Tâm Chánh
12-3-2025
Sáp nhập địa giới là một vấn đề phức tạp phải tạo ra sự ổn định xã hội lâu dài, nên phải thận trọng xác lập cơ sở pháp lý vững chắc cho nó.
Vì về cơ bản, đó là tổ chức lại không gian cư trú của con người, hay nói chữ nghĩa hoa mỹ là sắp xếp lại giang sơn. Thành bại không thể chỉ căn cứ vào việc đếm bao nhiêu cái ghế được cắt, bao nhiêu cán bộ bị giảm.
Nên không thể tiến hành ào ào như có dự kiến xong trước tháng 6 tháng 7 gì đó. Càng không thể tiến hành bằng tư duy “chỉ bàn làm, không bàn lùi” như xây một cái cầu, cất một cái trụ sở.
Không cần nghiên cứu cao siêu, tốn kém hay mất thời giờ nhiều lắm, chỉ cần sử dụng chatbot thì hiểu được đại khái các phức tạp trong quan hệ cộng đồng làng xã như trong một cú nhấp chuột dưới đây.
Không biết ráo riết sáp nhập, nhất là ở cấp cơ sở, “cấp có thẩm quyền” (một khái niệm thuần tuý chính trị, không có trách nhiệm pháp lý) có lượng định được các diễn biến phát sinh và hậu quả của nó.
“Cấp có thẩm quyền” giờ gồm nhiều nhân vật được giới thiệu là trưởng thành từ cơ sở nhưng liệu họ có trưởng thành từ những thực tế dưới đây không hay chỉ là thực tế của mấy phòng họp. Đừng nói đây là thực tế cũ, còn mới rợi như là thực tế người dân ở cơ sở hiến đất làm đường, mở hẻm. Đất ấy thành của ai là hợp lý và hợp pháp. Sau này có quy hoạch nào đó thì phần đất chênh lệch trước và sau hiến đó được xử lý như thế nào?
(Giới thiệu đã dài dưới đây là chép lại từ Grok 3 về các dạng tranh chấp giữa các cộng dồng làng xã trên vùng đất mới Nam bộ):
“Trong lịch sử làng xã nông thôn Nam Bộ, tranh chấp giữa các cộng đồng làng xã không chỉ tồn tại mà còn khá phổ biến, đặc biệt do đặc điểm địa lý, kinh tế và sự đa dạng văn hóa của khu vực. Những tranh chấp này thường xuất phát từ các mâu thuẫn về tài nguyên, ranh giới lãnh thổ, hoặc quyền lực xã hội giữa các làng xã.
Dưới đây là phân tích chi tiết:
1. Tranh chấp về ranh giới đất đai giữa các làng xã
– Nguyên nhân: Ở Nam Bộ, quá trình khai phá đất hoang diễn ra tự phát, không có sự phân định rõ ràng từ chính quyền trung ương trong giai đoạn đầu. Các làng xã hình thành dựa trên nhóm người di cư hoặc cộng đồng bản địa (như người Khmer), dẫn đến việc ranh giới giữa các làng thường mơ hồ.
* Biểu hiện:
– Các làng cạnh tranh đất đai màu mỡ, đặc biệt ở vùng phù sa ven sông hoặc vùng đất cao tránh ngập lụt.
– Xung đột xảy ra khi một làng mở rộng diện tích canh tác sang phần đất mà làng khác cho là của mình.
* Ví dụ: Ở các tỉnh như An Giang, Đồng Tháp, vào thời khai hoang (thế kỷ 18-19), tranh chấp ranh giới giữa các làng Việt mới thành lập và làng Khmer bản địa không hiếm.
2. Tranh chấp nguồn nước và tài nguyên thủy lợi
– Nguyên nhân: Nam Bộ phụ thuộc lớn vào hệ thống sông ngòi và kênh rạch cho sản xuất nông nghiệp (trồng lúa, nuôi cá…). Việc kiểm soát nguồn nước giữa các làng xã thường dẫn đến mâu thuẫn, đặc biệt trong mùa khô hoặc mùa nước nổi.
* Biểu hiện:
– Tranh chấp quyền sử dụng kênh rạch chung hoặc đập nước.
– Một làng chặn dòng chảy để ưu tiên nước tưới cho ruộng mình, gây thiệt hại cho làng khác.
* Ví dụ: Ở vùng Tứ giác Long Xuyên hoặc Cà Mau, các làng xã đôi khi xảy ra xung đột khi xây dựng hoặc phá bỏ hệ thống thủy lợi mà không có sự thỏa thuận chung.
3. Tranh chấp giữa các cộng đồng sắc tộc
– Nguyên nhân: Nam Bộ là nơi sinh sống của nhiều nhóm dân cư như người Việt, người Khmer, người Hoa, và người Chăm. Sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ và cách tổ chức cộng đồng dẫn đến mâu thuẫn giữa các làng xã thuộc các sắc tộc khác nhau.
* Biểu hiện:
– Tranh chấp đất đai giữa làng Việt và làng Khmer, đặc biệt ở vùng biên giới Tây Nam (thời kỳ người Việt Nam tiến vào khai phá).
– Xung đột về quyền sử dụng chợ, bến sông giữa làng Việt và làng Hoa (người Hoa thường nắm vai trò thương mại).
* Ví dụ lịch sử: Vào thế kỷ 19, ở khu vực Bảy Núi (An Giang), có ghi chép về mâu thuẫn giữa các làng Việt mới di cư và các phum sóc Khmer bản địa liên quan đến đất đai và quyền kiểm soát vùng rừng núi.
4. Tranh chấp quyền lực và ảnh hưởng xã hội
– Nguyên nhân: Trong hệ thống làng xã Nam Bộ, các hào lý, hương chức thường đại diện cho quyền lực của làng. Khi hai làng xã cạnh tranh vị thế (ví dụ: quyền quản lý chợ, tổ chức lễ hội chung), mâu thuẫn có thể nảy sinh.
* Biểu hiện:
– Tranh giành quyền tổ chức lễ hội đình làng hoặc lễ hội chung của vùng.
– Cạnh tranh vai trò trung gian giữa dân chúng và chính quyền (thời Pháp thuộc, một số làng muốn độc quyền giao dịch với quan Tây).
* Ví dụ: Ở vùng Gia Định xưa, các làng lớn như làng Tân An và làng Bình Hòa từng xảy ra tranh chấp về quyền kiểm soát chợ và bến đò.
5. Tranh chấp liên quan đến kinh tế và thương mại
– Nguyên nhân: Nam Bộ phát triển kinh tế hàng hóa sớm, với các làng xã tham gia sản xuất lúa gạo, thủy sản để bán ra thị trường. Sự cạnh tranh kinh tế giữa các làng đôi khi dẫn đến xung đột.
* Biểu hiện:
– Tranh chấp quyền sử dụng bến sông, bến chợ để giao thương.
– Một làng cố gắng ngăn cản làng khác tiếp cận thương lái hoặc thị trường lớn hơn.
* Ví dụ: Ở vùng Cần Thơ, các làng ven sông Hậu đôi khi mâu thuẫn vì quyền ưu tiên bán lúa cho thương lái người Hoa.
Đặc điểm chung của tranh chấp giữa các làng xã:
– Tính tự phát: Do chính quyền trung ương (thời Nguyễn) hoặc thực dân Pháp không quản lý chặt chẽ ở cấp làng xã, các tranh chấp thường được giải quyết nội bộ hoặc qua xung đột trực tiếp.
– Hòa giải cộng đồng: Nhiều trường hợp, các làng xã nhờ đến sự trung gian của lý trưởng, hương cả hoặc thậm chí các lãnh tụ tôn giáo (như Hòa thượng, linh mục) để dàn xếp.
– Ảnh hưởng lâu dài: Một số tranh chấp kéo dài qua nhiều thế hệ, tạo ra thù hằn giữa các cộng đồng.
Kết luận:
Tranh chấp giữa các cộng đồng làng xã ở Nam Bộ là một phần tất yếu trong quá trình hình thành và phát triển vùng đất này. Chúng phản ánh sự cạnh tranh tài nguyên, sự đa dạng văn hóa, và tính tự trị cao của các làng xã trong bối cảnh lịch sử.
“Cấp có thẩm quyền” phải giải các thực tế này như thế nào và trong bao lâu nếu nó phát sinh?
Voi Y TUONG DON THUAN ” SAT NHAP TINH GON ” cho muc dich ” LAM CHO NHE va GIAM CHI TIEU CHO BO MAY HANH CHINH QUA CONG KENH ” ma KHONG / CHUA NGHIEN CUU KY LUONG CAC HAU QUA XA HOI PHAT SINH hay TRAC TRO DIEU HANH O DIA PHUONG nhu HIEN NAY thi CHAC CHAC VIEC ” TINH GON ” NAY SE SINH RA LON XON va XAO TRON XA HOI LAU DAI.
Vi vay, viec nay CO THE SE DAN DEN THAT BAI CUOI CUNG.
Truoc het la BO MAY CAN BO CAO CAP cua DCSVN SE BI PHAN HOA TRAM TRONG giua ” KE MANH THE ” va ” KE YEU THE ” de sinh ra THU GHET va PHA DAM LAN NHAU.
Hay ” Wait And See “,
Tinh giản bộ máy hành chính là cần thiết . Nhưng với tinh thần ” vừa chạy vừa xếp hàng” thì quy trình sáp nhập, tinh gọn các đơn vị hành chính cấp tỉnh, xã, bỏ huyện rất khó thành trong thời gian vài 3 tháng . E rằng xáo trộn quá nhanh sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh tế và đời sống XH .
Đảng lãnh đạo tuyệt đối- tức tuyệt đối có quyền làm gì theo ys đảng. Tất cả các tổ chức do đảng lập ra để phục vụ đảng là chinhs . Vì vây, ys kiến cacs tổ chức luôn luôn theo chir đạo của đảng! Bất kỳ ai có ys kiến khác điều vô dụng – có khi conf tai họa!
Bầu thằng Grok 3 làm Chủ Tịch Hành Tinh, thiên hạ không khéo lại “đại định” ấy chứ lị.
Hóng hớt ở Trà Đá Vỉa Hè:
An Giang+Đồng Tháp, Bà Rịa Vũng Tàu+Bình Thuận, Bắc Giang+Bắc Ninh, Bến Tre+Vĩnh Long, Bình Định+Quảng Ngãi, Cà Mau+Bạc Liêu, Đà Nẵng+Quảng Nam, Đắc Lắk+Đắc Nông, Điện Biên+Lai Châu, Gia Lai+Kon Tum, Hà Tĩnh+Quảng Bình, Hải Dương+Quảng Ninh, Hải Phòng+Thái Bình, Huế+Quảng Trị, Hưng Yên+Hà Nam, Khánh Hòa+Phú Yên, Kiên Giang+Hậu Giang, Lạng Sơn+Cao Bằng, Lâm Đồng+Ninh Thuận, Long An+Tiền Giang, Phú Thọ+Vĩnh Phúc, Sóc Trăng+Trà Vinh, Sơn La+Hòa Bình, Tây Ninh+Bình Phước, Thái Nguyên+Bắc Cạn, Tuyên Quang+Hà Giang, Yên Bái+Lào Cai, Cần Thơ, Bình Dương, Đồng Nai, Hà Nội, Hồ Chí Minh, Nghệ An, Thanh Hóa.
Chờ xem diễn văn biến.
Sót. Nam Định+Ninh Bình.
Chuyện từ 150 năm trước không giống ngày nay.
Ngày nay, nhiều câu hỏi mới phát sinh và phải lường trước.
Ví dụ, không còn cấp huyện, số tỉnh và số xã (do hợp nhất) chỉ còn một nửa… Vậy, mỗi tỉnh quản lý tới 150 xã, quản lý thế nào?