Phạm Đình Trọng
20-10-2023
Vì có ngày 3.2.1930 thành lập đảng cộng sản Đông Dương, một chi bộ của Quốc tê cộng sản nên sau đó lần lượt có những ngày thành lập các tổ chức quần chúng của đảng cộng sản.
Có ngày 26 tháng 3 năm 1931, ngày ra đời nghị quyết của đảng cộng sản Đông Dương về việc vận động, tập hợp thanh niên tham gia vào cuộc cách mạng của đảng cộng sản. Ngày 26 tháng 3 liền được coi là ngày ra đời đoàn Thanh niên cộng sản và ngày 26 tháng 3 trở thành ngày Thanh Niên Việt Nam.
Có ngày 20 tháng 10 năm 1930, ngày đảng cộng sản Đông Dương khai sinh ra tổ chức phụ nữ hoạt động cộng sản được gọi là hội Phụ Nữ Phản Đế và ngày 20 tháng 10 trở thành ngày thành lập hội Hiên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam.
Mãi đến năm 2010, trong văn bản số 382-TB/TW, ban Bí Thư thuộc ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Việt Nam mới chính thức cho phép lấy ngày 20 tháng 10 hàng năm là ngày Phụ Nữ Việt Nam.
Những ngày được gọi là ngày Thanh Niên Việt Nam, 26 tháng 3, ngày Phụ Nữ Việt Nam 20 tháng 10, đều ra đời từ nghị quyết, từ văn bản cho phép của đảng cộng sản Việt Nam.
Trước văn bản của ban Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam cho phép lấy ngày 20.10 là ngày Phụ Nữ Việt Nam cả thế kỉ, từ đầu thế kỉ 20 khi xã hội Việt Nam mới chập chững bước vào văn minh đô thị, hàng năm, trí thức và người dân đô thị từ Hà Nội đến Sài Gòn đều thành kính làm lễ tưởng niệm Hai Bà Trưng vào ngày 8 tháng 3. Từ đó ngày 8 tháng 3 đã được coi là ngày Phụ Nữ Việt Nam.
Ngày Phụ Nữ Việt Nam, ngày 8 tháng 3 có từ trong xa thẳm lịch sử hào hùng bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của tổ tiên người Việt.
Năm Canh Tý, lịch Tây là năm 40, Thi Sách, quan huyện lệnh Châu Diên, ngày nay là Vĩnh Tường, Vĩnh Yên, dựng cờ khởi nghĩa chống thái thú Tô Định nhà Đông Hán, giành quyền tự trị cho nhà nước Giao Chỉ. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Thi Sách bị giết.
Vợ Thi Sách là bà Trưng Trắc, con gái một lạc tướng người làng Mê Linh, thuộc Phong Châu, sau là làng Hà Lôi, phủ Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc Hà Nội, cùng em gái là Trưng Nhị nối chí Thi Sách, truyền hịch tập hợp dân Giao Chỉ chống giặc Đông Hán.
Các lạc tướng, tộc trưởng cả nước đều hưởng ứng dẫn dân binh theo hai Bà Trưng. Bừng bừng khí thế cả nước đánh giặc. Quân Hai Bà Trưng tiến đến đâu, quân Đông Hán đều tan vỡ, bỏ chạy. Tô Định cùng tàn quân tháo chạy về nước. Các lạc tướng, tộc trưởng liền nghị bàn, đồng lòng tôn Bà Trưng Trắc lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh năm Canh Tý, theo lịch tây là năm 40.
Năm sau Tân Sữu, năm 41 lịch Tây, Mã Viện kéo hai mươi vạn quân sang tái lập ách đô hộ Giao Chỉ không thành. Năm 42, Nhâm Dần, có thêm năm vạn viện binh, Mã Viện kéo hai mươi nhăm vạn quân vây thành Mê Linh. Thành vỡ. Hai Bà Trưng rút chạy về phía Tây. Ngày 6 tháng 2 năm Quý Mão, lịch Tây là năm 43, chạy đến khúc sông Hát, một nhánh phía Nam sông Hồng thuộc huyện Phúc Thọ, Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội, Hai Bà gieo mình xuống sông tuẫn tiết.
Ngày 6 tháng 2 lịch ta hàng năm giao động quanh ngày 8 tháng 3 lịch Tây. Từ đầu thế kỉ 20 khi xã hội Việt Nam ngập ngừng bước vào văn minh công nghiệp, văn minh đô thị, làm việc, sinh hoạt theo lịch Tây, ngày 8 tháng 3 tưởng niệm, ghi nhớ công ơn Hai Bà Trưng trở thành ngày lịch sử, ngày lễ ổn đinh hàng năm và trong lòng người dân Việt Nam, ngày 8 tháng 3 hàng năm đã trở thành Ngày Phụ Nữ Việt Nam.
Ngày 8 tháng 3 cũng là ngày Phụ Nữ Quốc Tế. Ngày Phụ Nữ Việt Nam trùng với ngày Phụ Nữ Quốc Tế là sự hoà nhập của xã hội Việt Nam với thế giới. Phụ nữ Việt Nam từ xã hội trọng nam khinh nữ nay sánh vai với phụ nữ thế giới, sánh vai cùng một nửa nhân loại đưa xã hội loài người đến những nền văn minh rực rỡ, văn minh công nghiệp, văn minh tin học.
Chỉ có ngày 8 tháng 3 mới thực sự xứng đáng là ngày Phụ Nữ Việt Nam.
Tình yêu Quê Hương như Tình Đầu chẳng bao giờ phai đâu Em đâu Anh !…
******************
Hơn 52 Mùa Đông, Đà Nẵng mưa dầm dề
Nhưng Em từ ấy không có Anh
Trong Tâm tưởng vẫn nhớ nhung Anh
Thương Tình đầu chờ mãi Cánh Hải Âu
Vượt biên thuyền nhân chắc không quên Cố nhân
Em ở lại bám chặt lấy Quê Hương
Nhưng vẫn thầm ươm Giấc mơ Xưa
Để Mùa Xuân Vĩnh cửu Hạnh phúc – Tự do
Hương Tình đầu chẳng bao giờ phai !
Không bao giờ đâu Em đâu Anh !…
Như Tình yêu Quê Hương chẳng bao giờ phai
Mãi mãi không bao giờ đâu Em đâu Anh !…
Như Nghìn năm Nghìn năm Hàn Giang sóng vỗ
Vẫn ôm siết chặt lấy Đôi bờ Đông-Tây
Em hãy gần bên Khung cửa Hẹp đêm nay
Gió Bấc cùng Mưa dầm dề như kể lể
Nỗi lòng tha hương Lưu vong Paris
Để Đêm trắng Đêm nay trăn trở nhớ về Anh
Dưới Trăng Huyết lưu đày hơn Nửa đời Kiếp tha phương
Tưởng Đôi bàn tay ngọc ngà vuốt ve thương yêu Thuở ấy
Dưới Cầu Vồng: Hồng Đức & Phan Châu Trinh yêu thương…
Hương Tình đầu chẳng bao giờ phai !
Không bao giờ đâu Em đâu Anh !…
Như Tình yêu Quê Hương chẳng bao giờ nhạt phai
Mãi mãi không bao giờ đâu Em đâu Anh !…
Như Tình yêu Quê Hương chẳng bao giờ phai
Mãi mãi không bao giờ đâu Em đâu Anh !…
Như Tình Quê êm đềm quyện vào Dòng sống Sử Xanh…
Tựa Nghìn năm Hàn Giang Nghìn năm sóng vỗ
Vẫn ôm siết chặt lấy Đôi bờ Tây-Đông
Như Anh giữ chặt mãi vào Ký ức :
Chuyến đò chiều về An Hải năm xưa…
Dù Chuyện Tình chúng mình cuốn theo Cơn Gió bụi
Cơn lốc Việt sử mang hàng triệu tang thương chia ly
Nhưng Tình Đầu chúng mình Sông Hàn giữ còn đấy
Hương Tình đầu chẳng bao giờ phai !
Không bao giờ đâu Em đâu Anh !…
Như Tình yêu Quê Hương chẳng bao giờ phai
Mãi mãi không bao giờ đâu Em đâu Anh !…
Như Nghìn năm Hàn Giang Nghìn năm sóng thầm vỗ
Vẫn ôm siết chặt lấy Đôi bờ Tây-Đông
Cho Anh xin vùi sâu mãi vào Lòng sông Tâm não nhức đau
Dù Chuyện Tình chúng mình cuốn theo Cơn Gió bụi
Cơn lốc Việt sử mang hàng triệu tang thương chia ly
Nhưng Tình Đầu chúng mình Sông Hàn giữ còn đấy
Hương Tình đầu chẳng bao giờ phai !
Không bao giờ đâu Em đâu Anh !…
Như Tình yêu Quê Hương chẳng bao giờ phai
Mãi mãi không bao giờ đâu Em đâu Anh !…
Như Tình Quê êm đềm quyện vào Đà sống Sử Xanh…
Tình yêu Quê Hương chẳng bao giờ phai đâu Em đâu Anh !…
https://universite-digitale1.com/wp-content/uploads/2018/05/MeVietNam.jpg
TRIỆU LƯƠNG DÂN VIỆT
https://www.hanoiparis.com/construct.php?page=poesie2&idfam=28