Hiến Pháp 2013 và quyền sở hữu đất đai trong bối cảnh xã hội dân sự tại Việt Nam

Đào Tăng Dực

29-8-2023

Quyền sở hữu tư sản (private properties) nói chung và đặt biệt quyền sở hữu đất đai (land ownership) có một tương quan thuận chiều với mức độ dân chủ và sự tôn trọng nhân quyền cũng như các quyền tự do khác trong một quốc gia.

Quyền sở hữu tư sản là quyền của các công dân cá thể (individual citizens), hoặc một hữu thể pháp lý (legal entities) không phải những con người bằng xương bằng thịt (natural persons), nhưng do luật pháp cấu tạo thành như một hội đoàn, một tập đoàn thương mại, tài chánh, kinh tế, từ thiện, tôn giáo, chính trị… đăng ký có pháp nhân (legal personality). Tất cả những thực thể đó là thành phần cấu tạo (constituent parts) của xã hội dân sự (civil society).

Xã hội dân sự là một khái niệm rất quan trọng trong nền chính trị của quốc gia và tôi xin giải thích thêm như sau:

Trong một quốc gia, tự cổ chí kim, các công dân cá thể luôn đối diện với 2 thực thể vô cùng quan trọng. Một bên là chính quyền (the state) và bên kia là xã hội dân sự (civil society). Hai thực thể này bao gồm trong bản chất 2 yếu tính. Một là đối nghịch và hai là hỗ tương, như Âm và Dương trong Thái Cực Đồ của triết học Đông Phương vậy.

Chính quyền là bộ máy điều hành quốc gia bao gồm hành pháp, lập pháp, tư pháp, các cấp hành pháp khác nhau như Bộ, quân đội, cảnh sát công an, các tòa án v..v..

Xã hội dân sự, theo định nghĩa rộng rãi của Karl Marx là tất cả những gì còn lại trong quốc gia sau khi trừ đi thực thể chính quyền. Tức là xã hội dân sự sẽ bao gồm tất cả các tập thể, hội đoàn từ thương mại, kinh tế, tiền tệ, tôn giáo, từ thiện, chính trị đến các cá nhân tham gia các tập thể này và nhất là đại khối những công dân cá thể không tham gia bất cứ một tập thể nào trong quốc gia đó. Khi phân tách như vậy, chúng ta sẽ ý thức rằng: xã hội dân sự đồng nghĩa với đại khối nhân dân.

Một quy luật mà nhân loại ý thức rõ rệt trên thế giới là: trong một chế độ độc tài thì chính quyền như một thực thể phình to và áp đảo xã hội dân sự. Trong một nền dân chủ thì xã hội dân sự thăng hoa và chính quyền bị kiểm soát và giới hạn.Một quy luật không kém quan trọng là nếu chính quyền phình trướng và hủy diệt xã hội dân sự thì chúng ta sẽ có độc tài toàn trị và dân chúng lầm than như tại các quốc gia CS hôm nay.

Ngược lại nếu xã hội dân sự phát triển thái quá và chính quyền hoàn toàn tan vỡ thì sẽ có tình trạng quốc gia loạn lạc, dân chúng cũng sẽ lầm than tương tự (như tại Afghanistan, Iran. Niger và một vài quốc gia Phi Châu bây giờ).

Nghệ thuật lãnh đạo quốc gia nằm nơi khả năng cân bằng thế lực giữa hai thực thể quan trọng này.

Cũng vì đảng CSVN, cũng như đảng CSTQ và các đảng CS khác trên thế giới chủ trương độc tài toàn trị, nên hiến pháp và luật pháp tại các quốc gia này chủ trương khống chế và đàn áp triệt để xã hội dân sự. Một trong những phương tiện chiến lược của độc tài muốn triệt tiêu xã hội dân sự là cướp đi quyền sở hữu đất đai của các tập thể và công dân cá thể trong xã hội dân sự.

Như thế đảng CSVN, trong mục tiêu thiết lập độc tài toàn trị trên đất nước Việt Nam đã sử dụng Hiến Pháp 2013 để tước đoạt quyền sở hữu đất đai của toàn dân như thế nào?

Câu trả lời không nằm nơi nào xa vời mà có thể nhìn rõ qua Điều 53 của Hiến Pháp 2013.

Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định:

“Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”.

Điều 53 là một sự lừa gạt khổng lồ. Khi ghi rằng đất đai và những tài nguyên khác của quốc gia là sở hữu của toàn dân nhưng do nhà nước (tức chính quyền) chủ sở hữu và thống nhất quản lý thì trên thực chất cụm từ “toàn dân” chỉ là một khái niệm vô thưởng vô phạt, trong khi chính quyền (CSVN) với guồng máy hành chánh, quân đội và công an trong tay mới là một thực thể có khả năng thực sự làm chủ nhân ông.

Sau khi khai triển điều 53 của HP 2013, qua các điều 4 và 197 của Luật Đất Đai năm 2013 thì thực chất hiện nguyên hình là các công dân cá thể và các tập thể khác trong xã hội dân sự chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu đất đai.

Trong trường hợp cá nhân hay gia đình cư trú và một số trường hợp khác, quyền sử dụng có thể không giới hạn thời gian, nhưng, chính quyền vẫn là chủ nhân ông và có thể đòi lại quyền sở hữu bất cứ lúc nào.

Quyền sử dụng đất dĩ nhiên có giới hạn 5, 50, 70 hay 99 năm tùy theo loại đất và thực thể sử dụng.

Hậu quả là đảng CSVN, lãnh đạo nhà nước và xã hội dân sự theo điều 4 HP, là chủ nhân ông (landlord) khổng lồ của đất đai trên toàn cõi Việt Nam và mỗi công dân cá thể, mỗi thành phần xã hội dân sự đều là người thuê đất (lessees) của đảng. Nếu thành phần nào ngoan ngoãn nghe lời thì chủ nhân sẽ cho thuê dài hạn. Thành phần nào bất đồng ý kiến thì sẽ bị thu hồi và đẩy ra đầu đường xó chợ không thương tiếc.

Trong khi đó, tại các quốc gia dân chủ chân chính, quyền sở hữu đất đai là tuyệt đối. Khi một công dân cá thể hay tập thể trong xã hội dân sự tại Hoa Kỳ hay Úc Đại Lợi làm chủ một lô đất, dù to hay nhỏ, thì quyền này là tuyệt đối trên không gian lẫn thời gian. Trên không gian thì họ toàn quyền sở hữu tất cả những tài nguyên từ mặt đất đến sâu thẳm trong lòng đất, chính quyền không được xen vào. Với thời gian thì họ sở hữu vĩnh viễn và có thể chuyển nhượng cho đệ tam nhân hay cho người kế thừa tuyệt đối.

Chính vì thế dân chủ thăng hoa và dân giàu nước mạnh tại các nước dân chủ, trong khi độc tài thăng hoa và nhân dân bần hàn tại các quốc gia CS độc tài.

Quyền sở hữu đất đai quan trọng cho yếu tố dân giàu nước mạnh như thế, tại sao CSVN lại cố ý chủ trương cấm công dân cá thể sở hữu đất đai, một mặt làm quốc gia suy yếu, mặt khác gây bao nhiêu lầm than như dân oan khiếu kiện khắp nơi?

Các nhà nghiên cứu ý thức hệ Mác Lê trên thế giới đều ý thức rằng, “bần cùng hóa nhân dân” là một trong những chủ trương nguyên thủy và chiến lược của các đảng CS thuộc hệ phái Đệ Tam Quốc Tế của Lê Nin.

Tuy bần cùng hóa nhân dân có một khuyết điểm lớn là làm cho dân tộc trở nên bần hàn, phải đi ăn xin quốc tế. Nhưng ưu điểm rất lớn của nó, đối với các đảng CS, là làm cho đảng mạnh lên trong tương quan với nhân dân (tức xã hội dân sự). Xảo thuật của các đảng CS trên trường quốc tế là hạ thấp vai trò của nhân quyền (human rights), tuyên dương chủ quyền quốc gia (national sovereignty), chống lại mọi xen lấn nội bộ từ quốc tế.

Kết quả là trong một quốc gia chỉ còn 2 thực thể đối nghịch nhau: Một bên là đảng CS giàu sụ với guồng máy chính quyền, công an, quân đội và tổng thể tài sản quốc gia. Bên kia là nhân dân trong xã hội dân sự trần truồng và nghèo khổ cơ hàn, không đất cắm dùi theo hiến pháp.

Chỉ có như thế, đảng mới muôn năm trường trị, thống nhất giang hồ như một băng đảng đại ma đầu của thời đại.

Chủ trương bần cùng hóa nhân dân để trị vì của đảng CSVN đã lỗi thời. Chính hàng ngũ cán bộ đảng cũng ý thức sâu sắc sự kiện này. Kỹ thuật bưng bít thông tin lừa gạt nhân dân như điều 53 khả ố của HP 2013 về quyền sở hữu đất đai, thật sự không còn lừa gạt được quốc tế, nhân dân trong lẫn ngoài nước vì sự phát triển của tin học và trình độ dân trí Việt Nam đã nâng cao.Đảng CSVN đang trên đà thoái trào. Toàn dân sẽ vùng lên đạp đổ độc tài.

Hiến Pháp 2013 bao gồm điều 53 sẽ bị quẳng vào thùng phân thối tha của lịch sử. Một hiến pháp Dân Chủ Hiến Định, pháp trị và Đa Nguyên, bảo đảm quyền sở hữu đất đai tuyệt đối cho từng công dân cá thể, sẽ được một quốc hội lập hiến hậu CS thông qua, hầu khai thông một kỷ nguyên nước giàu dân mạnh, bảo đảm quyền tư hữu tuyệt đối, nhất là sở hữu đất đai, cho công dân cá thể Việt Nam, sau khi đảng CSVN cáo chung.

Bình Luận từ Facebook