Quy hoạch Điện 8 trình Thủ tướng: “Cơn mê” điện than vẫn tiếp tục

TBKTSG

Nguyễn Đăng Anh Thi (*)

28-10-2021

(KTSG) – Bản dự thảo Quy hoạch điện 8 (QHĐ8) lại đang nằm trên bàn Thủ tướng chờ xem xét phê duyệt theo Tờ trình 6277/TTr-BCT của Bộ Công Thương ngày 8-10-2021. Liệu Thủ tướng có nên ký duyệt thông qua hay phải yêu cầu tiếp tục chỉnh sửa?

Dự thảo QHĐ8 tiếp tục đi vào vết xe đổ nhiệt điện than mà thế giới đã và đang từ bỏ.

Dù là một bản quy hoạch ngành, nhưng QHĐ8 không chỉ liên quan đến ngành điện, mà sẽ là tấm gương phản chiếu mô hình tăng trưởng của Việt Nam, có tính quyết định đến chất lượng môi trường, chất lượng sống và sức khỏe người dân Việt Nam không chỉ trong năm năm tới mà còn trong vài thập niên tới.

Không dừng lại ở đó, bản quy hoạch ngành điện này còn là bằng chứng để thế giới đánh giá về những cam kết và trách nhiệm về khí hậu của Việt Nam, đặc biệt là khi lãnh đạo toàn cầu đang tề tựu về Glasgow, Vương quốc Anh, dự Hội nghị Biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc (COP26) từ ngày 31-10-2021.

Khẳng định vị thế “cường quốc điện than”

Trong khi phải trì hoãn mục tiêu “cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” thêm 10 năm nữa, Việt Nam đã thành “cường quốc” nhiệt điện than. Theo Global Coal Plant Tracker, Việt Nam hiện xếp thứ 6 châu Á và thứ 11 trên thế giới về công suất lắp đặt nhiệt điện than. Ba nước đứng đầu thế giới là Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ. Hình 1 cho thấy “tầm cỡ” của nhiệt điện than Việt Nam trong nhóm các nước xếp từ 4 đến 13.

Dù quy mô hệ thống điện Việt Nam chỉ xếp thứ 23 thế giới, nhưng chính nhiệt điện than đã đưa Việt Nam trở thành “cường quốc”. “Vị thế” này được củng cố và tăng cường nhờ việc đề xuất xây thêm 27 nhà máy nhiệt điện than trong 15 năm tới theo QHĐ8.

Các con số trên cho thấy công suất nhiệt điện than tại Việt Nam sẽ tăng gấp đôi chỉ trong vòng 10 năm tới, trung bình một năm xây thêm hai nhà máy. Với kế hoạch này, Việt Nam sẽ vượt qua Ấn Độ và Indonesia để vươn lên xếp thứ 2 thế giới về quy mô xây mới nhiệt điện than, chỉ xếp sau Trung Quốc (hình 2).

Tương ứng với công suất là sản lượng. Hình 3 cũng cho thấy rằng sản lượng điện than của thế giới đã đạt đỉnh vào năm 2011 với tỷ trọng 40,1% và giảm liên tục từ đó đến nay. Trong khi đó, sản lượng điện than của Việt Nam đã tăng liên tục từ năm 2012 và có bước “đại nhảy vọt” từ sau năm 2017, hiện chiếm tỷ trọng gấp gần 1,6 lần mức trung bình của thế giới. Tỷ trọng sản lượng điện than của Việt Nam năm 2020 lên đến 52,9%, so với của thế giới hiện giảm xuống chỉ còn 33,8%.

Theo Dự thảo Quyết định phê duyệt QHĐ8, tỷ trọng sản lượng điện than đến năm 2030 được duy trì ở mức cực cao là 44,2-45,5% và dự kiến giảm xuống còn khoảng 27,4-32,4% vào năm 2045.

“Đổ tội” cho điện gió và mặt trời

Trong số các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mặt trời và gió có đặc điểm nổi bật là luôn biến thiên và khó dự đoán. Vì vậy, năng lượng mặt trời và gió được xếp vào loại năng lượng tái tạo biến đổi (Variable Renewable Energy, VRE). Xu hướng chuyển dịch năng lượng toàn cầu cho thấy đầu tư vào VRE hiện nay không chỉ đạt mục tiêu bảo vệ môi trường mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện an ninh năng lượng.

Sự thành công của các quốc gia trong quá trình chuyển đổi năng lượng thể hiện qua tỷ lệ sản lượng điện năng từ nguồn điện gió và mặt trời trên tổng sản lượng điện năng của quốc gia đó trong năm, được gọi là tỷ trọng VRE.

Theo Dự thảo Quyết định phê duyệt QHĐ8, dự kiến tỷ trọng VRE tối đa năm 2030 là 12,5%, năm 2045 là 26,3%. So với tiềm năng điện mặt trời và điện gió của Việt Nam cũng như xu hướng thúc đẩy tỷ trọng VRE cao trên thế giới hiện nay, rõ ràng các mục tiêu trên là rất khiêm tốn và không tương xứng.

Trong hai năm vừa qua, năng lượng tái tạo, mà điển hình là điện mặt trời, đã đóng vai trò cứu tinh để bù đắp cho sự chậm trễ của chín dự án điện than với công suất lên đến 6.150 MW trong QHĐ7 hiệu chỉnh vì thiếu vốn. Dù vậy, Bộ Công Thương lại “quy tội” khi cho rằng “điện gió và điện mặt trời đã gây ra nhiều khó khăn trong vận hành, điều độ hệ thống điện, ảnh hưởng đến vận hành các nguồn nhiệt điện than, khí”.

Thực tế, sản lượng điện gió và điện mặt trời của Việt Nam hiện chỉ chiếm tỷ trọng 5,4% trên toàn hệ thống, thấp hơn nhiều so với tỷ trọng 9,4% của thế giới năm 2020 (hình 4).

Điều đó nói lên rằng những khó khăn trong vận hành hệ thống điện Việt Nam hoàn toàn không phải do bản chất biến đổi và bất định của điện gió và điện mặt trời. Ngược lại, phải nhìn nhận một cách chính xác rằng sự phụ thuộc nhiệt điện than là rào cản chủ yếu trong quá trình chuyển dịch từ năng lượng bẩn sang năng lượng sạch tại Việt Nam. Số liệu về tỷ trọng VRE cao của các nước trên thế giới củng cố nhận định này.

Năm 2018, lần đầu tiên toàn khối EU đạt tỷ trọng VRE trên 15%. Hiện nay, có ít nhất chín quốc gia trên thế giới đạt tỷ trọng VRE trên 20%, trong đó kỷ lục thế giới đang thuộc về Đan Mạch (trên 60%), tiếp đến là Uruguay (trên 40%), tiếp đến là Ireland, Đức và Hy Lạp (trên 30%) (hình 5).

Một báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) năm 2014 nghiên cứu về chuyển đổi năng lượng tại 15 quốc gia cho thấy khả năng tỷ trọng VRE vượt trên 30% trong lưới điện có thể đạt được với chi phí gia tăng không đáng kể nhờ vào cải thiện chính sách, hệ thống quản lý, và lập kế hoạch tốt hơn.

Một nghiên cứu khác của phòng thí nghiệm Năng lượng Tái tạo Quốc gia Mỹ (NREL) năm 2018 cũng chỉ ra rằng có thể tích hợp tỷ trọng VRE đến 25% vào lưới điện chỉ bằng các giải pháp về quản lý. Việc đầu tư thêm vào các nguồn phát điện linh hoạt để hỗ trợ lưới điện chỉ thực sự cần thiết khi tỷ trọng VRE cao hơn 25%.

Báo cáo World Energy Oulook 2021 của IEA cho thấy do sự giảm giá mạnh mẽ của điện gió và mặt trời, hiện đã có trên 130 quốc gia cam kết nâng công suất và sản lượng các nguồn điện sạch này đủ để đáp ứng nhu cầu điện năng trong 10 năm tới. Dự kiến tỷ trọng VRE trên toàn cầu năm 2030 sẽ đạt 30%, so với mức 9,4% hiện nay. Vậy, Việt Nam có thể đặt mục tiêu tỷ trọng VRE năm 2030 bằng mức trung bình của thế giới, so với mức tối đa chỉ là 12,5% được không?

Việc “đổ tội” cho điện gió và mặt trời “gây ảnh hưởng đến vận hành các nguồn nhiệt điện than, khí” không những không có cơ sở mà ngược lại còn cho thấy tư duy “lỡ phóng lao phải theo lao”. Dự thảo QHĐ8 tiếp tục đi vào vết xe đổ nhiệt điện than mà thế giới đã và đang từ bỏ, đồng thời quay lưng lại với thành quả chuyển dịch sang năng lượng sạch bước đầu mà Việt Nam đã đạt được trong hai năm qua, đi ngược chiều với cuộc cách mạng năng lượng sạch mà thế giới đang triển khai ở tốc độ và quy mô không thể cưỡng lại.

Tài chính điện than đang cạn kiệt

Ngày 21-9-2021, tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tuyên bố: “Trung Quốc sẽ đẩy mạnh hỗ trợ các nước đang phát triển khác trong việc phát triển xanh và năng lượng carbon thấp, và sẽ không xây dựng các dự án nhiệt điện than mới ở nước ngoài”. Dù vẫn phải thận trọng với phát biểu này vì chưa có lộ trình cụ thể, cũng cần thừa nhận rằng tài chính cho nhiệt điện than hầu như đã cạn kiệt.

Trước đó, Nhật Bản và Hàn Quốc, hai trong ba quốc gia từng có tài trợ cho nhiệt điện than Việt Nam cũng đã cam kết chấm dứt tài trợ điện than ở nước ngoài. Vậy, nguồn vốn từ đâu để xây dựng 27 nhà máy điện than theo QHĐ8?

Thực tế, theo tổng hợp của GreenID, có đến 18 dự án, tương đương hai phần ba số lượng nhà máy và công suất trên tổng số 27 nhà máy dự kiến xây dựng là hoàn toàn chưa tiếp cận được tài chính. Hàng loạt dự án điện than chậm tiến độ vì thiếu vốn trong thời gian qua có vẻ như chưa đủ để những nhà hoạch định chính sách tại Bộ Công Thương thức tỉnh trong cơn mê điện than.

Với cam kết chấm dứt tài trợ điện than của ba chủ nợ Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, có thể nhìn thấy một tương lai “đen như than” của các dự án này cũng như số phận của bản QHĐ8 nếu tiếp tục ưu ái điện than.

Điện than “sẽ thành dĩ vãng” sau COP26

Phát thải khí nhà kính của Việt Nam đã tăng gấp đôi chỉ trong vòng 10 năm qua, so với mức tăng trung bình của thế giới là 15%. Than đá là thủ phạm chính gây phát thải khí nhà kính tại Việt Nam, khi đóng góp đến 54% lượng phát thải do đốt nhiên liệu hóa thạch, theo Our World in Data. Với kế hoạch xây thêm 27 nhà máy nhiệt điện than trong vòng 15 năm tới, phát thải khí nhà kính của Việt Nam chắc chắn sẽ tăng lên tương ứng, đi ngược lại với nỗ lực của cộng đồng quốc tế về cắt giảm phát thải.

Theo Hiệp định Khí hậu Paris 2015 mà Việt Nam là một thành viên tham gia ký kết, thế giới đã thống nhất cắt giảm phát thải nhằm giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 2 độ C trong thế kỷ này và theo đuổi các nỗ lực giữ cho nhiệt độ không tăng quá 1,5 độ C.

Thực tế, cam kết khí hậu của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế được xem là “cực kỳ bất hợp lý” (critically insufficient), theo đánh giá của Climate Action Tracker. Tổ chức nghiên cứu độc lập này cho rằng cam kết của Việt Nam “phản ánh nỗ lực tối thiểu hoặc không cần hành động, và hoàn toàn không phù hợp với giới hạn nhiệt độ 1,5 độ C của Hiệp định Paris. Nếu tất cả các quốc gia đều làm như Việt Nam, sự nóng lên toàn cầu sẽ vượt quá 4 độ C”.

Nói cách khác, Việt Nam rõ ràng đang bị xem là nước góp phần gây ra thảm họa khí hậu. Điều này từng được thể hiện qua phát biểu của Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB), ông Jim Yong Kim năm năm trước: “Nếu Việt Nam tiếp tục phát triển thêm 40.000 MW điện than, nếu toàn bộ khu vực thực hiện các kế hoạch xây thêm điện than tại thời điểm này, tôi nghĩ mọi thứ đã chấm dứt. Đó sẽ là thảm họa cho nhân loại và hành tinh của chúng ta”.

Báo cáo “Net Zero by 2050” của IEA cũng đã chỉ ra rằng việc chấm dứt xây dựng điện than mới và loại bỏ nhanh các nhà máy điện than đang vận hành là trụ cột để đảm bảo rằng nhiệt độ toàn cầu không tăng quá 1,5 độ C. Đề cập đến báo cáo này, Tổng Thư ký Liên hiệp quốc, ông António Guterres kêu gọi tất cả các chính phủ, các công ty tư nhân và chính quyền địa phương “chấm dứt cơn nghiện than chết người” bằng cách hủy bỏ tất cả các dự án điện than toàn cầu. Ông nói rõ việc loại bỏ dần nhiệt điện than là “bước quan trọng nhất duy nhất để đạt được mục tiêu 1,5 độ C của Hiệp định Paris”.

Kể từ Hiệp định Paris năm 2015, số dự án điện than được đề xuất xây mới đã bị loại bỏ đến 76% trên toàn cầu. Hiện nay, đã có 44 quốc gia cam kết không xây dựng thêm nhà máy điện than mới và 40 quốc gia khác hiện cũng đang sẵn sàng cam kết tương tự sau khi hủy bỏ các dự án nhà máy điện than đã được đề xuất trước đó. Ông Alok Sharma, Chủ tịch COP26, nhận định hội nghị khí hậu lần này sẽ khiến điện than trở thành dĩ vãng.

(*) Chuyên gia năng lượng và môi trường

Bình Luận từ Facebook