Nguyên nhân VNCH sụp đổ ngày 30-4-1975 (Kỳ 5)

Trương Nhân Tuấn

6-4-2024

Tiếp theo kỳ 1kỳ 2kỳ 3 và kỳ 4

Kỳ 5: Vấn đề tham nhũng – Phê bình sự lý giải của điệp viên Frank Snepp về lý do “vì sao Mỹ bỏ rơi VNCH”

Tôi có theo dõi các bài phỏng vấn điệp viên Frank Snepp do BBC thực hiện. Bài cuối cùng nói về nguyên nhân “vì sao Mỹ bỏ rơi VNCH”.

Theo Frank Snepp: “Kissinger và Nixon cùng nghĩ ra chiến lược bỏ rơi Việt Nam mà trên thực tế họ đã thực hiện. Năm 1969, Kissinger và Nixon đến nhậm chức tại Nhà Trắng. Họ là một cặp đôi, trong đó Nixon là tổng thống. Họ hứa đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, đó là lời hứa với người dân Hoa Kỳ khi tranh cử”.

Tôi chia sẻ nhận xét này của Frank Snepp. Nixon đắc cử tổng thống Mỹ tháng 9 năm 1968, nhậm chức tháng giêng 1969, nhờ các hứa hẹn sẽ “kết thúc chiến tranh Việt Nam” và đem lại “hòa bình trong danh dự” cho nước Mỹ.

Sau cuộc “tổng tiến công và nổi dậy” trong Tết Mậu thân 1968, quần chúng Mỹ đa số chống chiến tranh Việt Nam, cũng như dư luận thế giới không thuận lợi cho sự can thiệp của quân đội Mỹ vào nội tình Việt Nam.

Học thuyết Nixon ra đời năm 1969, với “quân sư” là Henry Kissinger. Mục tiêu học thuyết là “hòa Trung chống Xô”, sau khi nhận thấy có sự rạn nứt nghiêm trọng trong khối cộng sản giữa Trung Quốc và Liên Xô (do những xung đột trên vùng biên giới).

Tuy nhiên tôi không chia sẻ với Frank Snepp về ý kiến Nixon “cống hiến Việt Nam cho Bắc Kinh để Trung Quốc cởi mở hơn và làm bạn với Hoa kỳ”.

Thực tế chỉ ra rằng, nếu Nixon muốn có “một khoảng thời gian hợp lý” để rút khỏi Việt Nam thì Mao chỉ muốn một “khoảng cách hợp lý” giữa hai vùng ảnh hưởng Mỹ-Trung.

Mâu thuẫn Trung-Xô khiến Bắc Kinh dễ dãi trong cách tiếp cận với Mỹ. Trong khi Trung ương đảng CSVN khai sinh chính sách “đi dây” giữa hai “đồng chí anh em Liên Xô và Trung Quốc”.

Từ năm 1965 đến 1969, viện trợ quân sự của Liên Xô cho miền Bắc từ 4 đến 5 tỉ đô la, trong khi viện trợ của Trung Quốc chỉ còn 20% con số viện trợ của Liên Xô. Liên Xô giúp cho Bắc Việt nhiều thứ vũ khí tối tân hơn vũ khí của Mỹ viện trợ cho VNCH. Miền Bắc tách dần khỏi quỹ đạo Trung Quốc, trở thành vệ tinh của Liên Xô, trong khi đó Lào và Campuchia trung lập. Trung Quốc tưởng chừng không còn điểm nắm tại Đông Dương.

Từ sau Hiệp định Genève 1954, Bắc Kinh không hề muốn Bắc Việt Nam thành công trong sự nghiệp “giải phóng miền Nam” mà chỉ muốn một Việt Nam bị phân chia, miền Bắc phục tùng Trung Quốc. Trung Quốc chỉ muốn Việt Nam (và Triều Tiên) không bao giờ thống nhứt. Một Việt Nam (và Triều Tiên) chia rẽ và chiến tranh luôn có lợi cho Bắc Kinh.

Sau biến cố Mậu Thân, Hội nghị Paris được mở (tháng 5-1968). Trung Quốc lo ngại Washington và Moscow thỏa thuận một “giải pháp Việt Nam” mà Trung Quốc đứng ngoài. Trung Quốc tìm mọi cách phá hoại Hội nghị bằng cách thúc đẩy CS Bắc Việt gia tăng cường độ chiến tranh.

Trần Nghị, bộ trưởng bộ ngoại giao Trung Quốc gặp đại diện Việt Nam tháng 10-1968, đe dọa chấm dứt ngoại giao nếu Việt Nam “chấp nhận 4 bên đàm phán”. Trung Quốc cho rằng, như thế là giúp Johnson thắng cử, làm kéo dài sự “đô hộ của dân miền Nam dưới gót giầy đế quốc Mỹ!” (sic!).

Năm 1969, Trung Quốc đặt vấn đề với CSVN: Thế Việt Nam muốn đánh hay hòa để Trung Quốc tính việc viện trợ? Viện trợ của Trung Quốc năm 1969 sụt 20% so với năm 1968.

Tức là do lo ngại đàm phán của ba nước Việt-Xô-Mỹ có thể gây bất lợi, Trung Quốc thúc đẩy Hà Nội lên thang chiến tranh. Trung Quốc cho rằng, Việt Nam dùng viện trợ của Trung Quốc đánh Mỹ, nhằm mục tiêu đàm phán với Mỹ thì viện trợ của Trung Quốc không có ý nghĩa.

Hiển nhiên, quyết tâm của Trung Quốc khiến Nixon không thể thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Washington cũng nắm được ý đồ của Trung Quốc. Mỹ nhận thấy không thể thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” nếu không có sự đồng thuận của Trung Quốc. Vì thế, con đường “Việt Nam hóa chiến tranh” của Nixon bắt buộc phải đi qua Bắc Kinh.

Qua các cuộc đi đêm và ngoại giao “bóng bàn” với Washington, Bắc Kinh thiết lập lại cầu nối với Mỹ. Từ đó ta thấy, Bắc Kinh làm áp lực hiệu quả lên Hà Nội để Mỹ rút quân khỏi Việt Nam bình an. Đổi lại, Mỹ nhìn nhận Bắc Kinh là đại diện chính thức của Trung Quốc tại LHQ, thay vì nhà nước Quốc Dân đảng ở Đài Bắc, đồng thời hứa giúp Trung Quốc phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật.

Mỹ không thể “cống hiến” Việt Nam cho Trung Quốc, như Frank Snepp nói. Việt Nam có vào lọt vòng ảnh hưởng của Trung Quốc hay không còn tùy thuộc vào sức mạnh và ý chí đảng CSVN, cũng như tương quan lực lượng giữa Trung Quốc và Liên Xô đối với Bắc Việt Nam. Không phải chỉ có duy nhứt Trung Quốc là “đỡ đầu” cho Bắc Việt Nam.

Thực tế cho thấy, Học thuyết Nixon đã “ứng nghiệm”. Cộng sản lục địa thay chỗ Quốc dân đảng ở LHQ, và Mỹ rút quân một cách “an toàn” ra khỏi Việt Nam.

Thực tế cũng cho thấy, sau 1973, “khi đồng minh tháo chạy” khỏi miền Nam Việt Nam, đảng CSVN hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của Bắc Kinh và ngả vào Liên Xô. Sau 1975, Việt Nam trở thành “tên xung kích vô sản sừng sỏ” vùng Đông Nam Á của đế quốc cộng sản Liên Xô.

Và thực tế cho thấy, cam kết của Nixon về chiến tranh Việt Nam không đem lại cho Mỹ “danh dự”, cũng như cho châu Á một nền “hòa bình”, đúng như tựa đề quyển sách “No peace, No honor” của Larry Berman.

Tức là sự lý giải của Frank Snepp về việc Mỹ “nhượng” Việt Nam cho Trung Quốc là hoàn toàn không có căn cứ. Chỉ có Nixon và Kissinger “bán đứng” VNCH cho CS Bắc Việt mà thôi.

Điều mâu thuẫn trong sự lý giải của Frank Snepp về nguyên nhân sự sụp đổ nhanh chóng của VNCH, Frank Snepp nói rằng: “Tôi nghĩ những người bạn Việt Nam thân yêu của tôi không đúng khi đổ lỗi sự sụp đổ nhanh chóng của VNCH cho Hoa Kỳ… Việc thất trận của VNCH đến từ những lý do gần nhà hơn.”

Những lý do “gần nhà”, theo ông Frank Snepp, “thứ nhất, viện trợ không thể đến kịp thời để cứu miền Nam Việt Nam. Thứ hai, hệ thống hậu cần của VNCH đã bị tham nhũng lũng đoạn, khó có thể tiếp thu và triển khai thêm vật liệu một cách hiệu quả. Và, cuối cùng, các cấp tư lệnh Nam Việt Nam vì lo xa không muốn để vũ khí thặng dư gần tiền tuyến, phòng khi Cộng sản tràn vào, mà cất chúng ở xa. Vì vậy, khi cộng sản tấn công vào Quân khu 1, họ cạn kiệt đạn dược và không có một kho dự trữ đủ gần để có thể đến lấy, trước khi bị Cộng sản tiến chiếm“.

Mâu thuẫn của Frank Snepp là ông đã nhìn nhận “viện trợ (Mỹ cho VNCH) không thể đến kịp thời” và ông cũng biết rõ ý định của Nixon và Kissinger là “bỏ Việt Nam”.

Viện trợ đến trễ, cũng như bịnh nhân nghẹt thở mà oxygen đến trễ. Thì có khác gì cúp viện trợ đâu?

Khi đã quyết định “bỏ Việt Nam” và cúp viện trợ thì mọi lý lẽ nhằm quy trách nhiệm sụp đổ VNCH do nội bộ VNCH đều chỉ là ngụy biện. Quốc hội Mỹ thời đó có câu “không bỏ thêm một xu cho chiến tranh Việt Nam”.

Mỹ bỏ Đài Loan nhưng dầu sao xứ này có luật Taiwan Relations Act bảo vệ. Còn Mỹ bỏ VNCH đơn thuần như bỏ một cái áo rách.

Thời điểm trước “chiến dịch mùa xuân 1975”, bắt đầu tháng 12 năm 1974, số đạn dược, súng ống, xăng dầu, xe cộ… của VNCH còn lại là bao nhiêu? Đủ để quân VNCH “cầm cự” bao lâu?

Lúc Trung Quốc đánh Hoàng Sa (tháng giêng năm 1974), phi cơ VNCH đã không có xăng để bay ra bỏ bom. Khi Mỹ “tháo chạy” năm 1973, xe cộ bỏ lại hàng hà sa số. Hầu hết đều “bỏ xó”, không sử dụng được vì không có xăng dầu và phụ tùng thay thế.

Tại các tiền đồn, từ cuối năm 1974, pháo binh của VNCH đã không đủ đạn để bắn giải vây hay yểm trợ cho các đơn vị hành quân.

Frank Snepp cũng nói rằng: “Công bằng mà nói, Nixon không có lựa chọn nào khác vì Hoa Kỳ và VNCH đã không đánh bại được Bắc Việt”.

Cho rằng ngay cả lính Mỹ và lính VNCH hợp lại cũng “không đánh bại” CSVN mà điều này chưa chắc. Đánh “kiểu Mỹ”, từ Việt Nam qua Iraq cho tới Afghanistan… Mỹ đều thua.

Thực tế cho thấy, hoàn toàn khác với lý giải của Frank Snepp, quân VNCH không thua, họ chỉ “buông súng” khi đã hết đạn (và khi có lịnh từ Dương Văn Minh). Bộ đội miền Bắc hay lính Cộng hòa miền Nam đều là người Việt. Họ đều có “lá gan” như nhau. Mỹ “tháo chạy” năm 1973. Quân VNCH một mình chống chọi lại đạo quân mà Frank Snepp thú nhận Mỹ “không đánh lại”, cho tới tháng Tư năm 1975.

Còn lý do Frank Snepp cho rằng, VNCH sụp đổ vì lý do hàng ngũ lãnh đạo VNCH “tham nhũng”. Đa số lãnh đạo thượng tầng của VNCH đều chạy thoát và tị nạn bên Mỹ. Ông Frank Snepp có thể chỉ ra ai là người qua Mỹ sống bằng tiền tham nhũng?

Mỹ thua và bỏ chạy vì nhiều lý do mà lý do chính là Mỹ đánh giặc kiểu “nhà giàu”. VNCH sụp đổ vì bị Mỹ ép “đánh giặc theo kiểu nhà giàu”.

Mỹ rút Afghanistan, quân Mỹ còn ở Kabul mà quân chính phủ thân Mỹ đã “buông súng” và Taliban đã chiếm toàn bộ lãnh thổ. Mỹ thoát thân ra khỏi Kabul dưới họng súng “bảo vệ” của quân Taliban mà Mỹ thề thốt phải tiêu diệt.

Mỹ sẽ tiếp tục thua nếu vẫn tiếp tục đánh giặc kiểu quăng tiền ra cửa sổ.

Vì sao Mỹ thua ở chiến tranh Việt Nam?

Theo tôi, Mỹ thua, kéo theo VNCH sụp đổ, có hai lý do chính và một lý do phụ. Lý do thứ nhứt, Mỹ thua vì không thể xây dựng được quốc gia VNCH (Nation and State Building).

Sau 1954, Mỹ thay thế Pháp vào miền Nam với danh nghĩa giúp VNCH “Xây dựng Quốc gia – State Building”. Ý định xây dựng một quốc gia tên gọi South Viet Nam của Mỹ, có thể gọi là Nam Việt Cộng hòa quốc, hay Nam Việt Dân quốc, với ranh giới, lãnh thổ và dân chúng xác định từ vĩ tuyến 17, là một “quốc gia thất bại”, ngay từ trong ý định.

Hiệp định Genève 1954 là một hiệp ước giữa Pháp và Việt Minh nhưng Hội nghị Genève 1954 là một Hội nghị quốc tế (tương tự Hội nghị San Francisco 1951), có giá trị pháp lý “ràng buộc”. Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị được các đại cường bảo kê. Điều khoản quan trọng là: Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhứt ba miền Bắc, Trung, Nam và toàn vẹn lãnh thổ. Vĩ tuyến 17 chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời. Trong mọi trường hợp không thể diễn giải nó như là ranh giới chính trị”.

Mỹ và VNCH không nhìn nhận mọi văn bản của Hội nghị Genève. Vấn đề là Mỹ và VNCH “đồng sàng dị mộng”. Mỹ quan niệm VNCH là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, với lãnh thổ, dân chúng và ranh giới được xác định từ vĩ tuyến 17. Nhưng quan điểm của VNCH, khi phản đối Hiệp định Genève 1954, là chống phân chia lãnh thổ, tức đối nghịch với lập trường của Mỹ.

Nỗ lực của Mỹ “xây dựng quốc gia Nam Việt Nam” có thể kiểm nhận qua tập tài liệu “Why Vietnam?” của The White House, Washington, D.C., 20 août 1965. Hồ sơ này có thể coi là tập “sách trắng” của Mỹ nhằm giải thích lý do, trước dư luận quốc tế và nhân dân Mỹ, vì sao người Mỹ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam.

Từ năm 1960, qua những bức thư Tổng thống Eisenhower gởi ông Diệm, ta thấy người Mỹ đã có quan niệm miền Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Quốc gia đó tên gọi “South Vietnam”. Tổng thống Eisenhower cảnh báo ông Diệm bằng thư riêng ngày 26 tháng 10 năm 1960: “Cộng sản miền Bắc đã và đang sử dụng vũ lực để khuynh đảo chính trị và phá hoại nền tự do của quốc gia South Vietnam”.

Sang đến đời Tổng thống Kennedy, cũng theo tài liệu “Why Vietnam?”, dẫn lá thư ngày 14 tháng 12 năm 1961 của Tổng thống Kennedy đã gởi cho ông Diệm, nội dung cảnh báo: “Các cuộc tấn công bằng vũ lực hay các cuộc khủng bố chống lại nhân dân và chính quyền trên đất nước của quý ngài trong thời gian qua được sự ủng hộ và lãnh đạo của ngoại bang là cộng sản Hà Nội”.

Cũng trong tập tài liệu đã dẫn, tháng tư năm 1965, TT Johnson còn đi xa hơn trong lập luận VNCH là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”: “Miền bắc Việt Nam đã tấn công một quốc gia độc lập có chủ quyền là miền Nam Việt Nam”.

Nhiều lần tập tài liệu trích dẫn ý kiến lãnh đạo Mỹ, theo đó Mỹ đổ bộ vào Việt Nam “không có một tham vọng nào về lãnh thổ” mà chỉ bảo vệ “quyền” của nhân dân miền Nam Việt Nam. “Quyền” này thể hiện qua sự “lựa chọn tương lai của dân tộc Việt Nam bằng lá phiếu và các cuộc bầu cử tự do”.

Tài liệu cũng dẫn những cam kết của các lãnh đạo Mỹ: “Đến khi nào mà Mỹ còn có thể ngăn cản, thì không có một thế lực nào có thể khuất phục dân tộc Nam Việt Nam bằng vũ lực hay bằng khủng bố”.

Người Mỹ cố gắng xây dựng “quốc gia Nam Việt nam”, sao cho sự tham gia của Mỹ vào cuộc chiến Việt Nam phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc, ở các điều “quyền được can dự vào chiến tranh”, điều 51 về “quyền tự vệ chính đáng”, và giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.

Nhưng Mỹ và VNCH “đồng sàng dị mộng”. Hiến pháp VNCH đến ngày cuối cùng vẫn khẳng định lãnh thổ Việt Nam từ Nam Quan đến Cà Mau.

Mỹ ký Hiệp định Paris 1973, khẳng định Mỹ nhìn nhận hiệu lực của Hội nghị Genève 1954. Tức là, Mỹ nhìn nhận “quốc gia Việt Nam độc lập, thống nhứt ba miền lãnh thổ bất khả phân chia” “vĩ tuyến 17 chỉ là ranh giới tạm thời sử dụng cho quân sự. Trong mọi trường hợp không thể diễn giải như là đường ranh giới chính trị”.

Chiến tranh Việt Nam từ đó trở thành một cuộc “nội chiến”.

Từ khi Mỹ can dự vào chiến tranh Việt Nam, dư luận thế giới dựa vào nội dung Hội nghị Genève 1954 lên án Mỹ “xâm lược”. Mọi nỗ lực của Mỹ xây dựng “quốc gia” tên gọi “Nam Việt Dân quốc” hay “Nam Việt cộng hòa quốc” đều thất bại.

Không thuyết phục được các lãnh đạo VNCH tuyên bố “quốc gia độc lập”, từ ông Diệm đến ông Thiệu. Điều này dẫn đến việc Mỹ thua về pháp lý. Thất bại về quân sự và chính trị chỉ còn là thời gian.

Quân đội Mỹ không còn lý do chính đáng nào để ở lại Việt Nam.

Thất bại trong việc “xây dựng quốc gia” VNCH. Mỹ không còn ở Việt Nam, ngọn cờ “mặt trận giải phóng” mất đi hiệu lực, cũng như lời hô hào “chống Mỹ cứu nước” không còn thuyết phục.

Nhưng miền Bắc vẫn còn có lý do “thống nhứt đất nước” để chiếm miền Nam. Mỹ rút nhưng chiến tranh Việt Nam vẫn còn lý do tiếp diễn.

Thứ hai, Mỹ không tạo được lý do hợp pháp (và thuyết phục) – jus ad bellum – để can dự vào chiến tranh Việt Nam. Điều này trực tiếp đến từ việc thất bại xây dựng quốc gia “South Viet Nam – Nam Việt cộng hòa quốc”.

Jus ad Bellum: Chiến tranh Iraq, Mỹ lấy lý do Saddam Hussein “làm bom nguyên tử” để can thiệp. Chiến tranh Afghanistan Mỹ can dự vì biến cố 11 tháng 9. Chiến tranh Triều Tiên, Mỹ dẫn đầu quân đội đồng minh “cứu giá” Nam Hàn qua một Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ.

Chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ hàng trăm ngàn người đổ bộ vô bãi biển Đà Nẵng năm 1965 mà không thông qua bất kỳ một kết ước nào với chính phủ VNCH. Chuyện xảy ra giữa lúc các tướng lãnh VNCH đang tranh giành quyền lực ở Sài gòn. Người Mỹ mượn tay “lính đánh mướn” giết ông Diệm năm 1963. Từ thời điểm ông Diệm chết cho đến năm 1965, VNCH như rắn không đầu.

Cũng không có cuộc trưng cầu dân ý nào, cho dầu “lấy lệ”, để “hợp thức hóa” sự hiện diện quân Mỹ ở miền Nam. Sự hiện diện “không lý do chính đáng” của quân Mỹ ở miền Việt Nam khiến quân Mỹ trở thành một thứ “quân xâm lược”, không chỉ dưới mắt của phe cộng sản mà cả ở phe đồng minh của Mỹ.

Sự hiện diện của Mỹ đã tạo cho VNDCCH có lý do chính đáng thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam. MTGPMN có lý do chính đáng để “đánh Mỹ xâm lược”.

Tại sao Bắc Hàn không thành lập mặt trận “đánh Mỹ cứu nước” giải phóng Nam Hàn? Tại sao dân Nhật không nổi dậy lập mặt trận “chống quân Mỹ xâm lược”? Đơn giản là tại vì sự hiện diện của quân Mỹ ở các nơi đây là “chính đáng”, được bảo kê bằng những hiệp ước ký kết giữa hai chính phủ hợp pháp và có giá trị “quốc tế”.

Rốt cục, “đồng minh tháo chạy” năm 1973. Mỹ vô Việt Nam không theo nguyên tắc pháp lý nào, thì khi Mỹ rời khỏi Việt Nam cũng không có gì ràng buộc.

Chiến tranh Việt Nam, từ cuộc chiến “quốc tế”, nước này xâm lược nước kia, trở thành một cuộc “nội chiến”.

Và khi Mỹ nhìn nhận chiến tranh Việt Nam là cuộc “nội chiến”, sau khi Mỹ rút, các bên Việt Nam có quyền đòi Mỹ “bồi thường chiến tranh”, vì những tàn phá vật chất, cũng như sinh mạng do bom đạn của Mỹ gây ra trên đất nước Việt Nam.

Sai lầm từ đầu là người Mỹ luôn coi VNCH là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”, với lãnh thổ, dân chúng và đường ranh giới được xác định là vĩ tuyến 17.

Mỹ không nhìn nhận Hiệp định Genève 1954 và không công nhận VNDCCH. Mỹ thiết lập bang giao với Việt Nam từ năm 1950.

Chiến tranh Việt Nam dưới mắt người Mỹ là “chiến tranh quốc tế”, xảy ra giữa hai quốc gia VNVH và VNDCCH. Quốc gia VNDCCH “xâm lược” VNCH.

Nhưng Mỹ đổ quân vô Nam Việt Nam, một “quốc gia độc lập có chủ quyền”, như vô nhà không chủ. Mỹ “ngồi xổm” lên Hiến chương LHQ, một thứ “luật quốc tế” do Mỹ và đồng minh soạn thảo ra.

Rốt cục Mỹ phải nhìn nhận hiệu lực Hiệp định Genève 1954. Tức là Mỹ đã thua. Chiến tranh Việt Nam không phải là chiến tranh quốc tế, nước này xâm lăng nước kia. Quyền “tự vệ đa phương” theo Hiến chương LHQ không được xác lập.

“Jus ad Bellum – quyền được can dự vào chiến tranh” của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam không thể chứng minh. Mỹ bỏ chạy và không có một lý do (hợp lệ) nào để trở lại Việt Nam nữa, ngay cả khi VNCH sụp đổ. Bởi vì chuyện VNCH trụ được theo thời gian hay sụp đổ tức thời là chuyện “nội bộ” của Việt Nam.

Thứ ba, do yếu tố nội tại VNCH. Các lãnh đạo VNCH, từ ông Diệm đến ông Thiệu, đều không có ý thức rằng, khi “tư cách pháp nhân quốc gia” của “Repuplic of South Viet Nam” hay Việt Nam Cộng hòa chưa được xác lập, VNCH không thể ngang hàng ký kết với Mỹ các hiệp ước an ninh hỗ tương, đã đành. VNCH cũng không thể gia nhập bất cứ một “liên minh quân sự” nào cả.

Liên minh SEATO, nói là “Liên phòng Đông Nam Á”. VNCH thuộc Đông Nam Á, mà chiến tranh Việt Nam là nguyên nhân thành lập SEATO. Nhưng VNCH không được gia nhập liên minh này.

Tư cách gia nhập các liên minh quân sự là “pháp nhân quốc gia” mà tư cách pháp nhân này VNCH còn khiếm khuyết.

Hiến chương LHQ cho phép một “quốc gia không phải là thành viên LHQ” trở thành thành viên của Tòa Công lý Quốc tế hay gia nhập vào các tổ chức quốc tế thuộc LHQ.

Suốt cuộc chiến 1954-1975, VNCH không hề được Hiến chương LHQ bảo vệ.

VNCH cũng không thể trở thành “thành viên” của Tòa Công lý quốc tế. Vụ Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa mà VNCH bó tay, không thể kiện cáo đi đâu được. Đơn giản vì tư cách pháp nhân “quốc gia” của VNCH chưa được xác định.

Mỹ đổ quân vào miền Nam, dưới cái nhìn của nhiều người Việt là chống làn sóng đỏ cộng sản bằng cách biến miền Nam thành một “thành trì” bảo vệ “tự do”.

Quốc gia không có thì “chính nghĩa quốc gia” không có.

Cuộc chiến Bắc Nam chưa bao giờ quân dân miền Nam được giáo dục để “bảo vệ lãnh thổ quốc gia” hay để “bảo vệ quốc gia chống cộng sản xâm lăng”. Khẩu hiệu “Tổ quốc – Danh dự – Trách nhiệm” hay và đẹp biết bao nhiêu. Vấn đề là VNCH không xác định được “tổ quốc” của VNCH là gì? Nếu Tổ quốc VNCH bao gồm luôn miền Bắc thì mọi hô hào, mọi vận động chống Việt Cộng đều hoài công.

Người ta chỉ nghe các khẩu hiệu hết sức là vô nghĩa như “chống Cộng”, “bảo vệ tự do” hoặc các biểu ngữ “bêu xấu cộng sản”. Không ăn thua! Chế nhạo rằng “bảy thằng Việt Cộng đu nhánh đu đủ không gãy”… là không ăn thua.

Khi người nông dân tiếp tế cho Việt Cộng thì trước sau gì VNCH cũng thua. Việt Cộng là “giặc”, tiếp tế cho Việt Cộng là “giặc”. Rốt cục toàn bộ nông dân Việt Nam trở thành kẻ thù. Sai lầm! Bom đạn nào có thể tiêu diệt hết nông dân Việt Nam?

Mà không chỉ người nông dân. Mọi tầng lớp trong xã hội như sinh viên học sinh, nhà báo, nhà tu, chính trị gia v.v… đều có người ủng hộ Việt Cộng và chống VNCH.

Hiến pháp VNCH luôn khẳng định lãnh thổ Việt Nam “từ Nam quan đến mũi Cà Mau” thì tổ quốc VNCH cũng là tổ quốc chung cho mọi người Việt Nam, bao gồm miền Bắc. VNCH không phải, hay chưa phải là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”.

Đã đành VNCH là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế trực thuộc LHQ. Vấn đề là VNCH “kế thừa” vị thế thành viên này từ Quốc Gia Việt nam (hành lập năm 1949), với lãnh thổ từ Nam Quan đến Cà Mau. Tức đại diện luôn cho miền Bắc.

Điều mà lãnh đạo VNCH không chịu nhìn thấy là khi còn quan niệm lãnh thổ từ Nam Quan đến Cà Mau thì miền Bắc có quyền trương ngọn cờ “thống nhứt đất nước”. Mỹ rút chỉ giải quyết được vấn đề “chống Mỹ cứu nước” (mà không giải quyết được chủ trương “thống nhứt đất nước” của miền Bắc). VNCH sụp đổ chỉ là sớm hay muộn.

Lãnh đạo VNCH đa số xuất thân miền Bắc vĩ tuyến 17. Không ai muốn VNCH độc lập. Những người này không thấy Đông và Tây Đức, hai quốc gia độc lập, đã thống nhứt ra sao.

Tình hình “tự trói tay chân” như vậy mà đến 30 tháng 4 năm 1975 VNCH mới sụp đổ, thì quân VNCH phải là quân thiện chiến hàng đầu thế giới.

Bình Luận từ Facebook

5 BÌNH LUẬN

  1. “nếu Nixon muốn có “một khoảng thời gian hợp lý” để rút khỏi Việt Nam thì Mao chỉ muốn một “khoảng cách hợp lý” giữa hai vùng ảnh hưởng Mỹ-Trung.”
    Nixon chỉ muốn Việt Nam Hoá chiến tranh, nghĩa là, một chương trình tuần tự rút quân Mỹ và trao trả trách nhiệm chống CSBV lại cho VNCH, không bao giờ nói đến “một khoảng thời gian hợp lý”. Đây là một khái niệm của Kissinger khi đề cập đến khoảng thời gian từ lúc ký kết Hiệp định Paris 1973 cho đến khi VNCH sụp đổ là cần phải có cách biệt hợp lý, Kissinger tiên đoán là khoảng 1 năm rưởi. Trong suốt thời kỳ Kissinger họp mật với CSBV, Nixon không theo dõi trực tiếp và không tuyên bố như vậy. Gán cho Nixon nói câu này là sai, không có sách vở nào chứng minh.Tác giả không thể thuyết phục về lập luận này.

  2. “Lãnh đạo VNCH đa số xuất thân miền Bắc vĩ tuyến 17. Không ai muốn VNCH độc lập. Những người này không thấy Đông và Tây Đức, hai quốc gia độc lập, đã thống nhứt ra sao.”
    Đây là một lập luận thiếu dẫn chứng. Hầu hết giới lãnh đạo VNCH trong chính quyền và quân đội là do Pháp đào tạo và được Mỹ tiếp tục sử dụng. Cho đến năm 1960, VNCH trở thành hội viên của 30 tổ chức quốc tế và khu vực, đặt 16 sứ quán tại hải ngoại. Với 42 nước công nhận chế độ, Sài Gòn có 22 nước đặt sứ quán. Sự thật này chứng minh là VNCH độc lập về ngoại giao, vậy ai không muốn VNCH độc lập khi có tiếng nói trên chính trường quốc tế?
    Ngay sau 1954, các giới chức Mỹ và Việt có nhận định chung là miền Nam đang bị miền Bắc đe doạ xâm lăng và binh sĩ Bắc Việt sẽ vượt vĩ tuyến 17 tràn vào miền Nam như binh sĩ Bắc Hàn. Để đối phó, Mỹ phải phác hoạ mô hình cho VNCH trong tư thế chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh quy ước.
    Nhưng đến năm 1958, tất cả các tiên đoán bảo vệ VNCH đều sai lạc. Với việc trang bị trong mức độ quy mô lớn cho trận địa chiến, khả năng tác chiến của QLVNCH tỏ ra không phù hợp cho một cuộc đấu tranh du kích đang bắt đầu năm1960.
    Bối cảnh VNCH trước 1975 không liên hệ gì đến việc nước Đức thống nhất về sau này. Không có chính khách nào của Đức trước năm 1989 có thể tiên đoán được chuyển biến tình hình Đức, như vậy, dựa trên cơ sở nào mà tác giả trình bày như vậy?

  3. “Liên minh SEATO, nói là “Liên phòng Đông Nam Á”. VNCH thuộc Đông Nam Á, mà chiến tranh Việt Nam là nguyên nhân thành lập SEATO. Nhưng VNCH không được gia nhập liên minh này. Tư cách gia nhập các liên minh quân sự là “pháp nhân quốc gia” mà tư cách pháp nhân này VNCH còn khiếm khuyết.”
    Mỹ, Anh, Úc, Tân Tây Lan, Pháp, Philippine, Thái và Pakistan thành lập SEATO vì muốn tạo ra một cấu trúc mới về an ninh và để ngăn chặn ảnh hưởng của trào lưu Cộng Sản trong toàn khu vực. Trong chiều hướng này, miền Nam Việt Nam phải đẩy mạnh việc xây dựng một lực lượng chống Cộng theo một tinh thần quốc gia dân tộc và phải loại bỏ nhanh chóng ảnh hưởng chính trị của chế độ thực dân Pháp để lại. SEATO cùng theo đuổi một nhiệm vụ chung là tham khảo ý kiến trong trường hợp bị Cộng Sản đe doạ.
    Trong hiệp định Geneve có quy định là Lào, Kampuchia và Việt Nam không được phép tham gia một liên minh quân sự. Để giải quyết trở ngại này, trong một văn kiện riêng biệt, SEATO có quy định thêm là mở rộng việc áp dụng Hiệp ước đối với các nước Lào, Kampuchia và Quốc gia Việt Nam.
    Như vậy, không có vấn đề tư cách pháp nhân của VNCH làm trở ngại cho viêc gia nhập SEATO mà chính là hiệu lực ràng buộc của Hiệp định Geneve. Tuy vậy, VNCH là một khu vực được SEATO bảo vệ an ninh. Tác giả nên nghiên cứu lại.

    • Anh Tài nói đúng rồi. Bằng chứng là đây : “Finally, the terms of the Geneva Agreements of 1954 signed after the fall of French Indochina prevented Vietnam, Cambodia and Laos from joining any international military alliance, though these countries were ultimately included in the area protected under SEATO and granted “observers” status.” Nguồn tin cùa Mỹ xác nhận https://history.state.gov/milestones/1953-1960/seato, nghĩa là, không có chuyện gì là liên hệ đế tư cách pháp nhân của VNCH trong vụ gia nhập SEATO như tác giả đề ra. Kính

  4. Tác giả đã có sự nhầm lẫn khiến cho bài viết mất đi tính thuyết phục: Việt Nam thống nhất năm 1975, còn nước Đức mãi đến năm 1990 mới được thống nhất.

BÌNH LUẬN

Xin bình luận ở đây
Xin nhập tên của bạn ở đây