Tác giả: Victor Sebestyen
Dịch giả: Phan Trinh
4-6-2019
Lời giới thiệu của người dịch: Việc một số linh mục dưới quyền bị thuyên chuyển và linh mục Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Nguyễn Ngọc Bích trả lời phỏng vấn trên BBC trấn an dư luận (ông xem mọi việc như những diễn biến “bình thường”, và nhắc đến “Chúa” 5 lần), cùng với vụ nhà hoạt động Công giáo Nguyễn Năng Tĩnh bị bắt sáng ngày 29/5/2019, gợi nhớ đến câu chuyện đã xảy ra cho Giáo hội Công giáo Ba Lan vào đầu thập niên 1980, được Victor Sebestyen kể lại trong cuốn “Revolution 1989 – The Fall of the Soviet Empire” (Cách mạng 1989, Đế quốc Xô-viết sụp đổ ở Đông Âu).
Câu chuyện liên quan đến một linh mục được việc và được lòng dân, nhưng sắp bị thuyên chuyển, và một vị Hồng y quyền cao chức trọng, nhưng bị giáo dân chế giễu. Mời quý độc giả cùng đọc bài dưới đây. Câu chuyện bắt đầu với một án mạng.
1. POPIELUSZKO: LINH MỤC XUẤT SẮC
Khoảng 4 giờ chiều ngày 31/10/1984, ở gần Wloclawek, một thị trấn nhỏ cách Warsaw 120 km về phía đông, xác một người đàn ông bị đánh bầm dập, được vớt khỏi hồ nước. Mặc dù đã trương phồng, biến dạng, rất khó nhận diện, các thợ lặn của công an vừa vớt xác khỏi hồ nước lạnh cóng đều biết đó là ai.
Đó là thi thể của Jerzy Popieluszko, một linh mục Công giáo 37 tuổi. Suốt 10 ngày trước, tin đồn về vị chủ chăn mất tích đã lan ra cả nước. Ông là người nổi tiếng nhất Ba Lan, nổi hơn cả Lech Walesa [lãnh tụ Công đoàn Đoàn kết], vì ông là một linh mục, mặc áo chùng thâm với vòng cổ trắng. Dư luận đồn rằng ông đã chết khá lâu trước khi tìm thấy xác, rằng ông bị giết chết và kẻ giết ông không ai khác hơn là chế độ cộng sản.
***
Walesa gọi linh mục Popieluszko là “Tuyên úy không chính thức của Công đoàn Đoàn kết”, còn chính quyền thì gọi ông là “kẻ gây rối”.
Những bài giảng nảy lửa của ông tại Nhà thờ Thánh Stanislaw Kostka ở Warsaw thường xuyên thu hút giáo dân đông đến 40.000 người, và đông hơn nữa vào những ngày lễ lớn. Họ đứng tại quảng trường ngoài nhà thờ, đứng tràn qua cả các ngả đường bên cạnh để nghe ông giảng.
Mỗi Chủ Nhật, ông đều nói về “mồ hôi, nước mắt, thương tích và máu của người lao động”. Các bài giảng của ông rất hay, cách truyền đạt khéo léo và có nội dung chính trị công khai. Có nhiều linh mục “có vấn đề” ở Ba Lan, nhưng trong mắt chế độ, cha Popieluszko chính là người “có vấn đề” nhất, giảng thuyết xuất sắc nhất và có khả năng khuấy động quần chúng nhất. Ngoài tài ăn nói và đức tin mạnh mẽ, ông cũng được biết đến như người trông coi những khoản tiền lớn cho các nhóm Công đoàn Đoàn kết hoạt động ngầm tại Warsaw.
Tối ngày 15/10/1984, khi đang trên đường trở về thủ đô sau chuyến thăm Gdansk, ba mật vụ SB đã cưỡng đoạt xe hơi của ông và bắt cóc ông. Họ mang ông từ đường lộ đến một cánh rừng hẻo lánh. Kế hoạch ban đầu của họ là chỉ đánh dằn mặt vị linh mục, cho ông sợ, chứ không giết. Nhưng họ làm hỏng việc. Họ dùng cọc gỗ đập vào đầu làm ông chết. Các tay mật vụ SB hoảng sợ, bèn ném ông xuống Sông Vistula.
Quần chúng phản ứng dữ dội, khiến chính quyền phải có động tác đáp trả nhanh chóng. Các chế độ cộng sản thường không có thói quen đưa ra ánh sáng công lý những tay mật vụ quá sốt sắng khi thi hành công vụ. Vì vậy, vụ này đã gây chấn động lớn khi ba người giết linh mục Popieluszko, và cả cấp trên ra lệnh bắt cóc ông nữa, đã lập tức bị bắt và bị kết án nhiều năm tù giam.[i]
Không có chứng cớ cho thấy những người ở cấp cao hơn dính vào vụ này; vụ này dường như là công việc của những thành phần xấu trong hàng ngũ mật vụ SB. Nhưng quần chúng không tin. Họ tin và kháo nhau rằng đã có âm mưu bao che để bảo vệ thượng cấp.[ii]
2. GLEMP: HỒNG Y THÂN CHÍNH QUYỀN
Vụ giết hại linh mục Popieluszko làm lộ ra những căng thẳng và rạn nứt trong hàng ngũ đối lập, và cả trong Giáo hội Công giáo Ba Lan.
Đám tang của vị linh mục vào ngày thứ bảy 3/11/1984 tại Nhà thờ Thánh Stanislaw Kostka là một khung cảnh phi thường. Khoảng 200.000 giáo dân đã đến để tỏ lòng thương tiếc ông. Vị Giáo trưởng của Giáo hội Công giáo Ba Lan, Hồng y Jozef Glemp, trong bài giảng đã tôn vinh sự hy sinh của linh mục Popieluszko, nhưng một cách kín đáo, Hồng y Glemp lại bất mãn vì vị linh mục kia tuy đã chết nhưng tầm vóc vẫn lấn lướt ông, làm ông thấy mình nhỏ bé.
Hồng y Glemp, 55 tuổi, là một người thực dụng từ bản chất và cũng là người hay nhượng bộ. Ông không xem Popieluszko như một vị tử đạo, mà như một mối lo. Vào lúc Popieluszko chết, Hồng y Glemp đang tìm cách thuyên chuyển ông khỏi Warsaw, nơi ông đang nổi bật, để đưa về một giáo xứ hẻo lánh vùng xa nào đó.
Hồng y Glemp nghĩ rằng, khi các linh mục công khai bày tỏ lập trường chính trị là họ đang đe dọa sự thống nhất của Giáo hội và làm suy yếu vị thế của Giáo hội khi thương lượng với chính quyền cộng sản. Ông thường đứng về phía chính quyền. Ông liên tục khẳng định rằng, Ba Lan thà chịu thiết quân luật còn hơn bị Liên Xô xua quân xâm lăng.
Trước đó, Hồng y Glemp và Tướng Jaruzelski cũng đồng tình về một việc quan trọng: cả hai đều muốn Đức Giáo hoàng đến thăm Ba Lan lần nữa. Với Tướng Jaruzelski, chuyến viếng thăm sẽ hợp thức hóa chế độ quân phiệt của ông, và cho thấy Ba Lan cũng “bình thường” như các nước khác. Còn với Hồng y Glemp, chuyến viếng thăm sẽ củng cố vị trí của Giáo hội và vị trí Giáo trưởng của ông.
Nhưng Đức Giáo hoàng chỉ đồng ý thăm viếng nếu tình hình Ba Lan ổn định. Với Hồng y Glemp và với chế độ, điều này có nghĩa Giáo hội phải tìm cách tránh xa các hoạt động ngầm của Công đoàn Đoàn kết.
Hiểu theo cách như thế, nên Hồng y Glemp đã cho kỷ luật các linh mục “bướng bỉnh”, theo cách ông gọi, và ra lệnh cho họ không được nói chuyện chính trị khi giảng đạo. Ông triệu tập 300 linh mục “bướng bỉnh” về Warsaw và cảnh cáo họ với lời lẽ cứng rắn. Ông nói: “Tôi chẳng thấy Công đoàn Đoàn kết có cửa nào để thắng. Sau khi chính quyền áp đặt thiết quân luật thành công thì ta có thể đoán họ sẽ tấn công Giáo hội. Vì vậy, các linh mục có bổn phận chuẩn bị cho tình hình … bằng cách chỉ tập trung vào việc đạo. Các cha phải tránh xa chính trị”.
Ông còn nói Giáo hội Ba Lan đang đứng trước nguy cơ lìa bỏ sứ mệnh tinh thần để gánh lấy sứ mệnh chính trị, và nếu điều đó tiếp diễn, Giáo hội sẽ thua. Ông giận dữ chỉ trích các “nhà tu mà cứ tưởng mình là nhà báo!”[iii]
***
Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II trở lại Ba Lan vào tháng 6/1983 để phục hồi hy vọng cho một đất nước đã suy kiệt, như lời ngài mô tả.
Một phần thỏa thuận giữa Vatican và Jaruzelski là thiết quân luật phải được bãi bỏ nếu muốn cuộc viếng thăm diễn ra, và chế độ đã thực hiện thỏa thuận này một tháng sau đó. Chuyến viếng thăm lần này không có được nồng độ vui mừng và cảm xúc vỡ oà như chuyến viếng thăm bốn năm trước. Đám đông vẫn cực kỳ đông đảo nhưng kiềm chế hơn. Không có những cảm xúc bộc lộ dữ dội.
Một lần nữa, Đức Giáo hoàng đã phải thận trọng tránh dùng những lời lẽ có màu sắc chính trị công khai. Nhưng, trong thánh lễ với 1.000.000 người tham dự tại vùng Krakow thân thuộc, khi ngài nói về “những bất công tệ hại của lịch sử” và khi tuyên bố người Ba Lan đã được “mời gọi để đi đến chiến thắng” thì giáo dân rất hiểu ngài đang nói gì.
3. “BỐC PHÉT CAO ĐẠO”
Sau khi Đức Giáo hoàng trở về Rome, Hồng y Glemp tiếp tục thỏa hiệp với chính quyền, và vì vậy càng lúc càng mất lòng giáo dân.
Trước kia, khi Glemp được bầu làm Giáo trưởng, trùm An ninh Ba Lan Czeslaw Kiszczak đã gửi một báo cáo mật cho cơ quan KGB ở Moscow, nói rằng việc chọn Glemp vào chức vụ này đã giúp chế độ Warsaw thở phào nhẹ nhõm: “Ông tân Giáo trưởng … không phải là người chống Liên Xô như người tiền nhiệm. Người tiền nhiệm Wyszynski [Hồng y Stefan Wyszynski, 1901-1981] đã có ảnh hưởng rất lớn, lời của ông là luật. Wyszynski cũng là đối tượng của một chiến dịch sùng bái cá nhân … Còn Glemp lại là một người khác và chúng ta chắc chắn có thể tác động lên ông”.
Kiszczak đã nói đúng. Việc Hồng y Glemp cắt đứt quan hệ với Công đoàn Đoàn kết được mọi người biết đến vào năm 1984, sau khi ông nói với một nhà báo Brazil rằng Walesa đã không còn kiểm soát được phong trào, vì Công đoàn Đoàn kết đã “trở thành một cái túi hổ lốn, cái gì cũng có thể quăng vào, từ phe đối lập đủ kiểu, đến những tay Mác-xít, những tay Trốt-kít, những kẻ cơ hội và cả đảng viên cộng sản”.
Tuy nhiên, Glemp chẳng nhận được bao nhiêu từ chính quyền. Chế độ chỉ đáp lại thiện chí của ông một cách cầm chừng, như cho phép xây dựng 900 nhà thờ mới, và Glemp được phép xuất hiện trên truyền hình vào các dịp lễ Giáng sinh và Phục sinh.
Từ đó, một từ mới đã đi vào ngôn ngữ Ba Lan, được dịch là “Glempic” [nói như Glemp], có nghĩa tựa như “bốc phét cao đạo.”[iv]
***
Không lâu sau cái chết của linh mục Popieluszko, sử gia kiêm nhà báo Adam Michnik đưa ra nhận xét này:
“Đừng huyền thoại hóa vai trò của Giáo hội, sự ủng hộ của Giáo hội dành cho những người đối kháng … không phải là tuyệt đối. Giáo hội tuy chống cộng nhưng lại không tin rằng chủ nghĩa cộng sản sắp đến ngày sụp đổ. Ngược lại, họ cho rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ tiếp tục tồn tại và điều này đòi hỏi Giáo hội phải sáng suốt thích ứng. Tôi không chê trách các vị giám mục … Họ đã hành xử khá hợp lý. Điều tôi phản đối … là lịch sử Giáo hội đã chỉ được mô tả như một chuỗi không đứt quãng những đợt đấu tranh vì dân chủ. [trong khi chuỗi đấu tranh đó vẫn có những khoảng dừng và mảng tối]”.[v]
_______
Nguồn: Trích Chương 10, cuốn Revolution 1989 – The Fall of the Soviet Empire (Cách mạng 1989, Đế quốc Xô-viết sụp đổ ở Đông Âu), của Victor Sebestyen, do Nhà Xuất bản Pantheon Books, New York, phát hành năm 2009. Tựa đề, tiểu đề và các ghi chú trong ngoặc vuông là của người dịch.
Ghi chú của người dịch:
Linh mục Jerzy Popieluszko được phong Chân phước năm 2010.
Một trong những kẻ giết hại linh mục Popieluszko là đại uý Grzegorz Piotrowski. Năm 1983, đại ý này còn dính líu âm mưu vu khống Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II có con rơi. Lúc đó Piotrowski làm sĩ quan Trưởng Phòng D, Cơ quan Mật vụ SB của Ba Lan. Phòng D đã đầu độc cô Irena Kinaszewska, thư ký của tuần san Công giáo Tygodnik Powszechny, nơi làm việc của Karol Wojtyla trước khi lên ngôi Giáo hoàng, ép cô vu khống đã có quan hệ tình dục với Wojtyla, nhưng họ thất bại. Sau đó Phòng D tìm cách gài bẫy linh mục Andrzej Bardecki, là biên tập của tờ Tygodnik Powszechny và là một trong những người bạn thân nhất của Karol Wojtyła, bằng cách cài cắm nhật ký giả mạo tại nơi ông ở, nhưng Piotrowski đã bị lật mặt, trước khi hoàn thành âm mưu.*
*Theo Wikipedia, từ tài liệu bằng tiếng Ba Lan: “Nieślubne dziecko Jana Pawła II. Kulisy esbeckiej prowokacji”. Dziennik. 4/10/2013. truy xuất 23/10/2014.)
[i] Ba nhân viên cấp thấp trực tiếp dính líu đến vụ giết người, trung úy Leszek Pekala, đại úy Grzegorz Piotrowski, và trung úy Waldemar Chmielewski, ban đầu bị tuyên án 20 năm tù giam, nhưng ba năm sau, án giảm xuống còn từ sáu đến mười năm. Đại tá Adam Pietruszka, cấp trên ra lệnh cho họ phạm pháp, ban đầu nhận mức án tù 25 năm, đến 1987 án giảm xuống còn 10 năm. Đến thập niên 1990, có hai nỗ lực được thực hiện để truy tố những quan chức cấp cao hơn nữa, nhưng cả hai vụ xét xử đều không thành khi bên công tố không đưa ra được đầy đủ bằng chứng.
[ii] Thông tin về linh mục Jerzy Popieluszko trong sách của Grazyna Sikorska, A Matyr for the Truth (Collins, London, 1985); Norman Davies, God’s Playground: A History of Poland (Oxford University Press, 2005); và Kevin Ruane, To Kill a Priest (Gibson Square, London, 2004)
[iii] Robert Boyes, The Naked President (Secker and Warburg, London, 1994), tr. 240-46
[iv] Vasili Mitrokhin và Christopher Andrew, The Mitrokhin Archive: The KGB in Europe and the West (Allen Lane, London, 1998), tr. 488-90
[v] Adam Michnik, Letter from Freedom (California University Press, 1999), tr. 230-32