Vũ Ngọc Yên
29-10-2019
Xuất khẩu lao động Việt Nam
Xuất khẩu lao động Việt Nam ra nước ngoài, là hoạt động kinh tế dưới hình thức cung ứng lao động Việt Nam ra nước ngoài theo hợp đồng có thời hạn, phục vụ cho nhu cầu nhân công lao động của doanh nghiệp nước ngoài.
Hoạt động này bắt đầu từ năm 1980 dưới hình thức hợp tác lao động với các nước Cộng sản, Nhưng đến năm 1991 sau khi các chế độ xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, Cộng sản Việt nam chuyển hướng xuất khẩu lao động qua các quốc gia tư bản có nhu cầu cần lao động như Đài loan, Nhật Bản, Mã Lai, Đại Hàn. Đối với chế độ, xuất khẩu lao động góp phần giải quyết việc làm và tăng nguồn ngoại tệ.
Năm 2017 số xuất khẩu lao động tăng trên 127.000 người, năm 2018 là 143.000 người. Trong 5 tháng đầu năm 2019 có 54.144 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Cục Quản lý Lao động Ngoài nước thuộc Bộ Lao động-Thương binh & Xã hội hồi tháng 6 năm 2018 cho biết, tại thời điểm đó có khoảng 500 ngàn người Việt Nam đang làm việc ở 40 quốc gia và tổng số tiền mà các lao động này gửi về nước mỗi năm khoảng 3 tỷ USD (tương đương hơn 76 ngàn tỷ đồng), chiếm khoảng 13% Tổng sản lượng nội điạ (GDP) của Việt Nam. Trong nước hiện có khoảng 345 doanh nghiệp chuyên về xuất khẩu lao động.
Thân phận lao động Việt nam ở nước ngoài
Mong muốn thay đổi cuộc sống, kiếm được một khoản tiền, nhiều người Việt “ôm mộng” ra nước ngoài lao động bất chấp cuộc sống chật vật, thậm chí phải trả giá bằng cả mạng sống.
Tại Cộng hòa Sec, người lao động Việt Nam gặp phải tình trạng bóc lột, bỏ đói và nhiều vấn đề phức tạp khác. Giới truyền thông đại chúng Séc sử dụng rộng rãi cụm từ “nô lệ thời đại mới” để nói về những công nhân ngoại quốc. Tại Qatar, nhiều lao động Việt Nam bỏ việc vì phải tham gia công việc xây dựng nặng nhọc, thời tiết khắc nghiệt mà thu nhập chỉ 200 USD/tháng. Nhiều lao động Việt Nam tại Malaysia bị lừa đảo hợp đồng lao động và bị ngược đãi, đánh đập, bỏ đói, tìm kiếm sự can thiệp để về Việt Nam.
Các lao động Maylaysia bị nhà môi giới xuất khẩu bỏ mặc ngay sau khi sang nước ngoài, nhận được việc làm không theo nội dung như trong hợp đồng. Một số rơi vào tình trạng việc làm lúc có lúc không, bị quỵt lương, bị chuyển nơi làm việc nặng liên tục như bốc vác, hàn xì, đổ bê tông, đây là thị trường được xem la có thu nhập thấp, rủi ro cao. Thu nhập bình quân của các lao động này ở Malaysia là khoảng 2,5 triệu đồng/tháng.
Xót xa hơn là đã có những người “bỏ mạng” không chỉ khi sang Trung Quốc làm thuê mà nguyên nhân chỉ có thông tin chung chung là “gặp nạn” hoặc “tai nạn“. Con số lao động Việt Nam qua đời ở nước ngoài, chưa được chính quyền Hà nội công bố rộng rãi. Theo thống kê của Cục Quản lý Lao động Ngoài nước Việt Nam, từ tháng 4 năm 2002 đến đầu năm 2008 đã có hơn 300 trường hợp người lao động Việt Nam chết tại Malaysia. Tháng 12 năm 2011, ba lao động tại Nga thiệt mạng vì bị ngạt khí đốt. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết những trường hợp chết đã làm thủ tục thông báo về gia đình, còn đăng lên báo thì không có lợi trong dư luận xã hội vì nhiều vấn đề chưa được rõ ràng.
Xuất khẩu lao động một dịch vụ cướp bóc, lừa đảo và buôn người
Mặc dù theo luật định, mức trần tiền môi giới cho các thị trường cứ mỗi năm của hợp đồng không vượt quá một tháng lương của người lao động, tuy nhiên trong thực tế, nhiều công ty xuất khẩu đòi hỏi người lao động phải đóng phí môi giới cao hơn. Ngoài ra còn tiền dịch vụ (mức trần khoảng 10% của lương tháng, đóng trước 18 tháng) trả cho công ty xuất khẩu, chi phí đặt cọc “chống trốn”, chi phí dạy nghề và ngoại ngữ trước khi xuất hành, vé máy bay lượt đi, … Nhiều lao động đã phải thế chấp đất và nhà cửa hay vay mượn để có đủ tiền lo chi phí.
Theo sự tính toán của báo Lao động: “Mức lương tối thiểu người lao động được hưởng là 15.840 Đài tệ/tháng. Bị trừ thuế tại Đài Loan: 3.168 đài tệ; phí cho công ty Việt Nam tuyển dụng lao động là 12%/tháng lương: 2.000 đài tệ; bảo hiểm tại Đài Loan: 46 đài tệ; phí môi giới 5.750 đài tệ. Mỗi tháng người lao động được ứng 2.000 đài tệ để sinh hoạt. Như vậy với mức lương 15.840 đài tệ/tháng, sau khi trừ các chi phí, người lao động chỉ tiết kiệm mỗi tháng khoảng 2.876 đài tệ. Số tiền này chỉ bằng 1/2 số tiền chi cho môi giới. Nếu với việc quy đổi khoảng 33 đài tệ = 1 USD thì họ chỉ còn giữ lại để gửi về nhà khoảng 87 USD/tháng. Như vậy có thể nói người lao động làm việc quần quật trong 1 tháng chủ yếu chỉ để trả cho các loại phí và chủ yếu là phí môi giới.
Theo báo giới đã có hàng vạn nạn nhân trong nước chấp nhận vay mượn tiền để xuất ngoại đi lao động tại các thị trường như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Úc nhưng không đi được vì bị icán bộ đảng và nhà nước ở mọi cấp lừa đảo. Đối với việc xuất khẩu lao động sang Nga, người lao động rất dễ bị lừa và không thể kiếm được chỗ làm hợp pháp. Có hàng ngàn người Việt Nam bị rơi vào cảnh “nô lệ lao động” tại thị trường này. Họ bị nhốt dưới khu vực ngầm cách biệt với thế giới bên ngoài và lao động vất vả tại những xí nghiệp may phi pháp, bị bóc lột thậm tệ, bị thu hoàn toàn giấy tờ tùy thân.
Có tình trạng nhiều đối tượng, công ty lừa đảo người lao động Việt Nam chiếm đoạt tài sản hoặc đưa người lao động sang châu Âu bất hợp pháp. Ngoài ra còn có dấu hiệu hình thành các đường dây đưa phụ nữ Việt Nam sang châu Âu, bán vào các ổ mãi dâm.
Xuất khẩu lao động “chui” hay nạn buôn người phát triển mạnh
Song song với tỷ lệ lao động đi xuất khẩu lao động theo kênh chính thức tăng, tỷ lệ lao động đi “chui” qua các hình thức “tự đi” hoặc “không chính thức” cũng tăng theo đáng kể. Khu vực châu Âu, hàng năm có khoảng 18.000 lao động bất hợp pháp từ Việt Nam sang qua các đường dây đưa người trái phép.
Theo cơ quan công an, các đối tượng thường sử dụng 3 hình thức để hoạt động tổ chức trốn và đưa người đi nước ngoài trái phép. Thứ nhất là tổ chức trốn bí mật bất hợp pháp; các đối tượng dẫn người qua đường tiểu ngạch (không giấy tờ – đường bộ) hoặc mua sắm thuyền vượt biển (đường biển), kể cả từ Việt Nam và qua nước thứ 2 để vượt biên sang nước thứ 3.
Thứ hai là tổ chức trốn dưới hình thức công khai bất hợp pháp; chúng có thể sử dụng hộ chiếu giả, giả mạo hồ sơ để được cấp hộ chiếu mang tên người khác hoặc dùng hộ chiếu, thẻ thường trú của người đã được định cư ở nước sở tại để quay vòng. Thậm chí có đối tượng còn tổ chức người theo kiểu tham quan du lịch đến nước thứ 2 rồi từ đó tìm cách trốn sang nước thứ 3 bằng đường bộ qua tiểu ngạch, vượt biển hay trốn trong xe container hàng hóa.
Một hình thức khác mà nhiều đối tượng sử dụng công khai, đó là dưới dạng tham quan, du lịch, thăm thân nhân; giả mạo hợp đồng lao động để được cấp visa lao động nhưng sau khi xuất cảnh tự tìm kiếm việc làm; hợp thức hóa thành người của công ty, doanh nghiệp để được ra nước ngoài hội chợ, hội thảo, khảo sát thị trường, ký hợp đồng hoặc có thể theo kiểu hợp thức hóa đi du học tự túc rồi trốn ra ngoài tìm kiếm việc làm, …
Thực trạng lao động chui
Gareth Ward, Đại sứ toàn quyền Anh và Bắc Á Nhĩ Lan tại Việt Nam đã viết về tình trạng mua bán người và di cư trái phép tại Anh. Người Việt Nam không chỉ bị mua bán đến các nước có chung đường biên giới đất liền với Việt Nam mà còn tới các nước trong khu vực châu Á như Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia và thậm chí còn tới châu Âu, trong đó có Vương quốc Anh.
Những năm gần đây, Việt Nam luôn là nước có số người nghi là nạn nhân của mua bán người và nô lê hiện đại cao nhất tại Anh, chỉ xếp sau Albania… Ở nước Anh, khái niệm “Nô lệ thời hiện đại” được dùng với hàm ý bao gồm mua bán người vì nạn nhân bị mua bán thường bị ép làm việc trong những điều kiện vô cùng tồi tệ, cả về thể xác lẫn tinh thần. Nạn nhân người Việt Nam tại Anh là những người tự nguyện ra đi, với giấc mơ về một miền đất hứa, kì vọng về cơ hội cải thiện kinh tế cho bản thân và gia đình. Rất nhiều trong số họ là những người đến từ những huyện còn khó khăn của Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
Chi phí cho hành trình do những băng nhóm tội phạm đưa người bất hợp pháp từ Việt Nam sang Anh dao động từ 30.000 USD đến 50.000 USD. Việc nhập cư bất hợp pháp vào Anh có thể bằng giấy tờ giả trên một chuyến bay thẳng, hoặc thông dụng hơn là một đoạn đường gian khổ nhiều rủi ro và kéo dài qua nhiều nước châu Âu. Hầu hết trong số họ, bất chấp nguy hiểm tìm đường sang Anh với một hy vọng là chỉ sau một năm làm việc ở đây, họ có thể chuộc được các sổ đỏ đã cầm cố hoặc trả hết nợ nần vay mượn cho chuyến đi và sau đấy là một cơ hội “đổi đời” sẽ đến với gia đình…
Trong những năm gần đây các môi giới buôn người sử dụng nhiều mánh khóe lừa đảo người dân đi xuất khẩu lao động. Không ít hộ gia đình đã cầm cố nhà cửa vay mượn để nộp tiền cho thân nhân đi xuất khẩu lao động, song sau khi nhận được tiền, những môi giới trốn biệt tăm. Trên thực tế, những lao động “chui” khi trốn ra ngoài không dễ, đôi khi phải trả giá bằng cả tính mạng của mình. Vào ngày 23.10.2019 một thông tin chấn động thế giới khi chiếc xe container chở hàng chứa 39 thi thể người nhập cư bị phát hiện ở Essex, miền Đông Anh, cách thủ đô London 30km. Nhiều thông tấn xã quốc tế loan tin trong số nạn nhân có người Việt Nam.
Phụ nữ và trẻ em là đối tượng của các tổ chức buôn người
Báo cáo tình hình buôn người năm 2019 (Trafficking in Persons Report, June 2019) của Toà Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam đặc biệt quan tâm đến tình trạng phụ nữ và trẻ em Việt Nam là nạn nhân của tình trạng buôn bán nô lệ tình dục ra nước ngoài; nhiều người bị lừa gạt về các cơ hội lao động và sau đó bị bán cho các nhà thổ ở vùng biên giới Trung Quốc, Lào, Campuchia, và các nước châu Á khác, trong đó có Malaysia, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Thái Lan.
Một số phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài để kết hôn theo môi giới quốc tế hoặc để làm việc trong các nhà hàng, cơ sở mát-xa, quán bar karaoke – bao gồm đến các nước như Trung Quốc, Cộng hòa Síp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Ả rập Xê út, Singapore, và Đài Loan – trở thành nô lệ giúp việc gia đình hoặc nô lệ tình dục. Bọn buôn người ngày càng gia tăng sử dụng internet, các trang web chơi game và đặc biệt là mạng xã hội để nhử các nạn nhân tiềm tàng vào những tình huống dễ bị tổn thương; đàn ông thường dụ dỗ phụ nữ trẻ và trẻ em gái vào các mối quan hệ hẹn hò trên mạng và thuyết phục họ ra nước ngoài, sau đó biến họ thành nạn nhân của cưỡng bức lao động hoặc nô lệ tình dục.
Thay lời kết
Trong lịch sử đất nước, người dân Việt Nam dù bị đói khát, chiến tranh cũng không phải bỏ quê cha đất tổ để tha hương cầu thực ở nước ngoài. Chỉ khi có chế độ Cộng sản dựng lên ở miền Bắc, mới có trăm ngàn người tìm đường vào Nam lánh nạn độc tài. Và chỉ khi Cộng sản chiếm đóng Miền Nam, hàng triệu người mới bất chấp sóng bão ngoài biển khơi vượt biên tìm tư do. Nay hơn bốn thập niên sau cuộc nội chiến mà làn sóng người Việt ra nước ngoài vẫn tiếp diễn dưới mọi dạng. Họ ra đi vì không còn niềm tin vào chế độ, họ muốn tìm tương lai cho một cuộc sống trong tự do.
Ngày nào chế độ Cộng sản này còn tồn tại, thì sẽ còn những thảm cảnh chết trong container đông lạnh, lao động chết vì bị cưỡng bức và phụ nữ bị bóc lột tình dục. Đã đến lúc những ai còn quan tâm đến quốc thể và vận mệnh dân tộc hãy mạnh dạn đứng lên và cùng nhau liên kết trong cuộc đấu tranh dân chủ sớm kết thúc cái chế độ độc đảng đang tàn phá đất nước.
*”Trong lịch sử đất nước, người dân Việt Nam dù bị đói khát, chiến tranh cũng không phải bỏ quê cha đất tổ để tha hương cầu thực ở nước ngoài. Chỉ khi có chế độ Cộng sản dựng lên ở miền Bắc, mới có trăm ngàn người tìm đường vào Nam lánh nạn độc tài. Và chỉ khi Cộng sản chiếm đóng Miền Nam, hàng triệu người mới bất chấp sóng bão ngoài biển khơi vượt biên tìm tư do. Nay hơn bốn thập niên sau cuộc nội chiến mà làn sóng người Việt ra nước ngoài vẫn tiếp diễn dưới mọi dạng”.
-Vài dòng viết ngắn gọn của bác Vũ Ngọc Yên đã nói lên cô đọng tội lỗi của CS đối với dân Việt lớn quá, tội lỗi này phải thêm có bàn tay “trời diệt” mới xứng?
– “Họ ra đi vì không còn niềm tin vào chế độ, họ muốn tìm tương lai cho một cuộc sống trong tự do”.
Không còn niềm tin VÀO chế độ, tức là họ đã có niềm tin VỀ chế độ – độc tài chuyên chính ở VN:
Đấy là chế độ của bọn thống trị man rợ, tham nhũng, thối tha bốc mùi xác chết, coi người dân là “đối tượng lãnh đạo” của chúng (để chúng bóc lột đến xương tuỷ!).
Một người lao động VN phải còng lưng nuôi 2 thằng cán bộ quản giáo họ!
Khái niệm mà K. Marx đưa ra, chế độ xã hội có giai cấp đầu tiên, của loài ngưởi, là “chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ” – nó đang hiện hành ở VN. Đảng CSVN, sau khi đã “xóa bỏ giai cấp” – để cho chúng đương nhiên trở thành những kẻ chiếm hữu nô lệ!
Cho phép tớ bổ xung vài điều . Những “cty môi giới lao động” này đều có Đảng của các bác chống lưng . Và với tình trạng bị bóc lột, phần lớn những công nhân sẽ để dành tiền để trốn hẳn, hoặc tại địa phương hay qua 1 nước thứ 3. Và nếu công nhân bỏ trốn, rõ ràng Đảng của các bác phủi tay . Số người Việt chết ở rừng biên giới Ba Lan, & khắp thế giới, người ta ước tính 2/3 là đi chính thức, aka qua các “hợp tác xã buôn người” do Đảng quản ní .
Chu Mộng Long kêu gọi Đảng của bác í tính sổ những tổ chức buôn người . Nhân dịp này, Đảng của Chu Mộng Long sẽ tính sổ các “cty môi giới lao động” chợ đen, để mọi người nếu muốn bán sức lao động ở nước ngoài, chỉ còn cách chui đầu vào những “hợp tác xã buôn người” chính thức do Đảng của Chu Mộng Long quản ní, tức là quản có ní . Ít nhất Đảng, qua thông báo của Nguyễn Hồng Lam, sẽ làm điều Chu Mộng Long muốn, tạo ra cảm giác hắn nà trí thức và Đảng của hắn sẽ nghe nhời những trí thức như hắn .
Và như tớ đã nói & thống kê cũng chỉ ra, “xuất khẩu lao động” sẽ tăng nữa & tăng mãi . Đơn giản vì đó là 1 trong những nguồn tiền chính để nuôi Đảng của Nguyễn Ngọc Chu . Nếu không có những nguồn tiền như vậy, Đảng chỉ còn cách đi theo Bác Hồ lệ thuộc Trung Quốc & uýnh tư bẩn để sống .
Kết luận rất chính xác,chỉ đích danh thủ phạm thì mới làm cho bọn cầm
quyền độc tài toàn trị phải sớm nhận ra tội ác đối với nước & dân ta.