Tác giả: Margaret MacMillan
Cù Tuấn, biên dịch
14-6-2023
Tóm tắt: Ukraine, Nga và những bài học của Thế chiến thứ nhất.
Vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, Andrey Kurkov, tiểu thuyết gia vĩ đại người Ukraine và vợ của ông bị đánh thức trong nhà của họ ở Kiev vì tiếng tên lửa của Nga. Lúc đầu, Kurkov không thể tin những gì đang xảy ra. “Bạn phải làm quen về mặt tâm lý với ý tưởng rằng chiến tranh đã bắt đầu”, ông viết.
Nhiều người quan sát cuộc xâm lược đã cảm thấy và tiếp tục cảm thấy cảm giác hoài nghi đó. Họ bối rối trước cuộc tấn công công khai và ồ ạt của Nga và ngạc nhiên trước sự kháng cự bền bỉ và thành công của Ukraine. Trong những ngày đầu tiên của cuộc chiến khi quân Nga tiến lên, ai có thể dự đoán rằng hai bên sẽ vẫn đánh nhau hơn một năm sau đó? Với rất nhiều vũ khí và nguồn lực cũng như nhiều nhân lực hơn để sử dụng, có vẻ như một kết luận đã được đoán trước rằng Nga sẽ nghiền nát Ukraine và chiếm các thành phố chính của nó chỉ trong vài ngày.
Tuy nhiên, đã bước sang năm thứ hai, chiến tranh vẫn tiếp diễn, và theo một cách rất khác so với dự kiến. Nhiều người cho rằng, một cuộc xâm lược Ukraine sẽ liên quan đến những bước tiến nhanh chóng và những trận chiến quyết định. Đã có một vài trận chiến trong số đó, bao gồm cuộc phản công kịch tính của Ukraine ở khu vực Kharkiv vào cuối mùa hè năm 2022. Nhưng đến đầu tháng 5, mặc dù có tin đồn về một cuộc tấn công lớn của Ukraine, cuộc chiến từ lâu đã trở thành một cuộc xung đột gay gắt dọc theo các chiến tuyến ngày càng được củng cố.
Thật vậy, những cảnh đến từ miền đông Ukraine—những người lính ngập trong bùn đến đầu gối, hai bên đối mặt với nhau từ các chiến hào và những tòa nhà đổ nát, băng qua một vùng đất hoang bị đạn pháo xới tung—có thể là những hình ảnh của mặt trận phía Tây năm 1916 hoặc Stalingrad năm 1942.
Trước cuộc xâm lược của Nga, nhiều người cho rằng chiến tranh giữa các cường quốc lớn của thế kỷ 21, nếu có xảy ra, sẽ không giống như những cuộc chiến trước đó. Các cường quốc sẽ chiến đấu bằng cách sử dụng một thế hệ công nghệ tiên tiến mới, bao gồm cả các hệ thống vũ khí tự hành. Chúng sẽ diễn ra trong không gian và không gian mạng; một đôi ủng trên mặt đất có lẽ sẽ không quan trọng lắm. Thay vào đó, phương Tây đã phải chấp nhận một cuộc chiến giữa các quốc gia khác trên đất châu Âu, do các đội quân lớn tiến hành trên nhiều dặm vuông lãnh thổ. Và đó chỉ là một trong nhiều cách mà cuộc xâm lược Ukraine của Nga gợi lại ký ức của hai cuộc chiến tranh thế giới.
Giống như những cuộc chiến trước đó, nó được chủ nghĩa dân tộc và những giả định phi thực tế về việc sẽ dễ dàng áp đảo kẻ thù thúc đẩy. Các cuộc giao tranh đã diễn ra ở các khu vực dân sự cũng như trên chiến trường, tàn phá các thị trấn và làng mạc, khiến người dân phải chạy trốn. Nó đã tiêu tốn rất nhiều nguồn lực, và các chính phủ liên quan đã buộc phải sử dụng lính nghĩa vụ và, trong trường hợp của Nga là lính đánh thuê. Cuộc xung đột đã dẫn đến việc tìm kiếm các loại vũ khí mới, nguy hiểm hơn và có khả năng leo thang nguy hiểm. Nó cũng đang khiến nhiều nước khác tìm cách nâng cấp quân đội của họ.
Kinh nghiệm của một cuộc đại chiến trước đó ở châu Âu—chúng ta gọi là Thế chiến thứ nhất—sẽ nhắc nhở chúng ta về những chi phí khủng khiếp của một cuộc xung đột vũ trang kéo dài và gay gắt. Và giống như ngày nay, cuộc chiến đó được nhiều người dự đoán là rất ngắn và mang tính quyết định. Tuy nhiên, thế giới và Ukraine hiện đang phải đối mặt với những câu hỏi đáng lo ngại. Nga sẽ kiên trì với chiến dịch của mình bao lâu, mặc dù hy vọng ăn mừng chiến thắng của họ càng ngày càng giảm dần? Còn thiệt hại và nỗi kinh hoàng nào lớn hơn sẽ giáng xuống Ukraine và người dân nước này? Và khi nào những quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi cuộc xung đột, từ các nước láng giềng của Ukraine cho đến các thành viên rộng lớn hơn của NATO, ngừng lo lắng rằng chiến tranh sẽ lan ra ngoài biên giới Ukraine?
Nhưng quá khứ cũng đưa ra một lời cảnh báo thậm chí còn đen tối hơn—lần này cho tương lai, khi cuộc chiến ở Ukraine cuối cùng cũng đi đến hồi kết, giống như mọi cuộc chiến khác. Ukraine và những quốc gia ủng hộ họ có thể hy vọng vào một chiến thắng áp đảo và sự sụp đổ của chế độ Putin. Tuy nhiên, nếu nước Nga rơi vào tình trạng hỗn loạn, cay đắng và bị cô lập, với nhiều nhà lãnh đạo và người dân của nước này đổ lỗi cho các quốc gia khác về những thất bại của nước mình, như rất nhiều người Đức đã làm trong những thập kỷ giữa hai cuộc chiến đó, thì sự kết thúc của một cuộc chiến có thể chỉ đơn giản là đặt nền móng cho một cuộc chiến tiếp theo.
HỘI CHỨNG SARAJEVO
Mùa xuân năm 1914, ít ai nghĩ rằng một cuộc chiến tranh trên bộ giữa các cường quốc châu Âu có thể xảy ra. Các quốc gia châu Âu, như cư dân của họ đánh giá một cách tự mãn, là quá tiên tiến, quá hội nhập về kinh tế—quá “văn minh”, theo ngôn ngữ thời bấy giờ—để có thể xung đột vũ trang với nhau. Các cuộc chiến tranh vẫn diễn ra ở ngoại vi châu Âu, đặc biệt là ở vùng Balkan hoặc ở các lãnh thổ thuộc địa, nơi những người châu Âu chiến đấu chống lại những dân tộc yếu hơn – nhưng người ta cho rằng chiến tranh sẽ diễn ra không phải trên chính lục địa này.
Điều tương tự cũng xảy ra vào những tuần đầu năm 2022. Các nhà lãnh đạo, hoạch định chính sách và công chúng của họ ở phương Tây có xu hướng coi chiến tranh là điều gì đó xảy ra ở nơi khác, cho dù dưới hình thức nổi dậy chống lại các chính phủ không được lòng dân, hay trong các cuộc xung đột dường như bất tận ở các quốc gia thất bại. Đúng là đã có những lo ngại về xung đột giữa các cường quốc khi Trung Quốc và Ấn Độ xung đột dọc biên giới chung của họ, hoặc khi Trung Quốc và Mỹ tranh cãi với nhau về số phận của Đài Loan. Nhưng đối với những người ở những nơi may mắn hơn trên thế giới—Châu Mỹ, Châu Âu, phần lớn Châu Á và Thái Bình Dương—chiến tranh đã là dĩ vãng rất xa xôi.
Cũng như năm 1914 và 2022, những người cho rằng chiến tranh không thể xảy ra, đã sai. Năm 1914, có những căng thẳng nguy hiểm và chưa được giải quyết giữa các cường quốc châu Âu, cũng như một cuộc chạy đua vũ trang mới và các cuộc khủng hoảng khu vực, dẫn đến việc công chúng bàn tán về chiến tranh.
Tương tự như vậy, trong những tháng trước khi Nga xâm lược Ukraine, Matxcơva đã bày tỏ rõ ràng sự bất bình của mình với phương Tây và Tổng thống Nga Vladimir Putin đã đưa ra nhiều dấu hiệu về ý định của mình. Thay vì dựa vào những giả định về khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh toàn diện, các nhà lãnh đạo phương Tây vốn nghi ngờ về viễn cảnh một cuộc xâm lược của Nga lẽ ra nên chú ý nhiều hơn đến luận điệu của Putin về Ukraine.
Tiêu đề của bài luận dài mà Putin xuất bản năm 2021 đã nói lên tất cả: “Về sự thống nhất lịch sử của người Nga và người Ukraine”. Ông ta lập luận rằng, Ukraine không chỉ là nơi khai sinh ra nước Nga, mà các dân tộc ở đây luôn là người Nga. Theo quan điểm của ông, các thế lực ác độc bên ngoài—Đế quốc Áo-Hung trước Thế chiến thứ nhất và Liên minh châu Âu ngày nay—đã cố gắng chia rẽ nước Nga khỏi quyền quản lý di sản chính đáng của nước này.
Putin cũng lặp lại quan điểm của các nhà lãnh đạo đầu thế kỷ 20 khi kết luận rằng chiến tranh là một lựa chọn hợp lý. Sau vụ ám sát Thái tử Áo Franz Ferdinand của một người theo chủ nghĩa dân tộc Serbia ở Sarajevo vào tháng 6 năm 1914, các nhà cai trị của Đế quốc Áo-Hung nhanh chóng thuyết phục bản thân rằng họ phải tiêu diệt Serbia, ngay cả khi điều đó có nghĩa là gây chiến với Nga, quốc gia bảo hộ cho Serbia. Sa hoàng Nicholas II vẫn còn đau đớn vì sự sỉ nhục mà ông đã phải chịu khi Đế quốc Áo-Hung sáp nhập Bosnia từ Đế chế Ottoman vào năm 1908, và ông thề sẽ không bao giờ lùi bước nữa. Vua Kaiser Wilhelm II của Đức, chỉ huy đội quân hùng mạnh nhất thế giới, không thích tỏ ra hèn nhát. Mỗi nhà lãnh đạo này, theo những cách khác nhau, đều cảm thấy rằng một cuộc chiến nhanh chóng và quyết đoán là cách tốt nhất để khôi phục lại đất nước của họ.
Tương tự, Putin phẫn nộ với việc Matxcơva mất quyền lực sau Chiến tranh Lạnh và tin chắc rằng ông sẽ nhanh chóng áp đảo Ukraine. Và ông đã đối mặt với các nhà lãnh đạo ở Châu Âu và Mỹ, những người đang bận tâm về những thứ khác, giống như vào một thế kỷ trước, khi cuộc khủng hoảng nổ ra ở lục địa này, chính phủ Anh đang mải bận tâm đến các rắc rối ở Ireland.
Nguy hiểm không kém là giả định của những kẻ xâm lược rằng một cuộc chiến sẽ ngắn và mang tính quyết định. Năm 1914, các cường quốc chỉ có các kế hoạch tấn công chiến tranh dựa trên những chiến thắng nhanh chóng. Kế hoạch Schlieffen khét tiếng của Đức đã tưởng tượng ra một cuộc chiến tranh hai mặt chống lại Pháp và đồng minh của Pháp là Nga. Quân đội Đức sẽ chiến đấu trong một chiến dịch cầm cự ở phía đông, nơi Đức và Nga có chung biên giới. Và Đức sẽ phát động một cuộc tấn công lớn ở phía Tây, tràn xuống Bỉ và miền bắc nước Pháp để bao vây Paris – tất cả chỉ trong vòng sáu tuần, tại thời điểm đó, người Đức cho rằng, Pháp sẽ đầu hàng và Nga sẽ thỏa thuận để đạt được hòa bình.
Năm 2022, Putin cũng mắc sai lầm tương tự. Ông ta tin tưởng vào khả năng chinh phục Ukraine nhanh chóng của Nga đến mức ông có một chính phủ bù nhìn đang chờ sẵn và ra lệnh cho binh lính của mình mang theo quân phục để diễu hành mừng chiến thắng. Và giống như đế quốc Đức một thế kỷ trước, Nga ít chú ý đến những chi phí thảm khốc có thể xảy ra nếu mọi thứ không diễn ra như kế hoạch.
Các nhà lãnh đạo có quyền lực đưa quốc gia của họ vào chiến tranh—hoặc kìm hãm chúng—hiếm khi được coi là những cỗ máy đơn thuần hành động chỉ dựa trên chi phí và lợi ích. Nếu Putin tính toán đúng đắn ngay từ đầu, thì có lẽ ông ta đã không xâm lược Ukraine, hoặc ít nhất ông ta đã cố gắng rút quân Nga ngay khi rõ ràng rằng ông ta sẽ không có được cuộc chinh phục nhanh chóng, ít tốn kém mà ông ta mong đợi. Cảm xúc—sự oán giận, tự hào, sợ hãi—có thể ảnh hưởng đến các quyết định dù lớn hay nhỏ, và như năm 1914 đã chỉ ra, kinh nghiệm của những người đưa ra quyết định cũng có thể ảnh hưởng như vậy.
Giống như Sa hoàng Nicholas, Putin nhớ lại một ký ức gây sỉ nhục. Là một sĩ quan KGB trẻ tuổi, ông ta đã tận mắt chứng kiến sự rút lui của đế chế Liên Xô khỏi Đông Đức và sau đó là sự tan rã của chính Liên Xô, và ông đã chứng kiến sự mở rộng về phía đông của NATO và EU—cả hai đều đã bắt đầu dưới thời những lãnh đạo tiền nhiệm của ông là Mikhail Gorbachev và Boris Yeltsin—như một sự sỉ nhục và một mối đe dọa. Phương Tây đã coi nhẹ nỗi sợ hãi này của Nga và trong phần lớn thời gian, đã phớt lờ những lần niềm tự hào dân tộc của người Nga bị tổn hại.
Vào năm 1914, giới tinh hoa của châu Âu đã chia sẻ một nền văn hóa chung, thường nói cùng một ngôn ngữ và được kết nối với nhau bằng tình bạn và hôn nhân. Tuy nhiên, họ đã không nắm bắt được sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, sự ác cảm ngày càng tăng giữa các dân tộc thường là láng giềng với nhau, và cách mà các giai cấp thống trị và giới trí thức của họ đang lợi dụng lịch sử để tuyên bố rằng, chẳng hạn như người Đức và người Pháp là kẻ thù truyền kiếp.
Ngày nay, đối với Putin và nhiều người Nga nhìn mọi thứ theo cách của ông ta, phương Tây, dù được định nghĩa như thế nào, vẫn là kẻ thù và luôn luôn như vậy. [Họ cho rằng] Ukraine đang bị chủ nghĩa duy vật và sự suy đồi của phương Tây quyến rũ, cần được cứu vớt và cần được quay trở về gia đình nước mẹ Nga theo đúng nghĩa của nó. Và một động cơ khác đang diễn ra: Nếu chủ nghĩa tự do và dân chủ bén rễ ở Ukraine, điều có vẻ như đang xảy ra, thì những thứ nguy hiểm đó cũng có thể bắt đầu lây nhiễm sang xã hội Nga. Trước cuộc xâm lược, ít người ở phương Tây hiểu được mức độ mà Putin đã coi Ukraine là trung tâm của vận mệnh nước Nga.
Một trong những bài học từ cuộc chiến của Nga ở Ukraine là các chiến lược gia phương Tây cần chú ý nhiều hơn đến cách các nhà lãnh đạo ở những nơi khác nhìn nhận đất nước và lịch sử của chính họ. Ví dụ, việc xâm lược Đài Loan sẽ mang đến đủ loại rủi ro cho Trung Quốc. Nhưng người Trung Quốc có thể sẵn sàng đón nhận chúng. Nhà lãnh đạo của họ, Tập Cận Bình, đã nói rõ rằng ông coi hòn đảo Đài Loan và người dân trên đảo là một phần của đất nước Trung Hoa và muốn rằng việc “thống nhất” là một phần di sản của ông. Quan điểm đó và mong muốn đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình ra quyết định của Tập Cận Bình.
(Còn tiếp)
“Chiến tranh sẽ không kết thúc như thế nào”
Cho tới khi Nga thừa kế U Cà . Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi, tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh