Tác giả: Bill Hayton
Song Phan, chuyển ngữ
26-5-2021
Trong số rất nhiều huyền thoại xoay quanh lịch sử biển Đông, một trong những huyền thoại khó xóa bỏ nhất là ý kiến cho rằng, trong Thế chiến thứ hai, các đồng minh phương Tây đã hứa giao các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang tranh chấp cho Trung Quốc. Huyền thoại này tiếp tục xuất hiện trong các cuộc thảo luận công khai dù không có bằng chứng hậu thuẫn nó. Ngay cả Đại sứ Trung Quốc tại Philippines, Huang Xilian (黄溪连: Hoàng Khê Liên), cũng đã nhầm lẫn khi lặp lại điều đó.
Tháng 7 năm 2020, Đại sứ Liên nói với Thời báo Manila rằng, “Trung Quốc đã thu hồi và nối lại việc thực thi chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa sau chiến tranh theo Tuyên bố Cairo, Tuyên bố Potsdam và các công cụ khác sau chiến tranh”. Đại sứ đã sử dụng từ ‘Nam Sa’ như là tên Trung Quốc cho quần đảo Trường Sa. Có lẽ ông ta nói mà không biết mình đang nói những điều vô nghĩa.
Tuyên bố Cairo là một văn bản ngắn được công bố vào ngày 1 tháng 12 năm 1943 sau một loạt các cuộc gặp giữa Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, Thủ tướng Anh Winston Churchill và Thống chế Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc. Ba nhà lãnh đạo tuyên bố rằng, một khi chiến tranh kết thúc, “Nhật Bản sẽ bị tước bỏ tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà họ đã chiếm giữ hoặc trấn đóng kể từ đầu Thế chiến thứ nhất năm 1914, và tất cả các lãnh thổ mà Nhật Bản đã đánh cắp của Trung Quốc, như là Mãn Châu, Formosa, và Pescadores (Bành Hồ), sẽ được thu hồi về Trung Hoa Dân Quốc. Nhật Bản cũng sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà nước này đã chiếm đoạt bằng bạo lực và lòng tham“.
Điều đầu tiên cần lưu ý về Tuyên bố Cairo là nó không đề cập đến quần đảo ‘Nam Sa’ hoặc Trường Sa, hoặc Hoàng Sa hoặc bãi cạn Scarborough hoặc bất kì thể địa lí nào có tranh chấp hiện nay. Những đảo duy nhất được nêu tên cụ thể là Formosa (Đài Loan) và Pescadores (Bành Hồ) nằm ngay phía tây của Đài Loan. Chỉ có hai nhóm đảo này được hứa trả Trung Quốc, không có đảo nào khác.
Câu tiếp của Tuyên bố Cairo nói rằng các lực lượng Nhật Bản sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các lãnh thổ khác mà họ đã xâm lược nhưng không nói gì về việc các lãnh thổ đó sẽ được trả lại cho những quốc gia nào. Câu văn này bao hàm các vùng lãnh thổ ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương, từ Miến Điện đến Papua New Guinea, từng là một phần của các đế quốc Anh, Pháp và Hà Lan trước khi bị Nhật Bản xâm lược. Các chính phủ đó muốn lấy lại các thuộc địa của họ sau khi Nhật Bản bị đánh bại, nhưng Hoa Kì không đồng ý. Kết quả là, lời văn của Tuyên bố Cairo rất mơ hồ. Các nhà lãnh đạo có thể đồng ý rằng Nhật Bản nên bị trục xuất khỏi các lãnh thổ đó, nhưng số phận tương lai của chúng vẫn chưa được quyết định.
Còn nữa. Quần đảo Nam Sa / Trường Sa không thể được coi là “vùng lãnh thổ mà Nhật Bản đã đánh cắp từ tay Trung Quốc” vì Trung Quốc đã không hề yêu sách nó vào năm 1943. Bằng chứng lịch sử rõ rệt. Năm 1943, Bộ Thông tin của Trung Hoa Dân Quốc (RoC) đã xuất bản cái mà họ gọi là ‘China Handbook 1937-43’ (Cẩm nang Trung Quốc 1937–43), một hướng dẫn toàn diện về địa lí, lịch sử, chính trị và kinh tế của nước này. Trên trang mở đầu, nó nói rằng “lãnh thổ của Trung Hoa Dân Quốc kéo dài từ [Dãy núi Sajan (薩揚嶺: Tát Dương lĩnh) ở phía bắc]… đến đảo Tri Tôn của Hoàng Sa”.
Nói cách khác, vào năm 1943, Trung Quốc chỉ yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa ở phía bắc biển Đông, chứ không yêu sách Trường Sa hay bãi cạn Scarborough. Hai ấn bản của Cẩm nang Trung Quốc đã được xuất bản trong năm đó; ấn bản đầu ở Calcutta vào tháng Bảy và ấn bản thứ hai ở New York vào tháng Mười Một. Cả hai đều in cùng một lời văn.
Mãi đến tháng 6 năm 1947, sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, chính phủ Trung Quốc mới đồng ý yêu sách quần đảo Trường Sa / Nam Sa (Nansha). Ngay cả khi đó, ấn bản năm 1947 của cuốn Cẩm nang Trung Quốc này cũng tỏ ra thận trọng. Nó nói rằng “ranh giới … cực nam [của Trung Quốc] vẫn cần được xác định … và chủ quyền của quần đảo Đoàn Sa (Tuansha) phía nam đang bị tranh chấp giữa Trung Quốc, Khối thịnh vượng chung Philippines và Đông Dương”.
Vào thời điểm này, các nguồn tài liệu của Trung Quốc gọi Trường Sa là “Tuansha” (Đoàn Sa). Cái tên Nansha (Nam Sa) – bãi cát phía nam – lúc này được dùng để chỉ bãi ngầm Macclesfield, xa hơn về phía bắc, vì trước đây đó là khu vực cực nam của Trung Quốc. Chỉ đến năm 1947, cái tên “Nam Sa” mới được chuyển xuống xa hơn về phía nam. (Tôi đã giải thích lịch sử cách Trung Quốc yêu sách các đảo ở biển Đông trong một bài báo học thuật gần đây).
Nói tóm lại, rõ ràng là không phái đoàn nào tại Hội nghị Cairo có thể có ý cho rằng cụm từ “lãnh thổ mà Nhật Bản đã đánh cắp từ tay Trung Quốc” bao hàm cả Trường Sa hoặc bãi cạn Scarborough. Đơn giản là các đảo này không được bất kỳ ai coi là của Trung Quốc vào thời điểm đó.
Tình hình phức tạp hơn một chút khi nói đến quần đảo Hoàng Sa. Năm 1931, Pháp với tư cách là thế lực thực dân ở Đông Dương đã chính thức yêu sách Hoàng Sa (dựa trên những yêu sách xưa hơn nhiều của thuộc địa An Nam). Do đó, không rõ liệu Nhật Bản đã đánh cắp quần đảo này từ tay Trung Quốc hay Pháp, vì vậy tình trạng của chúng vẫn còn mơ hồ.
Tuyên bố Potsdam năm 1945 hoàn toàn không đề cập đến các đảo ở biển Đông. Bản văn được Tổng thống Harry Truman, kế nhiệm của Roosevelt, cùng với Churchill và Tưởng Giới Thạch, chỉ nói rằng “Các điều khoản của Tuyên bố Cairo sẽ được thực hiện và chủ quyền của Nhật Bản sẽ được giới hạn ở các đảo Honshu, Hokkaido, Kyushu, Shikoku và các đảo nhỏ như chúng tôi xác định”. Nó không nói gì về việc lãnh thổ nào sẽ được trả cho Trung Quốc kiểm soát.
Điều này cũng đúng với Hiệp ước Hòa bình San Francisco năm 1951. Điều 2 chỉ nói rằng “Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, quyền sở hữu và yêu sách đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa”. Một cụm từ tương tự cũng xuất hiện trong Hiệp ước Đài Bắc năm 1952 giữa Nhật Bản và Trung Hoa Dân Quốc. Không có hiệp ước nào nói bất cứ điều gì về việc các hòn đảo đó đúng lẽ thuộc về nước nào. Câu hỏi chỉ đơn giản là bỏ ngỏ.
Bằng chứng lịch sử là rõ ràng. Không có gì trong bất kỳ văn kiện nào trong số các văn kiện này hứa hẹn giao các đảo ở biển Đông – ngoại trừ Đài Loan và quần đảo Bành Hồ – cho Trung Quốc. Thật quá xấu hổ cho rất nhiều người tự xưng là hiểu biết về chủ đề này vẫn tiếp tục kéo dài những huyền thoại thế này.
Trong hải đồ thế giới ( hải đồ Anh ) đều ghi ” South China sea” vì Trung quốc là một Đại lục lớn nhất khu vực này, nên lấy tên như vậy để dễ nhớ, để phân biệt các vùng biển lớn khác. Đẻ cho ” ôn hòa có học” thì nên thay đổi cách gọi hiện nay bằng cách goi bằng các con số, ví dụ như South china sea gọi thành vùng biển số 5 thuộc Thái bình Dương. Phạm vi 20 hải lý trở lại được gọi vùng biển quốc gia, ngoài 20 hải lý, vùng biển đó gọi chung là vùng biển khu vưc chung, sẽ được kiểm soát bởi lực lượng chung của khu vực. Làm được điều này sẽ tránh được sự tranh chấp liên tu bất tận do thời vận các quốc gia thay đổi
Nước tàu cho rằng luất pháp quốc tế nằm trên đầu súng, nên lấy sức mạnh bắt nạt các nươc Đông Nam Á.
Thiển nghĩ , đây là bài viết về vấn đề biển đảo ở Thái bình dương , (khu vực từ Nhật bản đến cuối Đông nam Á ) có dẫn chứng pháp lý , súc tích và đa chiều . Qua đó , chúng ta đã rõ ,rằng vấn đề chủ quyền biển đảo của các nước ven biển Đông nam Á đã bị thế lực ” Hitler thời đại ở Bắc Kinh” luôn tìm mọi âm mưu , bằng nhiều thủ đoạn xấu xa, kể cả vi phạm luật pháp ( dù họ đã tham gia soạn và ký kết) để chiếm lấy…Cũng qua đây , chúng ta càng thấy rõ dã tâm ,bằng mọi giá , phải tái lập thuộc địa sau thế chiến thứ hai, của các nước thực dân như Anh , Pháp .Họ đâu dễ dàng từ bỏ và ” cho không , biếu không” độc lập , tự do , theo nguyện vọng dân ” nhược tiểu” chúng mình ! Đây là bài học cay đắng và luôn nhắc nên có sự cảnh giác với những miếng ” bánh vẽ độc lập ” để dụ dỗ , mua chuộc , mị dân , mà họ là “chuyên gia bậc thầy ” . Trên võ đài , ngoại hình dẫu to cũng chưa chắc đã giành phần thắng . Cuộc sống cũng vậy : ” kẻ thù ” to , đông” , chính bởi chúng ta còn đông hơn , nhưng chưa biết gắn kết “! Đông sang Tây , cổ hay kim , bài học Việt nam hay ..Israel, đều đúng như thế . Cảm ơn !