Ai và cái gì gây ra tệ nạn giáo dục? (Phần cuối)

Nguyễn Đình Cống

12-12-2022

Tiếp theo phần 1

Về trách nhiệm của người đứng đầu, một tổ chức, một đất nước đều có người đứng đầu. Trừ những trường hợp quá đặc biệt, còn thì họ phải chịu trách nhiệm chính về mọi việc xảy ra trong phạm vi họ quản lý, không được phép đổ lỗi cho bất cứ ai, đặc biệt là cho khách quan, cho cấp dưới. Tôi nhận thấy rằng “Một việc dù có hay, có tốt đến mấy cũng chỉ có thể làm thành công khi nó biến được thành nhận thức sâu sắc và tình cảm mãnh liệt của người đứng đầu tổ chức”. Ngoài ra thì còn cần nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của quần chúng. Chưa được như thế thì phần nhiều người ta chỉ làm cho qua chuyện.

“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đó là một phương châm rất hay, rất đúng, nhưng sau khi được ban hành thành nghị quyết (1996) thì chỉ tồn tại như một khẩu hiệu sáo rỗng. Vì sao vậy?

Vì nó chưa biến thành nhận thức và tình cảm của người đứng đầu nhà nước mà chỉ mới tác động đến vài người nào đó ở bên dưới. Trước hết là vài nhà khoa học rất tâm huyết với giáo dục như các GS Hoàng Tụy, Phan Đình Diệu, Nguyễn Văn Đạo, Vũ Đình Cự, họ thấy rõ vai trò rất quan trọng của giáo dục, họ tích cực đấu tranh để đưa giáo dục đi đúng hướng. Sau đó là vài nhà chính trị có am hiểu về giáo dục, như Nguyễn Đình Tứ, Trần Xuân Bách, Trần Độ, họ có quyền thảo luận để ra nghị quyết, lại được các GS vừa thuyết phục vừa thúc bách nên họ ủng hộ, tìm cách ra cho được. Khi ra được nghị quyết rồi thì cả hai bên đều vui vẻ, đều cho là đã thắng lợi. Bên các GS cho rằng nguyện vọng của họ đã được đảng chấp nhận, bên các nhà chính trị cho rằng họ đã giúp được các GS ra nghị quyết. Còn việc thực hiện thì để cho người khác.

Để cho ai? Cho các bộ trưởng (Phạm Minh Hạc, Trần Hồng Quân, Nguyễn Minh Hiển, Nguyễn Thiện Nhân, Phạm Vũ Luận, Phùng Xuân Nhạ, Nguyễn Kim Sơn). Các Bộ trưởng lại chờ chỉ thị của các lãnh đạo (Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng). Các lãnh đạo thì ú ớ, cho rằng đã có nghị quyết rồi thì cứ thế mà làm.

Các lãnh đạo không biết được vai trò, chức năng, tầm quan trọng của giáo dục. Họ cho rằng giáo dục là quyền lợi, làm giáo dục rất dễ chứ không như kinh tế, quân sự, ngoại giao. Thế thì ở đâu ra nhận thức và tình cảm của họ đối với giáo dục. Các ngành quan trọng cần có ủy viên (UV) Bộ Chính trị đứng đầu. Giáo dục chỉ cần một UV trung ương là được, vì trên Bộ còn có Ban Tuyên huấn. Ngay lúc Hồ Chí Minh còn sống Bộ trưởng Giáo dục do TS Nguyễn Văn Huyên nắm giữ trong 27 năm, một người không phải đảng viên CS. Trong thời gian đó đảng phải cử một đảng viên làm thứ trưởng để kèm cặp.

Lãnh đạo cao cấp nhà nước có vai trò vạch (hoặc duyệt) phương hướng phát triển cho đất nước và chọn cán bộ phụ trách ngành (cử Bộ trưởng). Đối với giáo dục các lãnh đạo phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác trong cả hai việc. Về phương hướng (hoặc triết lý giáo dục) họ đã có nhận thức sai theo CNML. Họ xem thường giáo dục, trước hết là trong đào tạo ngành sư phạm (chuột chạy cùng sào), biến dạy học là nghề cao quý thành phương tiện kiếm cơm, thấp hơn một số nghề khác. Lại nữa, trong khi nền kinh tế còn yếu, chưa đủ sức bảo đảm cho sự phát triển quy mô giáo dục thì vì háo danh, vì để tuyên truyền sự ưu việt của chế độ mà chủ trương mở rộng giáo dục quá khả năng đáp ứng của kinh tế, buộc phải hạ thấp lương giáo viên, đẩy họ lâm vào cuộc sống bần cùng.

Khi nền kinh tế được xếp thứ 135, nền giáo dục được xếp thứ 65 trên thế giới (vì có nhiều người đi học, chẳng cần biết học như thế nào) thì nhiều người phổng mũi, tự hào. Có biết đâu rằng thế là làm trái quy luật (đẩy giáo dục ra quá xa kinh tế). Khi so sánh tỷ lệ số sinh viên trên số dân, ta thấp hơn nhiều nước, nên cố đặt chỉ tiêu nâng lên cho bằng. Biết đâu rằng tính số sinh viên trên tổng thu nhập quốc dân thì ta cao ngất ngưỡng, không mấy nước theo kịp. Phải chăng như thế là để sánh vai, ngang hàng cùng các cường quốc. Thì ra phương châm giáo dục của cộng sản VN là chia chữ cho nhiều người, chia bằng cấp cho nhiều người chứ không cần chất lượng, (đặc biệt là bằng tiến sĩ).

Chính vì sự bần cùng hóa đội ngũ giáo viên mà làm phát sinh nhiều tiêu cực trong giáo dục, kéo dài nhiều năm.

Về đề bạt cán bộ. Lãnh đạo nhà nước nhất nhất tuân theo đường lối và quy họach của ĐCS, một văn bản phạm những sai lầm về phản dân chủ, phản khoa học, phản tiến bộ. Theo quy hoạch đó dễ tìm được bọn cơ hội, kém liêm chính, lắm mưu mô mà rất khó chọn được người tài năng, liêm khiết, trung thực.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục rất cần là người của khoa học xã hội và nhân văn. Nếu xuất thân từ khoa học tự nhiên hoặc kỹ thuật thì cũng phải khá am hiểu về nhân văn chứ không nên là người chỉ giỏi về tự nhiên hoặc kỹ thuật. Bộ trưởng Bộ Giáo dục lại nên là người hiểu kỹ về phổ thông, không nên là người chỉ quen với đào tạo đại học. Thế mà lãnh đạo nhà nước đã có lúc thiếu thận trọng, thiếu trách nhiệm khi trao chức Bộ trưởng vào tay một số người ít phù hợp như bà Nguyễn Thị Bình, ông Phùng Xuân Nhạ.

Bà Bình nguyên là Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, đang trong thời gian chờ công tác khi tái thống nhất hai miền đất nước. Sau khi TS Nguyễn Văn Huyên mất (năm 1975 ở Đức) thì lãnh đạo nhà nước đã tìm được chỗ trống để đặt bà Bình vào. Việc này gần như là một ân huệ chứ không phải cử người có năng lực làm Bộ trưởng Bộ giáo dục.

Bà Bình nói với các cán bộ chủ chốt dưới quyền rằng bà hiểu biết rất ít và chưa có kinh nghiệm gì về giáo dục, mong được các cán bộ tận tình giúp đỡ để có thể hoàn thành nhiệm vụ. Đó là nói thật lòng, nhưng một bộ trưởng không được phép như vậy, nghĩa là không được nhận làm bộ trưởng khi mình không có kiến thức và kinh nghiệm. Làm bộ trưởng thì không thể vừa làm vừa học. Bộ trưởng như vậy rất dễ phá nát ngành mà không biết. Nhiều tai họa phản giáo dục bắt đầu sinh ra từ thời bà Bình nhưng Bộ trưởng không nhìn thấy để ngăn chặn mà còn để nó lan tràn. Làm bộ trưởng khó hơn làm Phó Chủ tịch nước nhiều. Thật là liều, thiếu khiêm tốn và phạm tội với dân tộc khi không đủ năng lực mà dám nhận làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục.

Thật ra Bộ trưởng vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân. Bộ trưởng không được toàn quyền đề ra đường lối, chính sách cho giáo dục mà phải chịu sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo, chịu sự điều khiển của Bộ Chính trị, mà thực chất sự chỉ đạo ấy, sự điều khiển ấy cũng chủ yếu từ một người, Bộ trưởng cũng bị vòng kim cô của CNML trói buộc.

Khi Bộ trưởng không đủ năng lực bao quát các hoạt động thì cấp dưới dễ qua mặt, Việc để các chuyên gia lập ra chương trình quá nặng là một dẫn chứng. Làm chương trình các môn học phải tuân theo nguyên lý “vừa sức”, chứ không phải học càng nhiều, càng khó càng tốt. Như vậy người lập chương trình phải hiểu rõ trình độ tiếp thu của học sinh và trình độ dạy của thầy. Chương trình Hoàng Xuân Hãn (thời chính phủ Trần Trọng Kim) chỉ do một người chỉ đạo lập ra mà được dùng rất hiệu quả trong nhiều năm.

Thế hệ chúng tôi, học phổ thông 9 năm, lại chủ yếu học ban đêm, học rất ít, thế mà nhiều người trở thành tiến sĩ, giáo sư thứ thiệt, có thể sánh vai cùng giáo sư của nhiều nước về hoạt động khoa học. Được như vậy có lẽ vì không bị nhồi nhét kiến thức đến mụ cả người và quan trọng là biết tự học.

Lập chương trình và viết sách giáo khoa cho phổ thông chỉ nên giao cho các thầy phổ thông giỏi các môn đó. Các giáo sư đầu ngành chỉ nên làm xét duyệt. Để viết sách, mỗi môn chỉ chọn một vài thầy. Việc để cho các giáo sư giỏi của đại học soạn chương trình và viết sách phổ thông, rất dễ vi phạm nguyên lý vừa sức. Các GS cứ tưởng học sinh đều thông minh như mình, các thầy đều có phương pháp sư phạm tốt như mình nên mới đưa vào những nội dung khó. Mà thực ra với đa số học sinh, các kiến thức khó ấy chẳng dùng để làm gì trong suốt cuộc đời. Có ý kiến cho rằng, phải học những điều khó của toán, lý để rèn luyện tư duy chính xác. Điều đó chỉ đúng một phần, còn lại là ngụy biện. Có nhiều thứ giúp tư duy chính xác chứ không phải chỉ có những bài toán khó và trong cuộc đời gặp phải bài toán khó cần tìm lời giải chính xác là rất hiếm. Trong đời, biết đặt bài toán quan trọng hơn biết tìm lời giải chính xác, biết phán đoán càng quan trọng hơn.

Lại nữa, một cuốn sách giáo khoa cho một lớp thì chuyện gì phải đến năm, sáu giáo sư cùng nhau biên soạn. Hình như kéo nhiều người vào là để chia nhau danh và lợi chứ không phải do yêu cầu.

Chương trình quá nặng là lý do chính để các thầy tổ chức dạy thêm tràn lan. Chương trình như vậy làm hủy hoại lòng ham muốn học tập của số đông, làm cho trẻ sợ đến trường, biến niềm vui, hạnh phúc của trẻ thành một thứ hành hạ, tra khảo. Lập chương trình quá nặng hình như chỉ để thỏa mãn thói sĩ diện của những người lập ra nó. Kết quả là họ đã phạm tội ác, làm cho đa số trẻ sợ học. Vì vô minh mà họ đã vi phạm vào “nguyên lý vừa sức” trong giáo dục. Cũng rất có thể việc lập ra chương trình quá nặng là do chỉ đạo của ai đó nhằm tạo điều kiện để các thầy kiếm cớ dạy thêm.

Rồi phương châm đào tạo học sinh giỏi toàn diện. Nghe qua thì tưởng là tích cực, nhưng lại chứa tiêu cực lớn. May ra trong hàng triệu người mới có vài người giỏi toàn diện, còn đa số người ta chỉ có thể giỏi một vài thứ, gọi là có năng khiếu. Tốt nhất là phát hiện được năng khiếu và tập trung bồi dưỡng chứ không phải cố học giỏi toàn diện.

Với giáo viên, có một việc cần thiết, bình thường rất nhẹ nhàng nhưng người ta đã làm cho nó nặng nề một cách không cần thiết. Đó là việc chuẩn bị giáo án trước khi lên lớp. Việc này cần làm nghiêm chỉnh, nhưng nhiều người vì kém hiểu biết nên đã phức tạp hóa, nặng nhọc hóa. Chuẩn bị giáo án cơ bản là suy nghĩ về nội dung, dàn bài và phương pháp trình bày. Việc này cần được thực hiện nhuần nhuyễn trong đầu. Còn mức độ thể hiện ra thành văn bản phụ thuộc vào trình độ, thâm niên, kinh nghiệm của mỗi người.

Với giáo viên mới vào nghề thì viết ra càng đầy đủ càng tốt, nhưng với người đã lão luyện nhiều năm thì chỉ cần suy nghĩ kỹ trong đầu mà không cần viết ra thật đầy đủ, nếu có viết cũng chỉ là vài cái gạch đầu dòng. Yêu cầu những thầy cô đã lão luyện cũng phải soạn bài như người mới vào nghề là việc quá vô lý, ngu xuẩn. Thế rồi mới sinh ra các chợ giáo án, sinh ra việc kiểm tra xem thầy cô lên lớp có giáo án hay không. Phải kiểm tra vì không tin vào lương tâm và tự giác của họ, vì nó là một chỉ tiêu thi đua. Nghe nói có trường còn dùng nhân viên bảo vệ kiểm tra nội dung giảng dạy của giáo viên. Lạnh cả sống lưng!

Một nhận thức nhầm từ trên xuống dưới là ghép dạy thêm học thêm vào cùng một khái niệm rồi ra lệnh cấm cả hai. Tự điển chưa có định nghĩa dạy thêm, học thêm. Theo tôi thì học thêm là học những thứ mà ở trường không dạy hoặc dạy chưa đạt yêu cầu. Học thêm chủ yếu bằng tự học hoặc có hướng dẫn. Dạy thêm là khi thầy dạy môn học ở trường cho học sinh ấy, nay cũng dạy môn đó cho học sinh ấy ngoài giờ chính khóa, có thu học phí. Như vậy có cấm thì cấm dạy thêm, cấm cho triệt để chứ sao lại cấm cả học thêm. Thế giới nghe nói ở VN cấm học thêm, người ta sẽ không hiểu như thế nào.

Lại nữa, người ta kêu gọi xóa bỏ cách lấy thầy giáo (người dạy) làm trung tâm mà cần phải lấy học sinh (người học) làm trung tâm. Nhiều người, kể cả cán bộ cấp cao nói như sáo, như vẹt mà chưa hiểu bản chất. Lấy ai, cái gì làm trung tâm là việc làm trong từng bài giảng chứ không phải trong hoạt động của nền giáo dục. Trong từng bài, khi thầy dùng phương pháp gợi mở để giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức thì cần lấy việc học làm trung tâm (việc học chứ không phải học sinh), thầy phải tổ chức buổi học làm sao để học sinh suy nghĩ được nhiều nhất, cùng với thầy khám phá, tái sáng tạo kiến thức. Còn trong những buổi học mà thầy dùng phương pháp thuyết giảng thì phải đặt việc dạy làm trung tâm. Trong dạy học có nhiều lúc phải dùng thuyết giảng mới có hiệu quả cao. Vì vậy không thể bỏ được phương pháp này. Chỉ là trước đây phổ biến phương pháp thầy đọc trò chép, học và làm theo mẫu thì bây giờ bổ sung thêm cách dạy, lấy việc học làm trung tâm. Trong giáo dục, Đức Phật khuyên “Y pháp bất y nhân”, suy ra phải lấy nội dung (pháp) làm chính, chứ không theo người (người dạy và cả người học).

Trong từng bài thì có thể lấy việc học hoặc việc dạy làm trung tâm, chứ không nhất thiết bao giờ cũng lấy việc học làm trung tâm mà xóa bỏ hoàn toàn phương pháp thuyết giảng, càng không nên cho rằng lấy người học làm trung tâm. (Và nên thận trọng khi dùng khẩu hiệu “Tất cả vì học sinh thân yêu”). Còn để chấn hưng, phát triển một nền giáo dục thì bắt buộc phải lấy việc đào tạo, chăm lo cho đội ngũ giáo viên làm then chốt.

Đảng đã ra Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đã vài lần tôi góp ý với Quốc Hội và lãnh đạo nhà nước, rằng hiện nay chưa thể nào thực hiện NQ 29 vì tuy có chuẩn bị một số điều kiện nhưng toàn là điều kiện phụ, còn hai điều kiện quan trọng nhất chưa có. Đó là thể chế chính trị Quang Minh Chính Đại và một đội ngũ giáo viên có năng lực.

Để phát triển giáo dục cần thoát ra khỏi sự kìm kẹp của chính trị. Giáo dục gắn mật thiết với mọi hoạt động của xã hội. Liệu nó có thể hoạt động bình thường trong xã hội bị kìm kẹp bởi nền độc tài toàn trị, tham nhũng và dối trá tràn lan.

Một trận đánh mà đa số người lính không có tinh thần, không đủ năng lực chiến đấu thì chắc chắn sẽ thất bại dù tham mưu có giỏi đến đâu, chiến thuật có tốt đến bao nhiêu (trừ khi rút lui, không đánh vội). Đổi mới, cải cách giáo dục phải do đội ngũ giáo viên thực hiện trực tiếp, thế mà giáo viên đang bị bần cùng hóa, đang bị xã hội và học sinh coi thường thì lấy sức đâu, lấy tinh thần ở đâu để làm việc đổi mới căn bản và toàn diện một nền giáo dục đã rệu rã. Đội ngũ giáo viên hiện có là sản phẩm trong nhiều năm đường lối giáo dục của ĐCS. Không dễ gì thay đổi hoặc đào tạo họ nhanh chóng trở thành người giáo viên có phẩm chất cần thiết.

Chấn hưng giáo dục là để cứu vớt thế hệ trẻ, cứu vớt dân tộc khỏi sa vào đường tăm tối. Trong giai đoạn hiện nay phải xem hoạt động cho chấn hưng giáo dục, cho việc nâng cao đạo đức là thể hiện lòng yêu nước cao cả, nó phải được đặt cao hơn phát triển kinh tế. Để làm việc này phải vượt qua nhiều khó khăn, phải vạch ra, đấu tranh và chiến thắng được thế lực đen tối, bảo thủ. Đó là cuộc đấu tranh về tư tưởng, về đường lối trong hòa bình. Xin đừng ba hoa, đừng khoác lác về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục khi vẫn cố giữ nền độc tài toàn trị của đảng theo CNML. Nếu vẫn kiên trì CNML thì chỉ có thể vá víu, sửa cái sai này bằng cái sai khác mà thôi.

Để thật sự chấn hưng giáo dục thì có hàng ngàn việc cụ thể phải làm, trong một bài viết không tiện kể ra. Xin hẹn dịp khác thuận lợi.

_______

(*) Ghi chú: Nghe đâu đây là sáng kiến của cố GS Tạ Quang Bửu. Sau khi vận động Quốc hội thông qua điểm ưu tiên thì GS quyết định tổ chức các kỳ thi nghiêm túc. Trước đó việc chọn người du học do toàn quyền Ban tuyển sinh của tỉnh thành. Con của chủ tịch, của bí thư đương nhiên được ưu tiên số một. Sau đó nhiều chủ tịch và bí thư nói với nhau là bị ông Bửu lừa mà không biết.

Bình Luận từ Facebook

BÌNH LUẬN

Xin bình luận ở đây
Xin nhập tên của bạn ở đây