗ và không được trau chuốt, có vẻ như là một sáng tác đều đặn và được hát đúng nhịp một lần, đặc biệt thu hút sự chú ý của bạn, người có chuyển động buồn bã chậm rãi, thổi vào đó sự dịu dàng buồn thảm, đặc trưng của không khí bản địa của người Scotland, mà thật sự nó có sự giống nhau rất nhiều.

Cảnh trong một vở kịch ở nước Việt Đàng Trong mà tác giả mô tả. Ảnh chụp từ sách

Chú thích:

1. Dr. Johnson: Tức Samuel Johnson, sinh ngày 18/9/1709, mất ngày 13/12/1784. Ông là nhà văn nổi tiếng nước Anh, thường được gọi là Dr. Johnson.

2. George III: Tức George William Frederick, sinh ngày 4/6/1738, mất ngày 29/1/1820. George III là vua nước Anh và Ireland, trị vì từ ngày 10/25/1760 cho đến khi ông qua đời năm 1820.

3. Harlequin: Nam diễn viên sân khấu, mặt đeo mạng, với trang phục kiểu hình vẽ kim cương.

Bình Luận từ Facebook

BÌNH LUẬN

Xin bình luận ở đây
Xin nhập tên của bạn ở đây