Câu chuyện nhà báo trẻ và nhà văn có tuổi

LTS: Nhà văn Văn Biển vừa cho ra đời cuốn sách “Que Diêm Thứ Tám”, do Nhà Xuất bản Người Việt phát hành. Que Diêm Thứ Tám cũng là tên một kịch bản sân khấu, sau được chuyển thể thành phim truyền hình nhiều tập, của tác giả Văn Biển.

Văn Biển có tên khai sinh là Phạm Văn Biển, sinh năm 1930 ở Mộ Đức, Quảng Ngãi, hiện đang sống tại Nha Trang. Ông là nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch. Ông là cháu ruột của cố Thủ tướng Phạm Văn Ðồng, gọi ông Đồng bằng chú Tám.

Tiếng Dân xin lần lượt giới thiệu cùng quý độc giả vài truyện ngắn, trích trong sách “Que Diêm Thứ Tám”, của tác giả Văn Biển gửi tới.

Bìa sách “Que Diêm Thứ Tám”, của NXB Người Việt Books

Văn Biển

20-6-2018

Hôm anh mới xuống em nhận ra anh ngay.

Nhà văn cười: Cái dáng cao lênh khênh của mình có trộn lẫn vào đâu cũng không nhầm với ai được.

Em muốn tới làm quen với anh nhưng ngại.

Mình nổi tiếng hả. Tưởng trên đó cậu chuyên gặp các người nổi tiếng cơ mà.

Thú thật cũng chẳng biết vì sao. Cũng may nay đã quen rồi. Dạo này anh viết về đề tài gì. Chuyện dưới này hay trên đó?

Tập hồi kí của hai cõi. Cõi dưới này phản ánh cõi trên kia. Còn cõi trên kia nhiều chỗ không dám viết. Lúc nào trên giấy cũng hiện lên ngọn đèn đỏ hoặc một hai bóng đen đứng lù lù bên cạnh như những tên lính gác hoặc những gã hung thần giữ cửa trước ngôi đền thiêng văn học. Vừa viết vừa run.

Anh sợ là phải, ngông nổi tiếng như bác Nguyễn có lần đã phải nói: giá như còn trẻ tôi xin đi học ngành y làm thầy thuốc vì cái nghề này sợ lắm. Nghe nói những năm tháng cuối đời anh có để lại những trang viết cuối cùng, dư luận trong giới, ngoài giới xôn xao lắm.

Thật ra cũng chẳng ăn nhằm gì, khi cả tuổi sung sức nhất dành hết cho những trang viết thật ra không phải của mình. Cậu cũng là dân cầm bút chắc cậu biết được nỗi đau này. Mình nhận vừa hèn vừa nhát.

“Gặp thời thế thế thời phải thế”… Bao nhiêu nhà văn khác cũng vậy đâu phải riêng anh.

Một số anh em đã sống thật, nói thật, viết thật. Họ bị trù dập điêu đứng, nhưng lòng thanh thản, không bị dày vò, hổ thẹn với lương tâm. Còn một số anh em chắc không nhiều lắm đâu khi xám hối thì đã muộn. Họ chỉ xám hối khi đã về già, đã hưởng bao nhiêu bổng lộc triều đình. Lúc đó may ra bạn đọc chỉ có lòng thương hại. May là người viết cuối đời cũng được bộc bạch ít nhiều. Lúc sắp chết mới bớt đi được cái hèn và nhát.

Em đã đọc được những trang viết cuối cùng đó của anh. Nhưng nhà văn có khe khắt với mình quá không?

Đầu độc cả một thế hệ bạn đọc đâu phải chuyện đùa. Bản thân nhà văn có tội với lịch sử. Nhất là khi cây bút được độc giả ái mộ, cái hại của nó càng lớn, độc hơn cả rượu, thuốc phiện, ma túy. Món hàng càng sang trọng thì tác hại của nó càng lâu dài.

Thời trước hình như những người cầm bút không có ai sợ chính quyền. Em muốn nói thời phong kiến, thực dân. Chẳng lẽ chính quyền lúc bấy giờ có ý thức đào tạo một thế hệ cầm bút có bản lĩnh hơn dám nói sự thật.

Đó chỉ là cách nói vui. Nghĩ cũng lạ thật. Nỗi sợ cứ như một bệnh dịch lây truyền cả giới cầm bút. Khổ nỗi, tại sao người cai trị không muốn làm dân quý, dân mến mà chỉ muốn làm dân sợ. Tại sao cái chế độ do mình, con em mình đổ xương máu góp phần tạo dựng nên lại làm mình phải sợ đến thế. Nó là cái gì vậy. Suốt đời cầm bút trong đầu cứ lởn vởn câu hỏi: Tại sao. Chỉ có thể lý giải như thế này. Bản thân thằng cầm bút hèn. Không dám quẳng bút làm nghề khác.

Cũng có đấy chứ anh.

Nhưng là của hiếm, đếm không quá mười đầu ngón tay. Họ là những người anh hùng.

Theo anh bác Nguyễn thế nào?

Mình kể cậu nghe chuyện này.

***

Chương viết thêm: Chuyện Nguyễn Tuân và những đứa con của mình

Người ta kể chuyện một đêm nọ, Nguyễn Tuân đang lơ mơ ngủ bỗng nghe có tiếng gõ cửa. Tiếng gõ se sẽ nhưng cấp bách. Ai tới vào giờ này nhỉ. Bạn bè biết ông không bao giờ tiếp ai mà không có hẹn. Tiếng gõ vẫn tiếp tục. Không dừng được, ông hé cửa nhìn ra. Trời đất không phải người hay ma quỷ. Mà những đứa con yêu quý một thời mang nặng đẻ đau của ông. Không phải như những cái thai của các bà mẹ cứ đủ 9 tháng 10 ngày là lọt lòng chào đời. Mà có cái phải hàng vài năm hoặc hàng chục năm trời.

Ông nhìn quanh quất ngoài đường. Giờ này không còn ai nữa. Những người quét rác khuya, những xe phở, lục tào xá đã về nhà từ lâu. Bên ngoài gió rét căm căm. Lòng thương con đã thắng nỗi sợ trong lòng người bố. Ông mở hé cửa cho từng đứa lọt vào. Này là thằng “Chùa Đàn”. Này là “Tùy bút Nguyễn Tuân”, này là “Chém treo ngành”, này là “Vang bóng một thời”. Nhiều lắm… lớn bé một bầy, thậm chí ông không nhớ hết tên.

Khi tất cả đã ngồi quanh bàn. Không khí trở nên im lặng nghiêm trọng. Ông rụt rè hỏi: Lúc bọn con tới có ai nhìn thấy không?

Ai là sao hả bố? Sao bố lại hỏi thế? “Bọn trẻ” nhao nhao hỏi.

Ý bố muốn nói bọn mật thám, phòng nhì hở bố. Bây giờ làm gì còn bọn chúng nữa.

Ý bố muốn nói… tuyên huấn, tuyên giáo đó. Họ còn đáng sợ hơn bọn phòng nhì của Pháp.

Nhưng bố có phải là phản động đâu. Tất cả chẳng phải là đồng chí, đồng rận của bố à? Mà bọn con sinh ra, trừ những đứa em mới sinh sau này, đều là trước 45 cả. Tại sao bố phải từ chúng con. Hôm nay bọn con tới đây trước là thăm bố, sau là để hỏi cho rõ chuyện đó.

Nhà văn cảm thấy run run: Chẳng lẽ chúng nó định mở “phiên tòa” ngay đây. Nhưng chắc chẳng làm gì có chuyện đó. Tất cả là những đứa con yêu quý ông rút ruột đẻ ra. Có điều chúng nó chưa hiểu. Đành phải thú thật với chúng nó.

Bố sợ…

Chúng con có làm hại ai đâu. Chúng con đã làm bố nổi tiếng ít ra cũng một thời. Nói thật, nếu không có bọn con thì ai biết được Nguyễn Tuân là ông bà nào. Tại sao bố lại từ bỏ bọn con.

Bố thề không từ bỏ đứa nào cả. Một chữ, một câu cũng không? Bề ngoài bố làm thế là để được sống. Bố còn tồn tại đến bây giờ là do bố biết sợ.

Bố nổi tiếng nghênh ngang, ngông cuồng mà không bằng bác Nguyên Hồng. Bác ấy cảm thấy tình hình không ổn bèn vứt bỏ tất cả, lếch thếch dắt vợ con kéo lên rừng, không phải để làm lại cuộc Cách mạng, mà để tự do viết, tự do sống khổ, sống sở sau khi thốt ra một câu để đời: “Tao đếch chơi với bọn chúng nó”. Đúng là chất của bác ấy.

Ừ, bố không bằng bác ấy. Bố chỉ được cái ngông thôi. Cái ngông được “hệ thống” cho phép. Bố có lỗi với các con, bố nói lại, đó chỉ là bên ngoài thôi.

Thời Tây bố không sợ thằng nào, thời nay sao bố nhát thế, bố lại là đồng chí với họ.

Dài dòng lắm các con ạ… Mà lúc đó đâu phải chỉ có bố từ bỏ các con. Bác Hoài Thanh cũng từ bỏ “Thi nhân Việt Nam” – đứa con độc nhất của mình. Nhiều nhà văn khác cũng làm những động tác giả như vậy. Còn cố nặn, cố vẽ thêm những tội lỗi không đáng có để chứng tỏ sự xám hối chân thật của mình. Còn một động tác nữa cũng quan trọng không kém. Hồi đó mỗi nhà văn lớn, nhỏ muốn chứng minh cho Đảng thấy được sự vững vàng về tư tưởng đều cố nặn ra một bài viết đánh đồng chí, đồng nghiệp của mình. Một sự tra tấn tinh thần và thể xác khủng khiếp. Chưa có nước nào, thời nào nhà văn hèn nhát như vậy.

Sao bố không làm như bác Hữu Loan bẻ bút về quê làm thuê kiếm sống, và nhiều người khác nữa.

Thú thật với các con bố không có cái gan đó. Cách sống ngông nghênh của bố đã biến bố trở thành tù nhân của chính mình… Không dám viết, không dám nói. Tóm lại là cái ngông nghênh của một anh hèn. Bố có câu nói nổi tiếng: “Tôi sống được là nhờ biết sợ” và câu nói này của nhà thơ Lê Đạt: “Sợ không dám làm người”. Câu đó còn khủng khiếp hơn.

Có tiếng gà gáy ở nhà bên. Bọn trẻ đứng dậy: Vậy là tụi con hiểu rồi. Vâng, bố không thể làm khác được. Khi đàn con kéo ra khỏi phòng, nhà văn ngấp nghé nhìn ra cửa xem tụi nó ra có ai trông thấy không…”.

Nhà báo trẻ thốt lên: Câu chuyện quá hay và… lạ, hiếm thấy trong văn học thế giới.

Mình khác với ông Nguyễn Tuân, ông từ bỏ những đứa con, dầu chỉ là động tác giả. Ngược lại những “đứa con” từ bỏ mình trước và sau khi chết. Chẳng phải đợi tới lúc chế độ này kết thúc đâu. Cậu có biết Dương Tường nói về mình như thế nào không? Trong Khải có hai con người, một Nguyễn Khải khôn khéo giả dối và một Nguyễn Khải thành thật trắng trợn. Một Nguyễn Khải hèn nhát và một Nguyễn Khải khinh ghét tay Nguyễn Khải hèn nhát kia. Và sự tranh chấp hai con người ấy không bao giờ ngã ngũ.

Theo anh nhận xét đó có đúng không?

Mình muốn nhắn với Dương Tường nhận xét của cậu chỉ đúng một nửa. Cuộc tranh chấp giữa hai gã ấy đã ngã ngũ từ lúc mình còn trên kia, lúc cận kề cái chết.

Nhà báo trẻ chợt hỏi: Anh có nhận xét gì về hai “gã” đó không?

Gã thứ nhất cho mình cuộc sống, miếng cơm, chút danh vọng hảo. Nhưng rồi lại “giết chết” luôn nhà văn. Nói như nhà thơ họ Chế: “Muốn nuôi thân xác phải bán linh hồn” nói chính xác hơn là phải bán rẻ linh hồn. Còn gã thứ hai thì trả lại cho nhà văn chút danh dự khi không còn trên cõi đời. Âu đó cũng là niềm an ủi.

Nhà báo sau một hồi suy nghĩ: Kể về hèn thì hầu như người cầm bút dưới thời Cộng sản phần lớn đều hèn. Nhưng nói như nhà thơ Lê Đạt: “Nguyễn Khải là một thằng hèn đáng trọng”.

Mình nghĩ đó là sự rộng lượng của nhà thơ, ông ấy an ủi vong linh mình.

Đảng hay những người lãnh đạo của Đảng có cái tài làm cho mọi người trở nên hèn từ người dân cho tới trí thức. Vì yếu hèn mới dễ sai khiến hơn nhưng họ không hiểu rằng làm như thế dân tộc, đất nước yếu đi.

Sau một lát, nhà báo trẻ chợt hỏi: Mấy chục năm cầm bút anh hiểu phương pháp hiện thực Xã hội Chủ nghĩa là gì? Và anh đánh giá nó như thế nào? Nó có phải là rào cản, là nguyên nhân vì sao cả suốt mấy chục năm văn học nghệ thuật Việt Nam không có những tác phẩm đỉnh cao.

Câu hỏi thú vị đấy, mình sẽ trả lời bằng một mẩu truyện ngắn đọc được lúc còn trên đó, khi nó còn dưới dạng bản thảo.

***

Chương viết thêm: Bức chân dung đẹp nhất hay ông vua chột và nhà họa sĩ

Có một ông vua độc tài nọ muốn có một bức chân dung của mình để lưu truyền hậu thế. Nhà vua ra lệnh bức tranh phải được vẽ đẹp và thật. Các họa sĩ trong nước đều lúng túng vì nếu vẽ thật thì không thể nào đẹp được bởi nhà vua bị chột. Dù xấu xí thì họa sĩ bất tài cũng có thể bằng cách này, cách nọ, hoặc dùng màu sắc hay bóng sáng tối che lấp đi được. Nhưng một mắt chột thì… quả là một lời thách đố. Khó hơn tìm ra một Châu Mỹ thứ hai.

Dẫu sao họa sĩ đầu tiên đã phải tới. Sau mấy ngày miệt mài vẽ đi vẽ lại cuối cùng bức tranh cũng hoàn thành. Mọi người đều khen không những bức tranh giống đức vua mà còn lột tả một cách tài tình thần thái của người mẫu. Con mắt chột cũng được ngọn bút tài hoa của họa sĩ diễn tả một cách trung thực.

Một tác phẩm như thế tất nhiên sẽ bị đức vua sổ toẹt. Đức vua không muốn chân dung mình xấu. Họa sĩ bị phạt về tội khi quân.

Họa sĩ thứ hai tới. Người tới sau bao giờ cũng có cơ may hơn người tới trước, vì biết rút ra được bài học.

Song cái khó vẫn là… con mắt chột. Để khỏi phải vẽ nó như thật, họa sĩ vẽ đức vua đang ngủ. Lúc ngủ thì mắt ai cũng như nhau. Họa sĩ xoa tay tự bằng lòng: Ừ, mình khôn thật. Bức tranh được hoàn thành nhanh chóng. Họa sĩ đinh ninh đức vua sẽ bằng lòng. Nhiều người xem tranh khen họa sĩ sáng ý. Nhưng rồi tác phẩm cũng bị đức vua gạt bỏ. Đức vua phán:

Ta phải thức! Dẫu còn một mắt ta cũng phải thức để trông coi đất nước và ngai vàng. Ngươi phải biết điều đó chứ!

Họa sĩ thứ ba được triệu tới. Vợ con bạn bè lo lắng. Liệu tài năng ông có hơn hai người kia không. Bà vợ hỏi. Tôi có cách của tôi bà khỏi lo đi.

Bạn bè góp ý. 36 cách, cách tốt nhất ông nên cáo bệnh hoặc trốn ngay đi.

Xin mọi người cứ an tâm. Họa sĩ nói. Tôi đi vài hôm lại về. Ông hôn vợ con và từ biệt bạn bè.

Họa sĩ tới Kinh Đô gặp đức vua.

Như có thần linh giúp đỡ, sau mấy ngày làm việc căng thẳng, một hôm họa sĩ bỗng kêu lên: Ôi Thần đã tìm ra rồi. Họa sĩ vui sướng như lúc Arcimet tìm ra được định luật nổi tiếng khi nhà vật lý đang trong bồn tắm. Họa sĩ vẽ đức vua ở tư thế nhìn nghiêng. Con mắt chột xấu xí được họa sĩ khôn khéo giấu đi khỏi phải đưa vào tác phẩm. Và tất nhiên bức tranh được nhà vua đánh giá cao.

Giỏi, giỏi ngươi xứng đáng là họa sĩ tài ba. Đức vua nói.

Họa sĩ trở về quê với phần thưởng lớn. Mọi người tới chúc mừng. Và tất nhiên sau đó câu hỏi được đặt ra.

Vậy ông vẽ theo trường phái nào? Mọi người náo nức chờ câu trả lời.

Theo trường phái hiện thực một nửa. Họa sĩ trả lời.

Mọi người đều lạ lẫm. Từ cổ chí kim chưa nghe ai nói tới trường phái đó.

Vậy ông học được nó ở đâu?

Ở các nước xã hội chủ nghĩa.

Mọi người cười ồ. Quả là quá đơn giản. Cái tốt bày ra, cái xấu đậy lại.

Hóa ra trong nhiều cái dở, đôi khi có cái dở cũng có ích. Ít nhất cứu một họa sĩ thoát nạn(1).

____

(1)  Trích trong tập truyện ngắn: “Chiếc bóng của tôi”­ (Văn Biển) chưa xuất bản.

Bình Luận từ Facebook