1-9-2018
Giáo dục Việt Nam đang tụt dốc nghiêm trọng. Góp phần chấn hưng giáo dục là nhiệm vụ của mọi người dân. Ở bình diện này, nghiên cứu cải cách phát âm tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại và các cộng sự rất đáng hoan nghêng, không có gì phải bàn cãi.
Nhưng tại sao người dân trong xã hội lại đang bất an? Chỉ là một đề tài nghiên cứu và thực nghiệm khoa học giáo dục như hàng vạn đề tài khác mà lại làm cho xã hội lo lắng?
Đó là vì người dân lo sợ Bộ GD&ĐT sẽ áp dụng phương pháp dạy phát âm tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại trên bình diện rộng toàn quốc. Mấu chốt vấn đề nằm ở điểm này. Nhưng trước khi đề cập đến điểm mấu chốt, hãy ngó sang vài điểm khác.
Bài viết này không đi vào phân tích về phương pháp cải cách tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại. Mà xác định nguyên do làm vấn đề phát sinh. Từ đó mà đề xuất giải pháp.
TẠI SAO PHẢI LÊN TIẾNG?
Trước đây dư luận đã râm ran về đề tài cải cách tiếng Việt của ông Bùi Hiển. Nhưng công trình cải cách tiếng Việt của ông Bùi Hiển vô nghĩa, và sẽ không bao giờ được sử dụng trong thực tiễn. Tất yếu sẽ không dẫn đến hậu quả tai hại. Nên chưa bao giờ bàn đến đề tài ông Bùi Hiển.
Nhưng nay thì khác. Cải cách phát âm tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại là một công trình nghiên cứu nhận dược sự ủng hộ công khai của lãnh đạo cấp cao và của Bộ GD&ĐT xuyên suốt nhiều nhiệm kỳ. Bởi thế nên chương trình của GS Hồ Ngọc Đại đã được trải nghiệm thực tế nhiều năm, ở một số trường. Không chỉ dừng ở cách phát âm tiếng Việt, nhóm của GS Hồ Ngọc Đại còn đưa ra các phương pháp giảng dạy mới. Đó là những cố gắng nhằm thay đổi các phương pháp giáo dục truyền thống, cho một mục tiêu đổi mới và hoàn thiện phương pháp giáo dục.
Điều ngạc nhiên nằm ở chỗ, chưa bao giờ phương pháp giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại lại được dư luận quan tâm nóng đến mức lo lắng như bây giờ. Đó là lúc Bộ GD& ĐT để ngỏ khả năng nhân rộng mô hình của GS Hồ Ngọc Đại lên mức số đông đại chúng trong cả nước, song hành cùng với chương trình cải cách tổng thể.
Từ chỉ một số trường, đến nay buộc thầy cô giáo phải học theo cách phát âm mới của GS Hồ Ngọc Đại để đi dạy cho học sinh nhiều trường trên toàn quốc – nguy cơ áp đặt đại chúng đã là một trong những nguyên nhân làm cho người dân bất an.
Bởi thế, nếu không nhìn đúng bản chất vấn đề, chỉ lao vào tranh cãi những vấn đề kỹ thuật, thì sự việc sẽ còn tiêu tốn nhiều thời gian và tiền bạc của nhân dân hơn nữa. Cho nên mạo muội lưu ý đôi điều.
3 ĐIỀU LO LẮNG CỦA DÂN
Đáng ra những cải tiến phát âm tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại phải mang đến niềm vui. Nhưng tại sao ngược lại, làm xã hội lo lắng? Trước hết xin nêu ra 3 điều lo lắng dưới đây của người dân.
1. Giáo dục Việt Nam đang xuống cấp nghiêm trọng. Sự xuống cấp của giáo dục kéo theo sự tụt dốc về dân trí, và hệ quả là sự tụt hậu của quốc gia. Từ những năm 1980 cho đến nay Bộ GD&ĐT đã đề ra nhiều biện pháp cải cách giáo dục. Nhưng tất cả các biện pháp đó đều cho kết quả xấu. Bởi thế, mọi sự đề xuất mới về cải cách giáo dục đều tự động khiến mọi người dân giật mình. Đó là nguyên nhân dẫn đến điều lo lắng đầu tiên khi nghe đến chương trình cải cách phát âm tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại.
2. Cải cách phát âm tiếng Việt không đơn thuần chỉ là cách phát âm, mà kéo theo là phải đào tạo giáo viên, là phải mua các bộ sách giáo khoa và các đồ dùng giảng dạy mới, không chỉ một năm mà nhiều năm. Hệ quả là các bậc phụ huynh phải trả một khoản tiền không nhỏ. Đó là điều lo lắng thứ hai.
3. Chưa nhìn thấy cái lợi của việc thay đổi cách phát âm. Chỉ thấy lạ và chưa thuận tiện. Cho nên không muốn con cái mình trở thành vật thí nghiệm mới. Một sự sợ hãi bị thí nghiệm đã thành thói quen phát sinh từ các thí nghiệm thất bại của Bộ GD&ĐT bắt đầu từ những năm 1980. Đó là nỗi lo lắng thứ ba.
ĐỘC QUYỀN ÁP ĐẶT THỊ TRƯỜNG
Chiếu theo quy luật thị trường, đề tài cải cách tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại nếu có giá trị thì sẽ được pháp luật bảo vệ về mặt phát minh sáng chế. Ai muốn sử dụng thì phải trả tiền. GS Hồ Ngọc Đại nhờ thế mà có thể kiếm được tiền từ bán bản quyền dạy phát âm tiếng Việt của ông.
GS Hồ Ngọc Đại cũng có thể tự thành lập trường riêng, chiêu sinh, thu học phí, đào tạo theo cách của ông. Ông tự đào tạo giáo viên theo phương pháp của ông và trả tiền cho các giáo viên dạy ở trường của ông. Phụ huynh muốn con em mình học ở trường của GS Hồ Ngọc Đại thì tự đến ghi tên đóng học phí theo quy định của nhà trường. Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT, không ép buộc bất cứ trường, lớp nào phải học theo phương pháp của GS Hồ Ngọc Đại.
Nếu được như thế thì đã không sinh chuyện. Mấu chốt vấn đề nằm ở chỗ, ở nước ta, không ai cho phép bạn được đào tạo theo phương pháp của mình. Sự độc quyền toàn tập không loại trừ ngành Giáo dục. Mọi thứ phải được phép của Bộ GD&ĐT. Phương pháp cải cách tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại còn lâu mới được chào đời, nếu ông không được sự hỗ trợ từ lãnh đạo cao nhất. Nhờ thế ông mới đục vỡ được một mảng của bức tường độc quyền giáo dục.
Ở mặt quan trọng khác, công trình nghiên cứu và triển khai thực nghiệm của GS Hồ Ngọc Đại dựa hoàn toàn vào kinh phí nhà nước.
Do độc quyền, Bộ GD& ĐT đã không tuân theo quy luật thị trường, không theo nhu cầu của người tiêu dùng, mà áp đặt chính sách đào tạo của mình trên toàn quốc.
Trong số đó, không được phản biện một cách khoa học, không được thực nghiệm một cách dài lâu, Bộ GD &ĐT đã thực thi chính sách áp đặt, bắt hàng loạt trường phải học theo chương trình VNEN, ngoài ra khoanh vùng một số trường học theo chương trình của GS Hồ Ngọc Đại. Bắt nguồn từ phía sau là lợi ích của các nhóm buôn bán sách giáo khoa. Dẫn đến sự phẫn nộ của người dân trong cả nước.
Tóm lại, sự độc quyền đẻ ra chính sách áp đặt thị trường, là nguyên nhân sâu xa mang đến các phiền toái cho người dân.
PHẢN BIỆN CHỈ TỐT HƠN
Chúng ta ủng hộ cho sự cạnh tranh lành mạnh để Giáo dục Việt Nam thoát khỏi sự độc quyền. Có nhiều bộ sách giáo khoa với hàm lượng khoa học cao là điều rất mừng. Để giải một bài toán, có thể có nhiều cách. Vì vậy tồn tại nhiều phương phức giáo dục là điều rất bình thường, miễn là đúng, không độc hại. Nhưng chỉ có những phương thức thực sự khoa học mới có tuổi thọ cao.
Những phản biện của xã hội trong tuần qua sẽ làm cho nhóm nghiên cứu của GS Hồ Ngọc Đại không phải nổi giận hay buồn chán, bào chữa hay ngụy biện, mà nghiêm túc nghiên cứu để thêm hoàn thiện. Chính phản biện mới tạo nên con đường đến chân lý.
Ngược trở lại, chúng ta hãy bình tâm. Đề tài của GS Hồ Ngọc Đại là một công trình nghiên cứu khoa học đã có quá trình, tuy có điểm mạnh điểm yếu, nhưng đã được thực tế kiểm nghiệm một phần. Phản biện, chỉ ra cái khiếm khuyết là giúp cho công trình thêm hoàn thiện. Điều mà tất cả chúng ta đang lo lắng là nếu một công trình nghiên cứu khoa học chưa hoàn thiện, còn khiếm khuyết mà lại bắt buộc áp dụng đại trà trong thực tế thì sẽ vô cùng nguy hại. Giải pháp cho vấn đề này sẽ được đề cập ở phần sau.
Những ý kiến phản biện lại phương pháp cải cách tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại là rất đáng trân trọng, cần nghiên cứu một cách thành tâm và khoa học. Lướt qua các ý kiến phản biện, thì thấy mấy nhóm vấn đề sau đây phải được làm sáng tỏ hơn nữa.
1. TÍNH KHOA HỌC. Mọi cải cách đều phải dựa trên gốc khoa học. Cách phát âm mới có khoa học, có chính xác, có làm cho tiếng Việt thêm chặt chẽ và trong sáng? Có làm cho tiếng Việt bị hiểu nước đôi, không nhất quán? Những điểm nào còn thiếu căn cứ khoa học phải tiếp tục hoàn chinh?
2. TÍNH VƯỢT TRỘI. Học sinh học theo phương pháp mới có giỏi tiếng Việt hơn không? Có biết viết, biết đọc nhanh hơn không? Có điều gì vượt trội hay chỉ vụn vặt?
Nếu cải cách phải chịu nhiều sự tốn kém, mà không đưa lại những hiệu quả vượt trội thì có đáng cải cách hay không?
3. TÍNH GIẢN TIỆN. Nếu phương pháp mới phải được đào tạo rối rắm mới dạy được, trong khi phương pháp cũ các bậc phụ huynh đều có thể dạy cho con cái, thì có phải phương pháp mới đã thua về tính giản tiện và tính sử dụng hay không? Để dạy cho người nước ngoài thì phương pháp mới có lợi thế hơn không?
Đừng quên một nguyên tắc cốt lõi của giáo dục là biến phức tạp thành đơn giản chứ không phải ngược lại.
Đặc biệt với trẻ thơ rất cần đơn giản. Muốn rèn luyện cho trẻ thơ tư duy logic thì phải đơn giản. Đơn giản là thủy tổ của logic.
Vậy liệu phương pháp cải cách tiếng Việt mới có biến điều đơn giản thành điều phức tạp không?
4. TÍNH KẾ THỪA. Phương pháp mới có gây xáo trộn trong tiếng Việt về cả ngôn ngữ lẫn in ấn xuất bản? Liệu có làm mâu thuẫn các khoa học khác khi sử dụng thuật ngữ gốc La Tinh? Nên nhở tiếng Việt có chữ cái La Tinh. Mọi sự đổi thay phải mang tính kế thừa và không chứa đựng mâu thuẫn.
5. TÍNH KINH TẾ. Phương pháp mới có kéo theo những chi phí đắt đỏ. Nguồn tài chính nào sẽ bù đắp cho công tác nghiên cứu? Nguồn tài chính nào sẽ bù đắp cho triển khai thực hành?
Dùng 5 tiêu chí trên mà chiếu rọi tất sẽ nhận ra được những cải cách của GS Hồ Ngọc Đại có thiếu sót và ưu điểm gì. 5 điều nêu trên mang tính thước đo gợi mở.
GIẢI PHÁP
Nghiên cứu cải tiến phương pháp giáo dục bao giờ cũng là điều đáng quý. Những nghiên cứu có giá trị cần phải được khuyến khích. Nhưng muốn biết có giá trị đích thực hay không thì cần quan sát từ hai góc độ: Giá trị khoa học và Giá trị thị trường. Hai nhân tố đó mới là các thước đo chính xác nhất về giá trị của một công trình nghiên cứu khoa học.
Công trình của GS Hồ Ngọc Đại nếu được sinh ra và phát triển trong một cơ chế thị trường thì đã không tạo nên những phản ứng dữ dội như bây giờ.
Cũng sòng phẳng, cải tiến tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại sẽ chẳng được đưa vào thực nghiệm ở một trường và ở nhiều trường liên tục trong mấy chục năm qua nếu GS Hồ Ngọc Đại không có được vị trí xã hội mà ông đã có. Chính vị trí đó cùng với thể chế áp đặt, cả hai nhân tố đó kết hợp, cộng với nỗ lực của ông, mới thúc đẩy đưa các nghiên cứu cải cách phát âm tiếng Việt của ông được thực thi trên một bình diện như hiện nay.
Về mặt Giá trị khoa học, những cải tiến của GS Hồ Ngọc Đại chưa thể hiện đạt mức sáng tạo chìa khóa. Công trình nghiên cứu và triển khai ứng dụng lại nhờ vào kinh phí nhà nước, không phải tự thu tự chi nên Giá trị thị trường đang ở mức chưa chứng minh.
Cũng cần lưu ý đến 4 từ “Công Nghệ Giáo Dục”, chưa phản ánh đúng nội dung cải tiến tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại, chịu hơi hướng của mốt quảng bá thị trường, ngôn từ âm vang mà rời xa thuộc tính sát thực của khoa học.
Phương pháp dạy phát âm tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại đã có chỗ đứng trong thực tế. Dẫu còn nhiều điều bàn luận, nhưng nó cần được tiếp tục phát triển. Chúng ta đón nhận, phản biện để nó ngày càng hoàn thiện.
Điều cần nhấn mạnh là phương pháp của GS Hồ Ngọc Đại phải từng bước tự lập, mà không mãi đeo đẳng ký sinh vào cơ thể khác. Từ đây, Bộ GD& ĐT không áp đặt cho bất cứ trường, lớp nào phải theo học phương pháp của GS Hồ Ngọc Đại.
Điều mà người dân lo lắng chính là sự áp đặt. Nếu giải phóng sự áp đặt tức khắc sẽ giải tỏa hết lo lắng của người dân, và phá tan các nước cờ đang bí trong đầu lãnh đạo.
Bởi thế, giải pháp cho tình trạng hiện nay nên đi theo hướng mở sau đây.
1. Bộ GD&ĐT không áp đặt hay định hướng cho bất cứ trường nào phải dạy theo phương pháp cải tiến phát âm tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại.
2. Mở ra khả năng cho phép phụ huynh được lựa chọn phương pháp dạy tiếng Việt.
3. Mở ra khả năng cho phép các trường dựa trên ý kiến của phụ huynh để quyết định tự chọn phương pháp dạy tiếng Việt mới, cho cả trường hay cho một số lớp.
4. Giáo viên được quyền tự chọn phương pháp dạy tiếng Việt.
5. Các trường có lớp học theo cách phát âm mới sẽ tự đào tạo giáo viên.
6. Quá trình trên phải được triển khai mở rộng dần theo một lộ trình mà thị trường đã được nghiên cứu cẩn trọng.
Cần sòng phẳng rằng, Nhân dân chào đón mọi sự cải cách giáo dục mang bản chất khoa học, vì lợi ích quốc gia. Nhưng cải cách giáo dục trong mấy chục năm qua bị các nhóm lợi ích bẻ lái dẫn đến những thất bại cay đắng. Cuộc cải cách chương trình giáo dục tổng thể hiện nay cũng không thoát được nanh vuốt của các nhóm lợi ích.
Điểm lại, tất cả các cuộc cải cách giáo dục đều dựa hoàn toàn vào kinh phí nhà nước chứ không phải tự thu chi. Nội dung cải cách không đúng. Chi tiêu hoang phí. Đem sự nghiệp giáo dục nhiều thế hệ ra để thử nghiệm không chút xót thương, lương tâm không mảy may áy náy. Đã thế còn tìm mọi cách để tận thu tiền của học sinh và phụ huynh. Cho nên, nghe nói đến cải cách giáo dục là người dân giật mình hốt hoảng và phẫn nộ.
Nhóm cải cách tiếng Việt của GS Hồ Ngọc Đại có thánh thiện đến đâu, nếu muốn triển khai thành công chương trình cải cách tiếng Việt trên diện rộng, thì cũng không thoát được vòng kiềm toả của các nhóm lợi ích. Đó là điều người dân cảm nhận được mà lo lắng, rằng vì áp đặt ồ ạt mà đốt cháy giai đoạn như chương trình VNEN trước đây.
Mọi chính sách đề ra dù tốt đến đâu cũng thất bại nếu người thực thi kém. Ngược lại, một người thực thi giỏi sẽ bù đắp được những khiếm khyết chưa thể bao quát hết của một chính sách cơ bản đúng. Bởi thế cần có cả hai nhân tố vừa nêu: Chính sách đúng và người thực thi giỏi.
Bộ GD&ĐT cần phải mở cửa cho tự do lựa chọn chương trình và phương thức đào tạo mà không áp đặt. Bộ chỉ giữ vai trò định hướng khung và thực thi kiểm soát. Chỉ có tự do cạnh tranh trong giáo dục mới góp phần đưa giáo dục thoát ra khỏi hoàn cảnh tụt hậu hiện nay. Tự do cạnh tranh không chỉ trong lựa chọn giáo trình và phương thức giảng dạy. Mà cần hơn nữa là sự tự do cạnh tranh vị trí người đảm nhiệm chức năng thực thi ở mọi cấp độ. Tiếc thay, vẫn còn là ước mơ dài lâu.